MỞ ĐẦU
I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI.
Tăng cường năng lực sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trường nhằm giảm nghèo là thách thức lớn đối với hầu hết các nước
kém phát triển trong đó có Việt Nam. Quản lý môi trường tốt, sử dụng hợp lý
tài nguyên đóng vai trò quan trọng đối với giảm nghèo đói, tăng trưởng bền
vững và đạt được các mục tiêu của Chiến lược phát triển bền vững của Việt
Nam. Sự nghiệp bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội và
là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và nhà nước để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Trong những năm qua, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) ở
các xã nghèo đã có những chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả
nhất định. Nhận thức về bảo vệ môi trường trong xã hội, các tổ chức, cá nhân
được nâng lên một bước. Các ngành, các cấp đã quan tâm nhiều hơn tới công
tác bảo vệ môi trường và đói nghèo. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường
còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa chưa theo kịp tốc độ công nghiệp hoá và đô
thị hoá. Trong đó, nguyên nhân chính là nhận thức bảo vệ môi trường trong
xã hội, của người dân chưa đầy đủ, ý thức chấp hành pháp luật về môi trường
của nhiều tổ chức, cá nhân còn yếu. Đặc biệt là người dân nghèo, các cộng
đồng nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn, người dân chỉ quan tâm tới việc giải
quyết nhu cầu mưu sinh hằng ngày mà chưa quan tâm tới công tác bảo vệ môi
trường. Để kiếm sống, người dân nghèo sẵn sàng đánh bắt cá bằng chất nổ,
bằng xung điện; sử dụng bừa bãi thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp,
san lấp ao hồ, sông suối… mà không quan tâm tới hậu quả của những hoạt
động này ảnh hưởng đến môi trường như thế nào. Một số địa phương lãnh đạo
chỉ đạo điều hành còn nặng về các mục tiêu kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu bảo
vệ môi trường, chưa kiên quyết trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi
1
trường. Điều đó càng làm cho công tác BVMT ở các xã nghèo, khu dân cư
nghèo còn gặp nhiều khó khăn.
Dựa trên cơ sở lý thuyết của kinh tế học quản lý môi trường, một sự
đánh giá rà soát lại tình hình quản lý môi trường của các xã nghèo để từ đó
hướng đến đề xuất một số giải pháp cho các xã đó là lý do em chọn đề tài
"Đề xuất 1 số giải pháp quản lý môi trường tại các xã nghèo tại Hà Nội
( Hà Tây cũ) ".
II. MỤC TIÊU CỦA PHẠM VI ĐỂ TÀI:
Mục tiêu chung.
Đôi khi những người dân ở những vùng miền nghèo đói họ chưa có
những cái nhìn đúng đắn về tình hình môi trường bởi vì với họ đó dường như
là một khái niệm rất trừu tượng. Chính vì vậy việc đưa ra một số giải pháp
hiện thời là đi từ nhận thức cho đến quản lý chính quyển địa phương là bước
đi đầu trong quá trình quản lý địa phương nghèo.
Mục tiêu cụ thể.
- Nhận thức được thế nào là quản lý môi trường.
- Đánh giá hiện trạng môi trường tại các xã nghèo điển hình là ba xã
nghèo Kim Quan, Cẩm Yên, Đại Đồng.
- Định hướng một số giải pháp cho quản lý môi trường tại các làng xã
sao cho phù hợp với môi trường và cuộc sống của người dân nghèo.
Phạm vi đề tài.
Đề tài nghiên cứu ba xã nghèo điển hình của Hà Nội ( Hà Tây cũ ) là
Kim Quan, Cẩm Yên, Đại Đồng.
2
III. KẾT CẤU ĐỂ TÀI.
Đề tài này chia làm 3 chương.
Chương I: Tổng quan về quản lý môi trường.
Chương II: Hiện trạng kinh tế xã hội và quản lý môi trường tại các xã
nghèo tại Hà Nội.
Chương III. Đề xuất một các giải pháp nâng cao nâng cao hiệu quả
công tác quản lý môi trường tại các xã nghèo tại Hà Nội.
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp thu thập và tổng hợp số liệu.
Phương pháp điều tra xã hội học.
Phương pháp đánh giá tác động môi trường.
