Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

các giải pháp quản lý môi trường nông nghiệp, nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.47 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
LỚP QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG KHÓA 22
Môn học: Quản lý môi trường nông nghiệp và nông thôn
CHUYÊN ĐỀ 3
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 12, năm 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
LỚP QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG KHÓA 22
Môn học: Quản lý môi trường nông nghiệp và nông thôn
CHUYÊN ĐỀ 3
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN
GVHD PGS.TS.Trương Thanh Cảnh
HVTH Phạm Minh Long
Hồ Xuân Lịch
Kiều Thị Phương Loan
Lê Trương Ngọc Hân
Đỗ Thị Bích Ngọc
Trần Ngọc Thanh
Nguyễn Thành Trí
Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 12, năm 2013
MỤC LỤC
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH
4
DANH MỤC VIẾT TẮT
FAO :Tổ chức Nông Lương Thế giới


BVTV : Bảo vệ thực vật
Bộ NN và PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
NQ-TW : Nghị định Trung ương
UBND : Ủy ban nhân dân
CTR : Chất thải rắn
5
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với các ưu thế về điều kiện tự nhiên và khí hậu, nông nghiệp là một ngành
truyền thống ở Việt Nam. Lượng sản phẩm tạo ra từ ngành này không chỉ đáp ứng cho
nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài đem lại nguồn thu nhập
lớn cho đất nước. Năm 2012 sản lượng lúa đạt mốc 43,7 triệu tấn, cao nhất từ trước
đến nay. Kim ngạch xuất khẩu nông sản chính năm 2012 đạt 14,9 tỷ USD, tăng gấp 8
lần so với năm 2001 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Mặc dù có những đóng góp cho nền kinh tế quốc gia nhưng dưới sự phát triển
của khoa học công nghệ và đòi hỏi nâng cao năng suất, sản xuất nông nghiệp ngày
càng gây ra những vấn đề ô nhiễm không chỉ đối với môi trường nói chung mà môi
trường nông nghiệp nông thôn nói riêng. Hiện trạng ô nhiễm trong các hoạt động sản
xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng.
Là một nước có nền nông nghiệp truyền thống, lượng dân cư tập trung sinh sống
tại các vùng nông thôn Việt Nam chiếm 70% tổng dân số. Các xung đột trong quản lý
và sử dụng đất đai, cụ thể là đất nông nghiệp; điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn;
các định kiến làng xã… đặt ra những vấn đề cấp thiết đối với công tác quản lý môi
trường nông thôn hiện nay.
Thực trạng này đặt ra vấn đề cấp thiết là phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp để
giảm thiểu và khắc phục các vấn đề tồn tại trong môi trường nông nghiệp nông thôn.
Đây là vấn đề mang tính đa ngành và cần những giải pháp tổng hợp trên nhiều phương
diện. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi thực hiện tiểu luận về “Các giải pháp quản lý

môi trường nông nghiệp nông thôn”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định các vấn đề môi trường trong môi trường nông nghiệp nông thôn Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp để giải quyết các vấn đề này.
1.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiểu luận gồm các nội dung nghiên cứu sau:
− Các vấn đề môi trường trong môi trường nông nghiệp
− Giải pháp cho các vấn đề của môi trường nông nghiệp
− Các vấn đề môi trường trong môi trường nông thôn
− Giải pháp cho các vấn đề của môi trường nông thôn
1.4. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: các vấn đề môi trường trong phạm vi môi
trường nông nghiệp nông thôn.
6
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Môi trường nông nghiệp
2.1.1. Định nghĩa
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người
phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm như
lương thực, thực phẩm để thoả mãn các nhu cầu của mình.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp. Như
vậy, nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Những điều kiện
tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, bức xạ mặt trời trực tiếp ảnh
hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp cũng là ngành sản
xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ gặp rất
nhiều khó khăn. Ngoài ra sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn liền với những
phương pháp canh tác, lề thói, tập quán đã có từ hàng nghìn năm nay.
Ở các nước nghèo, nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và thu

hút một bộ phận quan trọng lao động xã hội.
2.1.2. Đặc điểm môi trường nông nghiệp Việt Nam
Nền nông nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình và mang tính
chất tự phát. Nhà nước đã có những chính sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp trên
nhiều lĩnh vực: khoa học công nghệ, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, hỗ trợ vốn cho
nông dân…
Ở Việt Nam vấn đề phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn là
một vấn đề mới. Đặc biệt trong 20 năm đổi mới vừa qua bên cạnh những thành tựu mà
chúng ta đạt được thì thực tiễn cũng đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách thức khi
xây dựng nền nông nghiệp theo hướng bền vững. Những thách thức đó là :
+ Hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên.
+ Giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp còn rất thấp
+ Ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún không phù hợp với yêu cầu của
việc sản xuất hàng hoá lớn, tập trung.
+ Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản
xuất tiên tiến còn diễn ra chậm chạp. Hầu hết các khâu sản xuất ở những vùng nông
nghiệp đều làm thủ công, dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp rất thấp.
+ Việc sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích
sinh trưởng một cách tuỳ tiện đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi
trường sinh thái, dẫn đến thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại đến sức khoẻ
7
con người.
+ Đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp không ổn định ảnh hưởng trực tiếp đến
thu nhập của cư dân nông nghiệp, tạo ra sự phân hoá giầu nghèo ngày càng sâu rộng
trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn.
+ Công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển mạnh ở nhiều
vùng nông thôn, thu hút khoảng trên hai triệu việc làm. Song công nghệ sản xuất còn
lạc hậu, sức cạnh tranh kém, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm là những nguyên nhân
chính gây cản trở cho sự phát triển ổn định của khu vực này. Bên cạnh việc có những
mặt tác động tích cực, nhưng do phát triển thiếu quy hoạch và thiếu đầu tư thoả đáng

cho bảo vệ tài nguyên và môi trường, khu vực sản xuất này đang gây ô nhiễm môi
trường sống cho các cộng đồng dân cư nông thôn, đặc biệt tại một số làng nghề nơi
sản xuất đông dân cư.
2.2. Nông Thôn
2.2.1. Định nghĩa
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền
với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền
kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế vừa có những
đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh
tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ trong đó
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt kinh tế - xã
hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế cá thể Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm
các vùng như: vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn
quả
(1). Khái niệm về Nông thôn
Theo Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách
tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn: Nông thôn là phần lãnh thổ không
thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính
cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Nông thôn Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số
sinh sống.
(2). Khái niệm về Nông thôn mới
Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về Nông thôn mới. Tuy nhiên, theo
Nghị quyết số 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp,
8
nông dân, nông thôn, thì Nông thôn mới được hiểu là:
− Có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.

− Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.
− Xã hội – nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
− Dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ.
− Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
2.2.2. Đặc điểm môi trường nông thôn Việt Nam
(1). Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội nông thôn
− Khi con người biết trồng trọt thì dần dần định cư, nông thôn hình thành. Nền văn
minh săn bắn, hái lượm chuyển sang nền văn minh chăn nuôi, trồng trọt, công xã nông
thôn ra đời thay thế cho công xã thị tộc. Công xã nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho
nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển. Trồng trọt và chăn nuôi phát triển lại đòi hỏi
phải trao đổi những sản phẩm làm ra, đòi hỏi phải có những công cụ để sản xuất. Do
đó, từ công xã nông thôn dần dần xuất hiện xã hội đô thị và sau đó là nền văn minh
công nghiệp ra đời.
− Một số quan điểm cho rằng: Xã hội đô thị hình thành dựa trên cơ sở của xã hội nông
thôn nhưng khi nó phát triển lại trở thành lực lượng bóc lột nông thôn, đẩy nông thôn
xuống lạc hậu, đói nghèo. Đến một mức độ nhất định sự lạc hậu, chính sự đói nghèo
của nông thôn kìm hãm sự phát triển của nông thôn. Ngày nay, sự phát triển hài hoà
của nông thôn và đô thị đi cùng với sự phát triển của văn minh tin học. Trong tương lai
xã hội nông thôn và xã hội đô thị không có ranh giới ngăn cách.
− Sự xích lại gần nhau giữa nông thôn và đô thị là quá trình làm cho nông thôn phát
triển cả về kinh tế và xã hội lên ngang với sự phát triển chung của xã hội đô thị, là quá
trình làm cho các yếu tố tích cực tốt đẹp của đô thị xâm nhập vào nông thôn và ngược
lại.
(2). Đặc điểm của xã hội nông thôn
− Sinh thái nông thôn mang nhiều yếu tố tự nhiên: Nhà, vườn, ao, ruộng. Chúng
thường gắn với những điều kiện địa lý sẵn có, ít được cải tạo nên chưa thuận tiện cho
sinh hoạt giao lưu kinh tế văn hoá…
− Kinh tế nông thôn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp (thường chiếm từ 50% lao động
trở lên). Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chính, ngoài ra còn có các nghề thủ công,

chế biến lương thực, thực phẩm, buôn bán nhỏ theo hộ gia đình.
− Chính trị ở nông thôn: Ngoài hệ thống chính quyền xã, ấp, thôn do Nhà nước điều
hành trên cơ sở pháp luật còn có hệ thống cương vị chức sắc trong dòng tộc, già làng,
thân thuộc, tôn giáo… điều chỉnh hành vi của các thành viên bằng tục lệ những quy
9
ước ngoài pháp luật (phép vua thua lệ làng). Sự cưỡng chế việc thực hiện chuẩn mực
đó là uy tín, danh dự, dư luận xã hội. Hệ thống chính quyền pháp luật nhiều khi không
có hiệu lực bằng hệ thống dòng tộc, tôn giáo, và các chuẩn mực có tính quy ước trên.
− Văn hoá nông thôn chủ yếu là văn hoá dân gian, thông qua lễ, hội, ca hát, hò, vè, kể
chuyện… để truyền những giá trị thẩm mỹ, đạo đức, lối sống, kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm sản xuất… từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hoá nông thôn đã bảo tồn được
những giá trị quý báu mang tính truyền thống, nhưng nó cũng chứa đựng những yếu tố
không có lợi cho sự phát triển.
(3). Đặc điểm của nông thôn Việt Nam
− Hiện nay ở nước ta có 85% dân cư sống ở vùng nông thôn. Xã hội nông thôn Việt
Nam là xã hội nông thôn vùng Đông Nam Á. Nó vừa mang tính chất của xã hội nông
thôn vùng Đông Á, vừa mang tính chất xã hội nông thôn vùng Nam Á. Xã hội nông
thôn vùng Đông Á chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ. Làng
xóm quần tụ trên một mảnh đất nhỏ, xung quanh là đồng ruộng. Trong làng một vài
dòng họ sống với nhau từ lâu đời, với nền kinh tế tự cung tự cấp, với hệ thống của
những quy ước riêng đặc trưng cho cộng đồng dân cư đó.
− Xã hội nông thôn vùng Nam Á ở phần lớn là miền đất xã ấp rải theo bờ kênh, đường
bộ gồm nhiều gia đình ở nhiều nơi khác nhau quần tụ thành, ít gắn bó với tục lệ, dòng
họ mà gắn bó với nhau bằng công việc làm ăn, với một nền sản xuất hàng hoá đã có
những tiền đề phát triển. Nông thôn Việt Nam cũng có những đặc trưng đó.
− Nông thôn miền Bắc và miền Trung còn mang nhiều đặc điểm xã hội nông thôn
Đông Á. Xã hội nông thôn miền Nam còn lưu lại những đặc điểm của xã hội nông
thôn Đông Á nhưng chủ yếu là những đặc trưng của xã hội nông thôn Nam Á.
10
CHƯƠNG 3

MÔI TRƯỜNG NÔNG NGHIỆP
3.1. Các vấn đề môi trường nông nghiệp
3.1.1. Hiệu quả đầu tư thấp
Theo báo cáo giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật đầu tư công cho
tam nông do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện thì đầu tư công cho nông nghiệp
tăng lên rõ rệt thời gian qua, nhưng vẫn còn dàn trải, lãng phí, khiến cho hiệu quả đầu
tư không cao.
(1). Vốn đầu tư tăng nhanh
Giai đoạn 2006 – 2011, tổng vốn đầu tư công cho tam nông từ nguồn ngân
sách nhà nước (NSNN) và trái phiếu Chính phủ là 432.788 tỷ đồng, bằng gần 50%
tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và trái phiếu Chính phủ. Ngoài ra, trong giai
đoạn này, tổng giá trị hiệp định về ODA đã được ký kết hơn 26,897 tỷ USD, chiếm
trên 94% là nguồn vốn vay ưu đãi, trong đó vốn đầu tư dành cho nông nghiệp, thủy
lợi, lâm nghiệp, thủy sản phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, giảm nghèo
là 3,833 tỷ USD.
Dư nợ cho vay theo cơ chế tín dụng thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn cũng tăng trưởng qua các năm với tốc độ tăng bình quân 24%/năm. Tính
đến hết năm, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng đạt gần
500 nghìn tỷ đồng, tăng 30,64% so với thời điểm một năm trước và gấp hơn 3 lần so
với dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tại thời điểm cuối năm 2006.
Cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn được đầu tư lớn. Đến nay, tổng năng
lực tưới thiết kế của hệ thống thủy lợi đạt khoảng 3,45 triệu ha đất canh tác. Các công
trình thủy lợi còn đáp ứng mục tiêu ngăn mặn cho 0,87 triệu ha, cải tạo chua phèn 1,6
triệu ha, duy trì cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp trên 5,650 tỷ m3/năm.
Đến năm 2011, đã có 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện.
(2). Đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả
Tuy vậy, theo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, còn nhiều hạn chế, yếu
kém trong đầu tư công cho tam nông. Cụ thể là, nguồn lực đầu tư còn thiếu so với nhu
cầu. Vốn FDI đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất thấp và có xu hướng giảm dần, từ
tỷ lệ 8% trong tổng cơ cấu FDI của cả nước năm 2001 xuống còn 1% năm 2010. Tính