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
1.1 Khái niệm chung về quản lý môi trường.
“ Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích
của chủ thể quản lý môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành
tác động các hoạt động phát triến trong hệ thống môi trường và khách thể
quản lý môi trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm
đạt được mục tiêu quản lý môi trường đã để ra phù hợp với luật pháp và thông
lệ hiện hành”.
3
Thực chất của quản lý môi trường là quản lý con người trong các
hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiểm năng
và cơ hội của hệ thống môi trường.
Xét về bản chất kinh tế-xã hội, quản lý môi trường là các hoạt
động chủ quan của chủ thể quản lý vì mục tiêu lợi ích của hệ thống, bảo đảm
cho các hệ thống môi trường tồn tại hoạt động và phát triển lâu dài, cân bằng
và ổn định vì lợi ích cả vật chất và tinh thần của thế hệ hôm nay và thế hệ mai
sau, vì lợi ích của cá nhân,cộng đồng, địa phương, vùng quốc gia, khu vực và
quốc tế. Mục tiêu của hệ thống môi trường là do chủ thể quản lý môi trường
đảm nhận. Họ là chủ sở hữu của hệ thống môi trường và là người nắm giữ
quyền lực của hệ thống môi trường. Nói một cách khác, bản chất của quản lý
môi trường tùy thuộc vào chủ sở hữu của hệ thống môi trường.
1.2 Đối tượng của quản lý môi trường.
Quản lý môi trường, trước hết là quản lý một hệ thống bao gồm các
phần tử (yếu tố) nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao gồm quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại , phát triển của con
người và thiên nhiên. Đó là một hệ thống bao gồm các phần tử của thế giới vô
sinh và hữu sinh hoạt động theo những quy luật khác nhau và có con người
tham dự.
Trong khi đó hệ thống môi trường có những đặc tính cơ bản sau đây.
1.2.1 Có cấu trúc phức tạp.
Hệ thống môi trường bao gồm nhiều phần tử thành phần hợp thành.
Các phần tử đó có bản chất khác nhau( tự nhiên, kinh tế, dân cư và xã hội) và
bị chi phối bởi các quy luật hoạt động khác nhau, đôi khi đối lập với nhau.
Tính cấu trúc của hệ thống môi trường đôi khi thể hiện chủ yếu ở cấu trúc
chức năng và cấu trúc bậc thang. Theo chức năng, chúng ta có thể phân hệ
thống môi trường thành vô số hệ hoạt động theo những chức năng khác nhau.
Tương tự như vậy, theo bậc thang ( quy mô), chúng ta có thể phân hệ thống
4
môi trường thành các hệ từ lớn đến nhỏ, từ vĩ mô đến vi mô. Dù được phân
theo chức năng hay phân theo theo bậc thang, các phần tử cơ cấu của hệ thống
môi trường cũng thường xuyên tác động qua lại quy định và phụ thuộc lẫn
nhau ( thông qua trao đổi năng lượng vật chất thông tin và liên tục), làm cho
hệ thống tồn tại, hoạt động và phát triển. Vì vậy mỗi sự thay đổi nào đó dù là
rất nhỏ, của một phần tử của hệ thống môi trường đều gây ra một phản ứng
dây chuyền cho toàn hệ, làm suy giảm hoặc gia tăng số lượng và chất lượng
môi trường, không phụ thuộc vào ý trí của con người.
1.2.2 Tính hoạt động.
Hệ thống môi trường không phải là một hệ tĩnh, mà luôn luôn thay đổi
trong cấu trúc của nó, trong từng phân tử và trong quan hệ tương tác của
chúng. Bất kỳ một sự thay đổi nào của hệ thống đều tiềm chứa khả năng làm
cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng vốn có của hệ thống và hệ thống có xu
hướng lập thành một hệ thống cân bằng mới. Đó là bản chất của quá trình vận
động và phát triển của hệ thống môi trường. Đặc tính cân bằng động cần được
tính trong hoạt động cũng như trong quản lý môi trường.