chung cả thời kỳ 1999 – 2010, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn mới thu hút
được khoảng 738 dự án (không kể các dự án chế biến thực phẩm) với tổng vốn đầu tư
đăng ký là 4,3 tỷ USD, chiếm 2,3% trong tổng số vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
11
Qua công tác thanh tra, kiểm tra, cơ quan chức năng đã phát hiện 220 vụ việc vi
phạm trong lĩnh vực quản lý đầu tư, gây thiệt hại cho Nhà nước hàng chục tỷ đồng
Kiến nghị xử lý theo pháp luật 278 đối tượng và 33 doanh nghiệp, đơn vị thiết kế, thi
công, thu hồi cho Nhà nước 21,7 tỷ đồng. Kiến nghị xử lý tài chính Chương trình 134
hơn 19 tỷ đồng, Chương trình 135 hơn 97 tỷ đồng, Chương trình mục tiêu quốc gia
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn hơn 75 tỷ đồng.
Báo cáo cho rằng, tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn không
cao. Ví dụ về đầu tư thiếu đồng bộ, thi công kéo dài gây lãng phí nguồn lực được
nêu ra là Dự án hồ chứa nước Sông Móng (Bình Thuận). Dự án có tổng mức đầu tư
hơn 207 tỷ đồng, tưới cho 4.670ha đất canh tác nông nghiệp và điều tiết lũ cho hạ
du và vùng phụ cần.
Công trình được bố trí vốn trái phiếu Chính phủ năm 2008, 2009 là 133,3 tỷ đồng
(còn thiếu hơn 74 tỷ). Nhưng năm 2010, 2011, công trình không được tiếp tục bố trí
vốn trái phiếu Chính phủ dù hệ thống kênh đang thi công dở dang làm nhà thầu phải
tạm dừng, công trình không đảm bảo tiến độ. Hiện hồ đã tích trên 34 triệu m3 nước
nhưng chưa được sử dụng hiệu quả
3.1.2. Chính sách sử dụng đất đai
3.1.2.1. Vấn đề chính sách đất đai đối với nông nghiệp và nông dân
(1). Chính sách đất đai là vấn đề phức tạp nhất, nhạy cảm nhất và là nút thắt cơ bản
nhất trong pháp luật về chế độ quản lý đất đai của Nhà nước ta.
Pháp luật hiện hành quy định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, Nhà nước thống
nhất quản lý. Với định hướng này, mặc dù xác định đất đai là một yếu tố thị trường,
quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt, người dân được thụ hưởng các quyền về
quyền sử dụng đất, mà các quyền cụ thể này qua những lần sửa đổi Luật đất đai năm
1993, đã nới rộng dần, gần đến mức của quyền sở hữu tư nhân, nhưng trong vận hành
cụ thể đang còn nhiều lúng túng, mập mờ, không minh bạch, đang là một “nguyên

nhân nguồn” của tình trạng lãng phí đất đai, lợi dụng kẽ hở của luật để xâm phạm lợi
ích của dân và Nhà nước, gây nên khiếu kiện đất đai phức tạp, kéo dài và tình trạng
tham nhũng (thông qua thi hành Luật đất đai) nghiêm trọng, gây nên bất bình trong dư
luận xã hội.
(2). Đất đai là “địa bàn phân bổ cơ sở vật chất xã hội”, là “tư liệu sản xuất cơ bản
của sản xuất nông nghiệp”, đất đai cũng là tài sản đặc biệt ở chỗ diện tích là hữu hạn,
năng suất là vô hạn, có nghĩa là nếu quản lý tốt, sử dụng có hiệu quả thì với nguồn tài
nguyên về đất đai có hạn có thể tạo ra nguồn của cải vô hạn cho đất nước và nhân
dân.
Từ đó, muốn giải quyết cơ bản thể chế quản lí đất đai thì nên xem xét lại về chế
12
độ sở hữu, là vấn đề gây tranh cãi dai dẳng, tuy không dễ được chấp nhận, nhưng phải
dám nhìn thẳng vào sự thật để có cách tiếp cận gần tới mức chuẩn chân lý của cuộc
sống.
Trên tinh thần đó, đề nghị thừa nhận chế độ đa sở hữu đất đai ở nước ta, với nội
dung là:
- Một số loại đất phải thuộc sở hữu Nhà nước gồm các loại đất phải do Nhà nước
quản lí để sử dụng vì lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc
phòng của đất nước như mặt nước biển, rừng đặc dụng…
- Một số loại đất thuộc sở hữu cộng đồng (không phải sở hữu tập thể) do cộng
đồng quản lí và sử dụng phục vụ lợi ích cộng đồng như một số diện tích rừng phòng
hộ, diện tích mặt nước lớn…
- Một số loại đất thuộc sở hữu tư nhân do người dân quản lí và sử dụng phục vụ
lợi ích gia đình và cá nhân, chủ yếu là đất nông nghiệp. (Có thể có cách tiếp cận như
sau: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật,
được giao cho các chủ thể trực tiếp quản lý và sử dụng dưới sự quản lý thống nhất của
Nhà nước).
- Một số loại đất được giao cho Nhà nước quản lý trực tiếp để sử dụng vì lợi ích
chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng vì lợi ích đất nước như
mặt nước lớn, rừng đặc dụng, v.v.

- Một số loại đất được giao cho cộng đồng dân cư trực tiếp quản lý và sử dụng để
phục vụ lợi ích cộng đồng như một số diện tích rừng phòng hộ, mặt nước lớn, v.v.
- Một số loại đất được giao cho các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý và sử dụng
vì lợi ích của các tổ chức, cá nhân, chủ yếu là đất nông nghiệp.
Đây không phải là tư nhân hóa đất đai mà là chế độ đa sở hữu về đất đai. Dù là
loại hình sở hữu nào, đất đai vẫn do Nhà nước thống nhất quản lí theo quy định của
pháp luật.
Có một số người cho rằng giao quyền sử dụng đất lâu dài cho dân vô thời hạn đã
là đủ, không cần đề ra sở hữu tư nhân về đất đai. Phải xin nói rằng việc giao quyền sử
dụng đất cho dân dù với thời gian là vô hạn và việc giao quyền sở hữu đất đai cho dân
vẫn có sự khác nhau về bản chất kinh tế. Khi nói đất là hàng hóa, dù là hàng hóa đặc
biệt thì giá đất giao dịch trên thị trường phải theo quy luật thị trường có sự thỏa thuận
giữa người mua đất và bán đất, đảm bảo công khai và minh bạch. Khi Nhà nước và
nhà đầu tư cần sử dụng đất của dân thì mua lại theo giá thỏa thuận. Về lý luận cũng
như thực tiễn không thể có thị trường đích thực về quyền sử dụng đất mà chỉ có thị
trường đích thực về đất gắn với quyền sở hữu.
Thực hiện chế độ đa sở hữu về đất đai cũng là giải pháp tháo gỡ nút thắt cuối
cùng về vướng mắc trong chế độ quản lí đất đai của nước ta và cũng là một khâu quan
trọng để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường về bất động sản trong thời điểm hiện
13
nay.
(3). Khi đề ra chủ trương chuyển một phần đất đai sang chế độ sở hữu tư nhân thì
phải đề ra ngay những định chế quản lí phù hợp:
- Đảm bảo quyền định đoạt của Nhà nước về quản lí đất đai: Luật phải quy định
Nhà nước có quyền quản lí về mục đích sử dụng, không cho phép tùy tiện chuyển mục
đích sử dụng; Nhà nước được quyền mua lại đất của tư nhân để phục vụ lợi ích quốc
gia hoặc cho nhà đầu tư thuê lại nhưng phải tuân thủ giá thị trường, nghĩa là phải chấp
nhận giá mua cao hơn hiện nay, nhưng chính vì việc mua bán theo giá thị trường như
vậy, lại tạo điều kiện cho nhà nước và nhà đầu tư phải cân nhắc việc mua đất của dân,
cần đến đâu mua đến đó, mua rồi thì phải sử dụng ngay và sử dụng có hiệu quả và

cũng thúc đẩy các nhà đầu tư đi tìm những chỗ đất có giá rẻ hơn, hạn chế việc xâm
phạm những vùng đất “bờ xôi ruộng mật” đang sử dụng có hiệu quả cao cho sản xuất
nông nghiệp; đảm bảo quyền của Nhà nước về thu thuế khi mua bán đất đai và thay
đổi mục đích sử dụng, từ đó những chênh lệch về địa tô phải rơi vào tay Nhà nước để
phục vụ lợi ích của đất nước, nhưng vẫn đảm bảo lợi ích của dân, chặn đứng dòng
chảy của chênh lệch địa tô rơi vào tay những nhà đầu tư cơ hội gắn với quyền lợi các
nhóm lợi ích.
- Đảm bảo không để đất nông nghiệp sử dụng tùy tiện:
Nhà nước có quyền quản lí tối thượng về sử dụng đất. Việc chuyển đổi đất nông
nghiệp sang phi nông nghiệp được quy định minh bạch trong pháp luật. Không những
vậy, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên đất nông nghiệp cũng phải có quy
định cụ thể, nhất là những quy định về quy hoạch, về thuế, về xử phạt để người nông
dân phải sử dụng đất theo quy hoạch được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước phê
duyệt.
- Phải quy định cụ thể về việc cho người nước ngoài thuê đất kể cả thuê đất làm
nông nghiệp.
Việc cho người nước ngoài thuê đất phải thông qua những “quy định cứng”,
chẳng hạn người nước ngoài muốn thuê đất phải được cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước phê duyệt, sau đó Nhà nước lấy đất thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc mua lại của
dân để cho nhà đầu tư nước ngoài được thuê lại và phải nộp thuế theo quy định của
pháp luật.
(4). Việc xác định chủ sở hữu đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân người làm
nông nghiệp được coi là một giải pháp hiệu quả nhất.
Tổng kết lịch sử phát triển nông nghiệp trong gần 60 năm qua từ năm 1954 –
2011, trong đó có 21 năm hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 và 37 năm sau ngày
thống nhất đất nước năm 1975, đứng trên góc độ về chính sách đất đai của Nhà nước
ta, có thể đưa ra nhận xét sau đây:
14
- Từ thời kì 1954 – 1988: Kể từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 đến
thời điểm Bộ chính trị ra Nghị quyết 10 năm 1988 cho thấy suốt trong 34 năm đó sản

xuất nông nghiệp nhất là sản xuất lúa của nước ta rất lạc hậu, bấp bênh, liên tục phải
nhập khẩu lương thực mà dân vẫn thiếu ăn và có hàng triệu người đói.
Sản xuất lúa lên xuống thất thường, trong các năm 1976 – 1988 sản lượng lúa chỉ
đạt 11,8 đến 17,8 triệu tấn/năm. Trong 34 năm, trừ năm cải cách ruộng đất nông dân
được chia ruộng sau đó thực hiện chủ trương phát triển hợp tác xã, đất đai của nông
dân được tập thể hóa, sản xuất không phát triển, nhưng cũng có thời điểm nới lỏng một
phần quy định về quyền tự chủ của nông dân như khoán hộ theo Chỉ thị 100 vào năm
1981 thì sản lượng lúa có tăng lên được vài ba năm, sau đó nông dân lại không còn
động lực, sản xuất lúa lại sa xút, nền nông nghiệp rơi vào khủng hoảng từ năm 1985
đến năm 1987, gây nên cảnh 2 triệu người đói vào năm 1987 – 1988.
- Đến năm 1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10, quyết định giao quyền tự
chủ ruộng đất cho hộ nông dân và cho phép tự do hóa lưu thông nông sản hàng hóa.
Chỉ sau 1 năm, vào năm 1989 sản xuất lúa bùng nổ, tăng 2 triệu tấn so với năm 1988
(mặc dù các điều kiện về cơ sở vật chất và nông nghiệp không có gì đổi mới), xuất
khẩu 1,5 triệu tấn gạo, nạn đói kinh niên của Việt Nam đã cơ bản chấm dứt, tiếp sau đó
vào năm 1993, Nhà nước ban hành Luật đất đai mới và những quy định sửa đổi Luật
đất đai tiếp theo, đã giao quyền sử dụng đất đai đầy đủ cho nông dân cùng với tăng
vốn đầu tư và áp dụng khoa học công nghệ mới, đảm bảo trong 23 năm từ năm 1988 –
2011, chỉ có 4 năm 2001, 2005, 2006, 2007 sản lượng lúa không tăng giảm, trong 19
năm còn lại sản lượng lúa tăng liên tục, năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng
trưởng bình quân gần 5%/năm, sản lượng lúa năm 2011 đã đạt 42,32 triệu tấn gấp hơn
2 lần sản lượng lúa đạt 17 triệu tấn năm 1988, có lượng gạo xuất khẩu tăng liên tục
trong suốt thời kì hơn 20 năm, năm 2011 xuất khẩu được trên 7 triệu tấn gạo.
3.1.2.2. Tác động của chính sách đất đai đối với sự chuyển biến quan hệ ruộng đất
trong nông nghiệp và phát triển nông thôn
(1). Tác động tích cực
Một trong những thành tựu nổi bật, khởi sắc của nông nghiệp Việt Nam trong thập kỷ
vừa qua là sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn đã thực sự được giải phóng.
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có nhịp độ tăng trưởng khá: giai đoạn 1986 – 2004,
nông nghiệp tăng trưởng 3,905%, đặc biệt giai đoạn 1996-2000 tăng trưởng cao 4,47%

là mức tăng trưởng lý tưởng để đảm bảo kinh tế phát triển và bảo đảm an ninh lương
thực của đất nước. Nhiều vùng nông thôn bước đầu đã được đổi mới, đời sống nhân
dân được cải thiện. Mức sống về vật chất tăng lên và các điều kiện sinh hoạt như nhà ở
của hộ gia đình gần như xấp xỉ 99,95%. Đồ dùng gia đình, kết cấu hạ tầng khu vực
nông thôn như giao thông: năm 1998 có 91,6% số xã có đường giao thông tới trung
15
tâm xã, đến năm 2000 có 94,6%; năm 1998: 82,9% số xã có điện, đến năm 2000 là
89,1%; năm 2000: 98,7% số xã thuộc khu vực nông thôn có trạm xá, 98,9% số xã có
trường học tiểu học; thủy lợi, bưu điện… ở một số vùng được phát triển mạnh. Tỷ lệ
hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 29% năm 1990 đến năm 2004 còn 11% (theo tiêu chí
của Việt Nam). Tăng tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ 72,46% giai đoạn
1996 – 2000 lên 76,58% giai đoạn 2001- 2004. Hiện có 1,35 triệu cơ sở ngành nghề
nông thôn, thu hút trên 10 triệu lao động, góp phần cải thiện đời sống nông dân và bộ
mặt nông thôn.
Sự biến đổi về quan hệ ruộng đất cũng đã tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ của
người nông dân và trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội ở nông
thôn, xây dựng nông thôn mới.
(2). Tác động tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, chính sách đất đai cũng làm nảy sinh những tiêu
cực mới:
Thứ nhất, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp và manh mún, quản lý sử dụng kém
hiệu quả. Với tốc độ tăng dân số bình quân từ năm 1990 đến năm 2004 là 1,6%/năm
làm đất canh tác ở các vùng nông thôn Việt Nam ngày càng bị thu hẹp lại. Theo Niên
giám thống kê năm 2003, tổng diện tích đất đai Việt Nam năm 2002 là 32929,7 nghìn
ha, nhưng đất đã giao và cho thuê là 24519,9 nghìn ha, chiếm tỷ trọng 74,46%. Trong
đó, đất nông nghiệp đã giao và cho thuê (nghĩa là được sử dụng) là 9406,8 nghìn ha,
chiếm 28,57% diện tích đất cả nước. Trong khi đó năm 2002 có 25,5725 triệu lao động
làm việc trong ngành nông nghiệp. Như vậy, bình quân mỗi một nông dân có 0,3678
ha đất canh tác, thuộc loại thấp nhất thế giới. Nếu chia bình quân đầu người cho mỗi
đơn vị đất đai được sử dụng để sinh sống thì khoảng 0,3 ha/người. Các khu vực trong