1.2.3 Tính mở.
Môi trường dù ở quy mô lớn hay quy mô nhỏ cũng để là một hệ thống
mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục “chảy’ trong không
gian và theo thời gian (từ hệ lớn như vũ trụ đến hệ nhỏ như hành tinh Trái đất
đến các hệ nhỏ hơn nữa và ngược lại, từ trạng thái này sang trang thái khác, từ
các hệ quá khứ đến cá hệ hiện tại và tiếp nối đến các thế hệ tương lai). Vì thế
các vấn đề môi trường ở các mức độ khác nhau không chỉ mang tính địa
phương mà mang tính liên vùng, liên quốc gia, toàn cầu và tính lâu dài.
Chúng cần được giải quyết bằng nỗ lực của các cộng đồng, bằng sự phối hợp
liên ngành liên quốc gia, liên khu vực với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi
ích của thế hệ hôm nay và lợi ích của thệ hệ mai sau.
1.2.4 Khả năng tổ chức và điều chỉnh.
5
Trong hệ thống môi trường có các phân tử cơ cấu là vật chất ( tổ chức )
sống ( con người giới sinh vật ) hoặc các sản phẩm của chúng. Các phần tử
này có một khả năng tự nhiên rất kỳ diệu là tự tổ chức lại hoạt động của mình
và tự điều chỉnh để thích đáng với với những thay đổi bên ngoài rộng lớn hơn
theo quy luật tiến hóa, quy luật giảm entropy nhằm hướng tới trạng thái cân
bằng ổn định. Đặc tính cân bằng này của hệ thống môi trường quy định tính
chất, mức độ, phạm vi tác động của các hoạt động phát triển, đồng thời tạo
mở hướng quản lý cơ bản và lâu dài đối với môi trường quốc gia cũng như
toàn cầu.
Đây là môn khoa học mà nó dựa trên nền tảng của khoa học quản lý để
nhìn nhận những vấn đề môi trường. Do đó đối tượng quản lý môi trường là
xem xét các thành phần môi trường cũng như các nguồn tài nguyên tự nhiên
để có một sự quản lý điều hành hiệu quả đảm bảo cho việc khai thác và sử
dụng tốt nhất trong quá trình vận hành của nền kinh tế nhằm hướng tới phát
triển bền vững.
Thành phần môi trường:
- Hệ thống tự nhiên: F( tự nhiên) =F( đất, nước, không khí, sinh vật...)
Hệ thống này tồn tại khách quan bên ngoài con người.
- Hệ thống nhân tạo: F(nhân tạo)=F( nhà cửa, đường xá, cầu cống...)
Hệ thống này do con người tạo ra.
Chúng ta phải quản lý các thành phần này như thế nào để hiệu tốt nhất
cho con người tốt nhất và cho con người và hệ sinh thái.
1.3. Mục tiêu của quản lý môi trường.
1.3.1 Mục tiêu duy trì chất lượng môi trường.
Tức là phải duy trì cho bằng được bản chất vốn có của môi trường. Ví
dụ như đảm bảo chất lượng của nguồn nước theo tính chất quy định.
1.3.2 Mục tiêu cho phát triển bền vững.
6
Đây là một trong những mục tiêu lâu dài và quan trọng nhất cần đạt đến
trong bảo quản lý môi trường. Thực ra phát triển bền vững ở mỗi nước là
khác nhau nhưng ở đó là sự hài hòa của các yếu tố kinh tế, xã hội, trường. Xã
hội càng phát triển thì yếu tố môi trường đặt trong vấn đề phát triển bền vững
càng gia tăng.
Trong mục tiêu phát triển bền vững đòi hỏi lĩnh vực kinh tế phải.
- Giảm đểu đặn mức tiêu phí năng lượng và các nguồn tài nguyên
khác thông qua sử dụng những công nghệ tiết kiệm và thông qua
thay đổi lối sống.
- Thay đổi các mẫu hình tiêu thụ và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học
của các nước.
- Giảm hàng rào nhập khẩu thuế quan hay chính sách bảo hộ mậu
dịch gây hạn chế thị trường thị trường cho các sản phẩm của những
nước nghèo.
- Sử dụng tài nguyên nhân văn, kỹ thuật và tài chính để phát triển
công nghệ sạch và sử dụng ít tài nguyên.
- Làm cho mọi người được tiếp cận tài nguyên một cách bình đẳng.
- Giảm chênh lệch về thu nhập và làm cho mọi người được tiếp cận y tế.