cả nước đất cũng phân bổ rất manh mún: ở đồng bằng sông Hồng bình quân đất nông
nghiệp/người là 0,0585ha, thấp nhất cả nước, kế đến là Bắc Trung Bộ 0,71 ha, Duyên
hải Nam Trung Bộ: 0,0796 ha. Cao nhất là Tây Nguyên 0,282 ha, đồng bằng sông Cửu
Long 0,175 ha.
16
Bảng . Hiện trạng sử dụng đất bình quân mỗi người theo địa phương
Phân theo vùng Dân số
năm
2003
(nghìn
người)
Tổng diện
tích
đất đai
(nghìn ha)
Đất nông
nghiệp
(nghìn
ha)
Bình
quân đất
/người
Bình quân đất
nông
nghiệp/người
Cả nước 80902,4 32929,7 9406,8 0,407 0,116
Đồng bằng sông
Hồng
17648,7 1480,6 855,2 0,0839 0,0485
Đông Bắc 9220,1 6532,8 916,3 0,709 0,099

Tây Bắc 2390,2 3563,7 413,6 1,491 0,173
Bắc Trung Bộ 10410 5151,3 736,3 0,495 0,071
Duyên hảiNam
Trung Bộ
6899,8 3306,6 549,4 0,479 0,0796
Tây Nguyên 4570,5 5447,5 1287,9 1,192 0,282
Đông Nam Bộ 128815 3473,8 1686,6 0,0269 0,131
Đồng bằng sông
Cửu Long
16881,6 3973,4 2961,5 0,235 0,175
Nguồn: Tính toán của tác giả từ Niêm giám thống kê Việt Nam năm 2003
Thứ hai, việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã và đang
đựơc triển khai trong cả nước nhưng một số nơi tiến hành còn chậm. Đây cũng là một
nguyên nhân dẫn đến lãng phí nguồn lực đất đai. Có đến 9404,7 nghìn ha đất chưa sử
dụng (năm 2002) chiếm 28,56% diện tích đất đai cả nước, tương đương với đất nông
nghiệp đã giao và cho thuê 9406,8 nghìn ha. Trong đó, đất bằng chưa sử dụng là 535,7
nghìn ha, chiếm 1,627% diện tích đất cả nước; đặc biệt đất đồi núi chưa sử dụng
7136,5 nghìn ha, chiếm 21,67% diện tích cả nước; đất có mặt nước chưa sử dụng
150,3 nghìn ha, chiếm 0,46%; sông suối 748,9 nghìn ha, chiếm 2,27%; núi đá không
có rừng cây 618,3 nghìn ha, chiếm 1,88%; đất chưa sử dụng khác 215 nghìn ha, chiếm
0,65%.
Thứ ba, các hợp tác xã kiểu cũ đến nay không còn thích hợp với nền kinh tế thị
trường cần phải có những thay đổi. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã có 17,4% số hợp tác xã tự giải thể. Trong số còn lại, 10% đã thay đổi
phương thức và nội dung hoạt động: dịch vụ hỗ trợ sản xuất cho hộ xã viên có kết quả,
90% đang lúng túng, hoạt động cầm chừng, khoảng một nửa chỉ tồn tại trên hình thức.
Một số hợp tác xã đang là lực cản đối với sự phát triển kinh tế hộ và xây dựng nông
thôn, cụ thể trên một số mặt: thu quỹ theo đầu sào, nhập nhằng về tài chính và công
nợ, vi phạm về quản lý đất đai…
3.1.2.3. Những tồn tại cần giải quyết chính sách đất đai hiện nay của Việt Nam

17
Thực trạng tình hình đất đai ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần
giải quyết:
Thứ nhất, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quá chậm, nhiêu khê.
Thứ hai, các loại phí để cấp giấy chứng nhận đất ở, chuyển quyền sử dụng đất,
chuyển mục đích sử dụng đất là cao đối với người nghèo.
Thứ ba, thời hạn giao đất sử dụng hiện nay có thỏa mãn được các chủ thể chưa và việc
cấp lại thời hạn mới như thế nào?
Thứ tư, hạn điền có nên giới hạn hay không? việc giới hạn như vậy sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Những trường hợp vượt hạn điền thì xử
lý như thế nào?
Thứ năm, việc đấu giá quyền sử dụng đất công để tăng thu ngân sách của địa
phương nên hay không? vì như vậy sẽ góp phần đẩy mức giá đất đai tăng trong khi
chúng ta cần hạ nhiệt thị trường đất đai. Ngoài ra nhu cầu sử dụng đất ở của nhân dân
rất lớn, nếu đất công không sử dụng hết thì chuyển thành các khu định cư cho dân
hoặc là bán đấu giá để lấy tiền tài trợ cho việc xây dựng các khu chung cư cho dân
nghèo.
Thứ sáu, điều tiết địa tô bằng cách nào? Nghị định 22 của Chính phủ về đền bù
thiệt hại khi giải tỏa không qui định sự khác nhau về đơn giá bồi thường giữa đất bị
thu hồi một phần và đất bị thu hồi toàn bộ. Vì vậy, có trường hợp khi đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng làm giá trị đất gia tăng, tất nhiên có lợi cho người ở lại còn người ra đi
thiệt hại. Như vậy, là không công bằng cho người chịu giải tỏa toàn phần? Làm cách
nào điều tiết phần giá trị gia tăng của người được lợi (người bị thu hồi một phần giá trị
sử dụng đất) cho người bị thiệt (người bị thu hồi toàn phần giá trị sử dụng đất).
3.1.2.4. Những giải pháp cần để cải thiện chính sách đất đai
Thứ nhất, xây dựng năng lực cán bộ địa phương là vấn đề cốt yếu
Việc xây dựng năng lực đó bao gồm: cung cấp kiến thức, các khái niệm kinh tế
cơ bản về định giá và tính thuế đất; phát động các chiến dịch tuyên truyền giáo dục về
pháp luật; đào tạo cán bộ làm công tác địa chính trong việc hòa giải và giải quyết xung
đột theo kiểu phi chính thức; qui hoạch sử dụng đất. Kinh nghiệm Nhóm Công tác của