- Chyển bớt các khoản chi phí về quân sự an ninh và cho các nhu cầu
về phát triển.
- Sử dụng tài nguyên cho việc can thiệp mức sống thường xuyên.
- Xóa đói giảm nghèo.
- Cải thiện tiếp cận ruộng đất, giáo dục và các dịch vụ xã hội
- Hình thành và phát triển các ngành công nghiệp có hiệu suất cao để
tạo ra nhiều công an việc làm và sản xuất ra nhiều hàng hóa và dịch
vụ cho thương mại và tiêu thụ.
7
Trong lĩnh vực nhân văn xã hội đòi hỏi.
- Ổn định dân số, giảm di cư đến các thành phố, đặc biệt là các thành
phố lớn, thông qua việc nghiên cứu xây dựng và thực thi các chương
trình phát triển nông thôn.
- Xây dựng các chính sách, biện pháp và kỹ thuật để giảm nhẹ hậu
quả môi trường của quá trình đô thị hóa.
- Nâng cao tỷ lệ người biết chữ.
- Tạo điều kiện cho viêc tiếp cận dễ dàng và nhanh chóng với chăm
sóc sức khỏe ban đầu.
- Cải thiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tính đa dạng văn hóa và tăng
cường đẩu tư vào phát triển vốn con người.
- Đầu tư vào sức khỏe và giáo dục của phụ nữ.
- Khuyến khích sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết
định.
Trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ.
- Chuyển dịch sang nền kỹ thuật và công nghệ sạch có hiệu suất hơn
để giảm tiêu thụ năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
khác và không làm ô nhiễm không khí, nước và đất.
- Giảm phát thải khí CO2 để giảm tỷ lệ tăng phát thải của khí nhà
kính; đồng thời giảm nồng độ của các khí này trong khí quyển.
- Cùng với thời gian phải giảm thải đáng kể để sự dụng nhiên liêu hóa
thạch và tìm ra những nguồn năng lượng mới.
- Loại bỏ việc sử dụng CFCs để tránh làm tổn thương đến tầng ozon
bảo vệ trái đất.
8
- Bảo tồn những kỹ thuật truyền thống với ít chất thải và chất ô
nhiễm, những kỹ thuật tái chế chất thải và phù hợp với các hệ thống
tự nhiên hoặc hỗ trợ cho các hệ thống tự nhiên.
- Nhanh chóng ứng dụng các kỹ thuật và công nghệ đã được cải thiện
cũng như những quy chế của chính phủ đã ban hành và sửa đổi, thực
hiện nghiêm túc những quy chế đó.
Trong lĩnh vực môi trường.
- Sử dụng có hiệu quả hơn đất canh tác và cung cấp nước.
- Cải tiến các phương pháp canh tác nông nghiệp và kỹ thuật nông
nghiệp nhằm nâng cao sản lượng lương thực thực phẩm.
- Tránh dùng quá mức phân bón hóa học và thuốc trừ sâu.
- Bảo vệ nước thông qua các biện pháp hiện hữu nhằm chấm dứt tình
trạng sử dụng lãng phí nước và nâng cao hiệu quả sử lãng phí nước
và nâng cao hiệu suất của hệ thống nước.
- Tránh các hoạt động phát triển của con người gây mất ổn định của
khí hậu, hủy diệt tầng ozone.
- Hạn chế mở mang đất nông nghiệp trên đất dốc hoặc đất bạc màu.
- Làm chậm lại, tiến tới chặn đứng sự hủy hoại rừng nhiệt đới hệ sinh
thái san hô, rừng ngập mặn ven biển, những vùng đất
- Ngập nước nơi cư trú độc đáo khác để bảo vệ đa dạng sinh học.
- Đảm bảo tính đa dạng sinh học.
Đa dạng sinh học là sự giàu có của giống loài động thực vật mà bản
thân thiên nhiên đã tạo ra hoặc có sự can thiệp của bàn tay con người. Theo
thống kê hiện nay Việt Nam là nước có đa dạng sinh học đứng thứ năm trên
thế giới nên việc duy trì quản lý đa dạng sinh học ở Việt Nam là hết sức quan
trọng không chỉ là vấn đề cho riêng Việt Nam mà cho cả thế giới.