Liên hiệp quốc về quản lý đất đai ở Đông Âu đã minh họa cho việc có thể đạt được
những tiến bộ lớn chỉ trong một khoảng thời gian ngắn nếu cán bộ địa chính được bồi
dưỡng những kỹ năng kỹ thuật, kiến thức về xã hội, tài chính, pháp luật và kinh tế.
Thứ hai, khẩn trương giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các chủ cụ thể. Đây cũng là một vấn đề rất cấp bách hiện nay, “Theo ước tính, hiện
nay còn hơn 20% hộ sử dụng đất nông nghiệp và 95% số hộ sử dụng đất chuyên dùng
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, việc xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất gặp nhiều khó khăn, thủ tục rườm rà, tốn kém.
18
Thứ ba, điều chỉnh giảm các mức thuế sử dụng đất, thuế trước bạ, thuế chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
Về lệ phí trước bạ, Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21-12-1999 của Chính
phủ về lệ phí trước bạ, tại Khoản 1, Điều 6, qui định lệ phí trước bạ đối với nhà, đất là
1% giá trị đất. Giá đất được ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quy định theo khung giá đất của Chính phủ. Mức lệ phí này vẫn còn cao không phù
hợp với tính chất là lệ phí vì tổng giá trị của nhà, đất thường rất lớn nên giá trị 1%
trong tổng giá trị là con số lớn. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến thái độ tích cực trong việc
kê khai và đăng ký đất đai của người dân, đồng thời ảnh hưởng đến sự thất thu khoản
lệ phí này và công tác quản lý đất đai.
Thứ tư, về bồi thường khi giải phóng mặt bằng và điều tiết địa tô.
Khi định giá bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất phải đảm bảo nguyên tắc
phù hợp với giá thị trường của địa phương tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Để
đảm bảo công bằng đối với người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi, việc định giá
bồi thường khi giải phóng mặt bằng phải được thực hiện thống nhất trên một địa bàn
và ủy ban nhân dân tỉnh phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện này, sở
tài chính có trách nhiệm thẩm định, thống nhất đơn giá bồi thường chung trên địa bàn
của mình.
chuyển đổi đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác, Nhà nước cần có chính sách
điều tiết phần giá trị gia tăng của đất do đầu tư dự án mang lại thông qua thuế suất
Thứ năm, tăng cường các biện pháp thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất

trong nông nghiệp
Mặc dù quyền đổi ruộng là quyền của nông dân (những người được Nhà nước
giao quyền sử dụng đất, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm
tuyên truyền, vận động và hướng dẫn nông dân thấy được lợi ích của công việc này và
có chủ trương hỗ trợ đầu tư nếu có thể cải tạo đồng ruộng. Sự chỉ đạo dồn điền, đổi
thửa cho nông dân phải gắn với việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để
nông dân an tâm đầu tư vào đất đai mới chuyển đổi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất nông nghiệp, tăng hiệu quả sử dụng đất. Xử lý nghiêm những
trường hợp lợi dụng chính sách tập trung đất đai để đầu cơ trục lợi. Khuyến khích mở
rộng diện tích, phát triển trang trại ở những nơi còn nhiều đất chưa sử dụng. Diện tích
giao, cho thuê làm trang trại phải theo yêu cầu kinh doanh, phù hợp với điều kiện đất
đai ở mỗi địa phương.
Đối với dân tộc vùng cao, dân tộc ít người cần có chính sách bảo đảm đất nông,
lâm, ngư nghiệp phù hợp với pháp luật và điều kiện của từng vùng, từng dân tộc. Cần
có chế độ quản lý để họ giữ được đất và ổn định cuộc sống. Khi giao đất phải hướng
dẫn đồng bào dân tộc sử dụng đất để sản xuất hiệu quả, ổn định và làm giàu trên đất
được giao, tránh tình trạng giao đất xong phó mặc cho người dân tự xoay sở. Đối với
19
đồng bào dân tộc ít người thì định canh, thâm canh trên ruộng đất của mình là điều
hoàn toàn mới lạ, do vậy cần phải có chính sách hỗ trợ, đặc biệt là hỗ trợ hướng dẫn
sản xuất và đầu tư cải tạo đồng ruộng.
Thứ sáu, xử lý kịp thời hành vi vi phạm Luật Đất đai, đặc biệt là tình trạng quy
hoạch treo
Cần phải kiểm tra, thanh tra thường xuyên tình hình sử dụng đất đai và xử lý
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, xử lý dứt điểm và chấm dứt việc chuyển mục
đích sử dụng đất tùy tiện, lân chiếm đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái phép. Đồng
thời phải xác định rõ trách nhiệm và có chế tài cụ thể đối với các ngành, các cấp, tổ
chức và cá nhân trong việc thực hiện qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Từ đó, phát
hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm những trường hợp phê duyệt dự án không theo qui
hoạch, kế hoạch và quy hoạch “treo”; giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền;

buông lỏng quản lý để người sử dụng đất tự chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp
luật.
Thứ bảy, không đặt điều kiện về hộ khẩu trong việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất
Một tình trạng tồn tại trong nhiều năm ở các thành phố lớn đó là:”muốn có nhà,
đất phải có hộ khẩu và muốn có hộ khẩu phải có nhà đất”. Thế nhưng Luật Đất đai từ
trước đến nay cũng như các qui định của Tổng cục Địa chính trước đây và nay là Bộ
Tài nguyên- Môi trường, đều không có quy định như vậy. Thậm chí, tại Thông tư số
1417 ngày 18-09-1999 còn nêu rõ: hộ gia đình, cá nhân được nhận quyền sử dụng đất
tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và tại địa phương khác (nghĩa là nơi không có hộ
khẩu thường trú). Nhưng thực tế đã tồn tại tình trạng đó gây khó khăn, nhũng nhiễu,
tiêu cực cho người có nhu cầu sử dụng nhà, đất hợp pháp. Vì vậy, để Luật Đất đai thực
sự đi vào cuộc sống và tạo điều kiện phát triển thị trường bất động sản, cần ngay lập
tức cấm đặt ra điều kiện về hộ khẩu trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Thứ tám, tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư và đấu giá quyền sử
dụng đất đối với các dự án đầu tưđể loại bỏ cơ chế xin – cho
Thực trạng hiện nay, một số nhà đầu tư rất thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh nhưng
các khu công nghiệp cả nước mới lấp đầy 45% diện tích, do đó phải đẩy nhanh tiến độ
giải phóng mặt bằng để tạo quỹ đất cho các nhà đầu tư tại các khu công nghiệp, hoặc
thu hồi các phần đất sử dụng không hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, các tổ
chức để tạo quỹ đất cho doanh nghiệp.
Từ trước đến nay người ta chỉ đấu giá quyền sử dụng đất ở, mang tính chất bán
bất động sản cho người tiêu dùng chứ không phải để đầu tư. Các cơ quan quản lý đất
đai chưa từng xử lý đấu giá quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư. Nếu qui hoạch là khu
công nghiệp thì càng khó đấu giá hơn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, khó cũng làm được.
20
Đất sử dụng vào mục đích đầu tư nếu đem đấu giá sẽ loại bỏ được cơ chế “xin – cho”,
chấm dứt tình trạng “anh” nào xin giỏi thì được giao đất dù không có năng lực đầu tư.
Thực tế đã có nhiều đơn vị được giao làm nhà xưởng sản xuất nhưng không làm. Có

không ít trường hợp tiêu cực, người được giao đất xin chuyển đổi thành dự án khác
không đúng mục đích đầu tư sản xuất. Khu đất nằm trong qui hoạch công trình công
cộng như siêu thị hoặc liên hoàn siêu thị, nhà hàng vui chơi giải trí, trường học ngoài
công lập, bệnh viện tư vẫn được đấu giá.
3.1.3. Thị trường tiêu thụ
Thị trường xuất hiện và phát triển cùng với sự phát sinh của sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Ban đầu là trao đổi bằng hiện vật, sau này khi tiền tệ xuất hiện thì tiền tệ giữ
chức năng định giá cho hàng hoá trao đổi trên thị trường. Thuật ngữ thị trường được sử
dụng rất rộng rãi: thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thị trường nông sản, thị trường
hàng công nghiệp…
Thị trường nông nghiệp bao gồm thị trường đầu vào và thị trường tiêu thụ nông
sản. thị trường tiêu thụ nông sản là nơi mà nông sản là hàng hoá chủ yếu được trao đổi
và giá trị nông sản được thưc hiện.Tái sản xuất xã hội bao gôm bốn khâu cơ bản: sản
xuất – phân phối – trao đổi va tiêu dùng. Từ sản xuất cho đến tiêu dùng phải luân
chuyển qua hai bước nữa: đó là phân phối và trao đổi. Hai khâu này lại được thực hiện
bởi thị trường. Có thể nói phân phối là khâu quan trọng nhất trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Đó là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, đưa sản phẩm từ quá trình
sản xuất sang lưu thông và đến tiêu dùng. Thực hiện tốt khâu phân phối và đưa sản
phẩm đến tay người tiêu dùng mới có thể cho phép nhanh chóng thực hiện quá trình tái
sản xuất. Trong thời kỳ nước ta còn chế độ bao cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, thị trường nông sản còn chưa phát triển. Mọi nhu cầu của người tiêu dùng bị
đóng khung trong tem phiếu. Người tiêu dùng, theo phân phối, được hưởng một số
lượng nhất định các loại lương thực, thực phẩm theo tháng. và như vậy là không có
nhu cầu tự do mà nhu cầu hoàn toàn thụ động theo tem phiếu. Tình trạng này dẫn đến
người tiêu dùng không thể có nhu cầu phát sinh va tiêu dùng là ép buộc. Không chỉ
thế, nó còn dẫn đến trì trệ trong sản xuất, sản xuất nông nghiệp cầm chừng theo đơn
đặt hàng của nhà nước, ít quan tâm đến cải tiến chất lượng sản phẩm do không phải lo
khâu tiêu thụ đầu ra. Toàn bộ sản phẩm sản xuất ra được nhà nước bao tiêu và bù lỗ
(nếu thua lỗ). Chính từ những lý do này mà trong thời kỳ kế hoặch hoá tập trung, thị
trường nông sản chưa phát triển, sản lượng sản phẩm và chất lượng đều eo hẹp, khan

hiếm tiêu dùng trong nước còn khó khăn, chứ chưa nói đến xuất khẩu.
Chuyển sang thời kỳ kinh tế thị trường, các doanh nghiêp nông nghiệp phải tự
đứng trên đôi chân của mình, phải tự lo cho sản phẩm có đủ sức canh tranh trên thị
trường thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp dựa
21
trên tiềm năng vốn có công với sự năng động của bản thân các doanh nghiệp đã tạo ra
một khối lượng sản phẩm ngày càng tăng với chất lượng, chủng loại ngày càng được
cải thiện. Cũng phải nói thêm rằng, trong nền kinh tế thị trường, khoa học công nghệ
và các thiết bị sản xuất được các doanh nghiệp, các hộ gia đình nông dân cập nhật và
sử dụng ngày càng tốt hơn. Cầu tăng, cung tăng, điều này làm cho thị trường tiêu thụ
hàng hoá nông sản sôi động và phát triển hơn hẳn. trong thời kỳ này, thị trường tiêu
thụ nông sản của Việt Nam đã mở rộng không chỉ trong nươc mà đã tiến sang thị
trường nước ngoài và bắt đầu có uy tín.
3.1.4. Chính sách đầu tư cho nông nghiệp
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn công bố ngày 25/12, ngân sách nhà nước
đã tăng đầu tư mạnh cho nông nghiệp, nông thôn. Tỷ lệ chi cho nông nghiệp, nông
thôn (NNNT) trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng từ 32,8% năm 2008 lên 41,3%
năm 2013.
Trong giai đoạn 2009-2013, tổng số vốn đầu tư cho NNNT đạt 520.441 tỷ đồng,
bằng 51,67% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách và trái phiếu chính phủ, tăng
2,62 lần so với 5 năm trước, trong đó 194.962 tỷ đồng cho phát triển sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp.
Tín dụng cho NNNT luôn tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng chung cho nền
kinh tế, bình quân đạt 21%/năm. Tổng dư nợ năm 2013 đạt khoảng 662,6 nghìn tỷ
đồng. Hiện nay còn gần 7,1 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ bình
quân 16 triệu/hộ.
Mặc dù đã có những nỗ lực từ phía nhà nước, nhưng đầu tư xã hội cho NNNT
giảm cả về tỷ trọng từ 6,4% năm 2008 xuống còn 5,2% năm 2012, và giảm về giá trị
thực. Trong đó, đầu tư cho phát triển sản xuất nông lâm thủy sản chỉ đạt 10,4% so với

GDP nông lâm thủy sản, và có tới 76% trong số đó là từ ngân sách nhà nước. Mức đầu
tư này chỉ đáp ứng 65-75% so với yêu cầu đầu tư để tăng trưởng 3,5-4%/năm.
Cơ cấu đầu tư ngân sách được điều chỉnh khá chậm trong khi giá trị thực đầu tư
trực tiếp phục vụ phát triển nông nghiệp giảm dần sau năm 2009. Đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước rất hạn chế: Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư gần
3.000 tỷ đồng, các Tổng công ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty lương thực
miền Nam đầu tư khoảng 400 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 2009-2013.
Mặc dù đã có những nỗ lực nhằm huy động vốn ODA đầu tư cho NNNT nhưng
số vốn huy động được trong năm 5 qua chỉ đạt gần 1,6 tỷ USD.
Trong khi đó, đầu tư tư nhân trong nước vào nông thôn rất hạn chế. Tỷ lệ doanh
nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp giảm từ 1,48% giai đoạn 2004-2008 xuống còn
0,89% giai đoạn 2009-2013. Trong 5 năm qua chỉ có 3.486 doanh nghiệp thành lập
22
mới với số vốn 126.469 tỷ đồng, nhưng lại có 475 doanh nghiệp (15%) bị giải thể.
Đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp rất thấp. Trong giai đoạn 2009-
2013, số dự án đầu tư và số vốn đầu tư tăng nhẹ so với 5 năm trước, với mức tăng lần
lượt là 1,61% và 0,55%. Tuy nhiên, tính đến ngày 20/5/2013 lũy kế các dự án trong
lĩnh vực nông lâm thủy sản còn hiệu lực là 496 dự án với số vốn đăng ký là 3,26 tỷ
USD.
Nhiều chuyên gia kinh tế và chuyên gia nông nghiệp nhận định, rằng mức đầu tư
cho nông nghiệp hiện nay là chưa xứng tầm so với vai trò của ngành nông nghiệp là
“tấm đệm” đưa nền kinh tế của đất nước vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhà
nước cần có những chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư tư nhân vào nông
nghiệp để thúc đẩy phát triển công nghiệp, ứng dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp.
Một trong những hạn chế, được cho là ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện chính
sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nguồn lực đầu
tư còn thiếu nhiều so với yêu cầu. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đều thiếu vốn
cho nhu cầu đầu tư, phát triển của ngành, địa phương mình. Mặc dù Nhà nước đã chú
trọng đầu tư nhưng thực tế mới chỉ đáp ứng được 55-60% yêu cầu, vì vậy chưa phát

huy hết tiềm năng, nội lực trong nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn đầu tư chưa
tương xứng so với tỷ lệ trên 70% dân số Việt Nam gắn với nông nghiệp, nông thôn.
Nguồn lực đầu tư chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách Nhà nước mà chưa huy động được
nguồn lực đầu tư của toàn xã hội.
Công tác lập và thực hiện quy hoạch trong đầu tư còn nhiều hạn chế, chưa sát
thực tế. Vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trãi, kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao,
nhiều nơi vẫn còn xảy ra sai phạm trong quản lý đầu tư. Việc thực hiện mục tiêu xoá
nghèo cho khu vực nông thôn chưa thật sự bền vững, nguy cơ phát sinh nghèo và tái
nghèo còn cao. Kết cấu hạ tầng mặc dù đã được tăng cường đầu tư nhưng nhiều khu
vực vẫn còn thi ếu và yếu…
Bên cạnh đó, chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong thời gian qua vẫn còn nhiều vướng mắc. Một mặt do chính sách được
ban hành trong nhiều giai đoạn khác nhau với những quan điểm, nhận thức khác nhau,
nên thiếu tính đồng bộ, hệ thống. Nhiều văn bản hướng dẫn thi hành chưa được ban
hành kịp thời, đầy đủ, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây khó khăn trong quá trình tổ
chức thực hiện. Việc quy định thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá
nhân còn quá chung chung, dẫn tới tình trạng thiếu trách nhiệm trong quản lý đầu tư
công gây lãng phí, thất thoát, hiệu quả đầu tư không cao. Cơ chế, chính sách để xây
dựng nông thôn mới hiện còn chưa đồng bộ, ngoài 07 nội dung được hỗ trợ 100% theo
Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, phần còn lại mức hỗ trợ cho từng
23
đối tượng chưa rõ, chính sách hỗ trợ xây dựng nông thôn mới cho các xã theo khu vực
chưa được xác định cụ thể, việc lồng ghép các chương trình khác với chương trình
nông thôn mới còn nhiều khó khăn, bất cập. Trong 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới
theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ có một số
tiêu chí chưa phù hợp với thực tế từng vùng, từng địa phương dẫn đến rất khó thực
hiện (như các tiêu chí về đường giao thông, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hoá, chợ nông
thôn, nhà ở dân cư, thu nhập, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất ).
Việc quy định khống chế hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân
theo quy định tại Điều 70 Luật Đất đai gây khó khăn trong việc mở rộng diện tích canh

tác, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng
đến năng suất, chất lượng sản phẩm. Quy định về công tác giải phóng mặt bằng còn
nhiều bất cập, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước khi thực hiện
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế và
quyền của người dân có đất bị thu hồi. Việc quy định thời hạn sử dụng đất tại các Điều
67, 68, 69 Luật Đất đai năm 2003 đến nay đã gần hết hạn giao đất nhưng chưa có chủ
trương giải quyết cụ thể nên nông dân không an tâm, thiếu mạnh dạn đầu tư cho sản
xuất.
Các chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng, Nhà nước về đầu tư công cho
nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải tiếp tục được quán triệt, thực hiện một cách
nghiêm túc. Đồng thời, phải tiếp tục nghiên cứu, thực hiện một số giải pháp cấp bách
nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nâng cao
chất lượng quy hoạch và quản lý thực hiện theo đúng quy hoạch. Bố trí, phân bổ
nguồn vốn đầu tư công hợp lý, công bằng, đúng trọng tâm, trọng điểm. Chú trọng phát
triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả
công tác đầu tư công, đồng thời tiếp tục có những chính sách phù hợp về phát triển sản
xuất nông nghiệp, chính sách thuế, đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân. Phát huy
vai trò của hệ thống chính trị và nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
trong lĩnh vực đầu tư công nói chung và đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn
nói riêng./.
Mặc dù Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, nhưng nguồn vốn này mới chỉ đáp ứng được khoảng 55-60% yêu cầu, vì vậy
chưa phát huy hết tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn. Nguồn lực đầu tư vẫn chủ
yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa huy động được nguồn lực đầu tư của toàn xã
hội. Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy nhiều công trình hiệu quả đạt
thấp do bố trí vốn đầu tư không đáp ứng tiến độ theo kế hoạch được duyệt, đầu tư
thiếu đồng bộ, thi công kéo dài gây lãng phí nguồn lực; chất lượng công tác khảo sát,
24
thiết kế còn chưa đạt yêu cầu ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của công trình.

Những khó khăn về giải phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật liệu biến động bất thường,
Nhà nước thực hiện chính sách cắt giảm đầu tư công, thời tiết bất thường, mưa lũ kéo
dài, năng lực của chủ đầu tư và nhà thầu thi công còn hạn chế, phải bổ sung, điều
chỉnh nhiều lần đã làm tăng mức đầu tư. Trong quản lý, thực hiện đầu tư vẫn còn nhiều
sai phạm, nhiều dự án ODA thời gian chuẩn bị kéo dài từ khâu đề xuất đến ký kết điều
ước quốc tế cụ thể mất 2-3 năm; khi thực hiện phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, tốc
độ giải ngân nguồn vốn chậm, làm giảm hiệu quả đầu tư. Cơ chế phân cấp về quyết
định đầu tư và phân bổ vốn theo hướng tăng cường quyền quyết định cho các cấp là
phù hợp, nhưng thiếu các biện pháp đồng bộ và tăng cường kiểm tra, kiểm soát đã dẫn
tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án đầu tư mà không tính đến khả năng cân đối về
nguồn vốn dẫn tới tình trạng đầu tư bị phân tán, dàn trải, thời gian thi công kéo dài gây
lãng phí, thất thoát nguồn lực tài chính của Nhà nước.
Theo đánh giá của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mặc dù trên tổng thể, tỷ lệ hộ
nghèo giảm qua từng năm, nhưng có địa phương tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn rất cao, đặc
biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc. Chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa nông
thôn và thành thị, giữa các vùng tuy đã đư¬ợc rút ngắn nhưng vẫn còn lớn, khoảng
cách giữa thu nhập giữa nhóm cao nhất và thu nhập với nhóm thấp trong nông thôn xu
hướng tăng lên. Xoá đói giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nguy cơ phát sinh nghèo
và tái nghèo vẫn ở mức cao; còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định an ninh trật tự
nông thôn. Hệ thống giao thông nông thôn nhiều nơi còn rất khó khăn, vẫn còn 149 xã
chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, 16 xã ở vùng hải đảo, biên giới, vùng cao chưa
có điện; phát triển sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng
hóa. Trong đầu tư còn tập trung cho cơ sở hạ tầng mà chưa quan tâm nhiều đến khoa
học công nghệ, giống cây trồng để hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao chất lượng,
hiệu quả của sản xuất nông nghiệp
Nhìn nhận nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội cho rằng bên cạnh nguyên nhân khách quan là khả năng đầu tư của Nhà nước và
toàn xã hội có hạn, sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro cao, khó thu hút đầu tư từ các
doanh nghiệp thì hạn chế này cũng xuất phát từ không ít nguyên nhân chủ quan. Đó là
nhận thức của một bộ phận cán bộ, các cấp chính quyền về vị trí, vai trò, tầm quan

trọng của đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn chưa cao; chưa chủ động,
tích cực trong việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà
nước; công tác vận động, khuyến khích người dân, cộng đồng chưa liên tục, chưa phát
huy hết nội lực của cả hệ thống chính trị và cộng đồng trong phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Trong quá trình thực hiện đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, tình trạng thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả còn xảy ra ở một số dự án; chất
25

×