9
1.4 Các biện pháp quản lý môi trường.
1.4.1 Khái niệm.
Các phương pháp quản lý môi trường là tổng thể các cách thức tác động
có thể và có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý ( cấp dưới và
tiềm năng có được của hệ thống) và khách thể quản lý ( các hệ thống khác) các
ràng buộc của điều kiện bên ngoài... để đạt được các mục tiêu đã đề ra.
1.4.2 Các phương pháp quản lý nội bộ hệ thống môi trường.
Các phương pháp tác động lên con người
Các phương pháp hành chính: là các phương pháp tác động dựa vào
các mối quan hệ về tổ chức của hệ thống quản lý. Các phương pháp
hành chính trong quản lý môi trường là cách tác động trực tiếp của
chủ thể quản lý lên tập thể của những người dưới quyền bằng cách
quyết địng dứt khoát mang tính bắt buộc đòi hỏi họ phải chấp hành
nghiêm chỉnh và nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời đích đáng.
Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý môi trường là hết
sức to lớn. Nó xác lập trật tự, kỷ cương làm việc trong hệ thống, khâu nối các
phương pháp khác lại thành một hệ thống, dấu được bí mật ý đồ hoạt động và
giải quyết nhanh chóng các vấn đề đặt ra trong quản lý môi trường.
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai
hướng: tác động về mặt tổ chức quản lý và tác động điều chỉnh hành vi của
đối tượng.
Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nắm
vững một số yêu cầu chặt chẽ.
Một là, quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có
căn cứ khoa học và thực tiễn.
Hai là, khi sử dụng các phương pháp hành chính phải gắn chặt quyền
hạn và trách nhiệm của người ra quyết định.
10
Các phương pháp kinh tế.
Các phương pháp kinh tế tác động vào đối tượng quản lý thông qua lợi
ích kinh tế để cho đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động có
hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ.
Thực chất phương pháp kinh tế là tạo ra động lực thúc đẩy con người
hoạt động bảo vệ môi trường. Động lực đó càng lớn, nếu như nhận thức đầy
đủ và kết hợp đúng đắn các lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống.
Chủ thể quản lý môi trường tác động lên đối tượng môi trường bằng
các phương pháp kinh tế theo các hướng khác nhau.
- Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp
với điều kiện của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời
gian cho từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
- Sử dụng các định mức kinh tế các biện pháp đòn bẩy, kích thích
kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân cộng đồng
hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
- Bằng chế độ thưởng, phạt vật chất, trách nhiệm kinh tế chặt chẽ để
điều chỉnh hoạt động của các bộ phận, các cộng đồng, các cá nhân,
xác lập trật tự kỷ cương, xác định chế độ trách nhiệm cho mọi bộ
phận, cho đến từng người trong hệ thống.
Ngày nay xu hướng chung của các nước là mở rộng việc áp dụng các
phương pháp kinh tế trong quản lý môi trường. Muốn vậy cần chú ý đến một
số khía cạnh quan trọng sau.
Một là, việc áp dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn gắn liền với
việc sử dụng các đòn bầy kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, lãi suất, tiền
lương,..nói chung việc sử dụng các phương pháp kinh tế có liên quan chặt chẽ
đến việc sử dụng các quan hệ hàng hóa tiền tệ. Để nâng cao sử dụng các
phương pháp kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các quan hệ hàng hóa tiền
tệ, quan hệ thị trường.
11
Hai là, để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp
đúng đắn giữa các cấp quản lý.
Ba là, sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý môi trường
phải có trình độ và năng lực về nhiều mặt, và thông thạo nhiều kiến thức và
kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có bản lĩnh rõ ràng.
Các phương pháp giáo dục.
Các phương pháp giáo dục là các cách tác động vào nhận thức và tình
cảm của cá nhân và cộng đồng nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình của
họ trong việc quản lý và bảo vệ môi trường.
Các phương pháp giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý môi trường,
vì đối tượng của quản lý môi trường là con người-một thực thể năng động, là
tổng hòa của nhiều mối quan hệ xã hội. Do đó không chỉ tác động lên con
người bằng những biện pháp kinh tế hành chính mà còn phải có tác động tinh
thần tình cảm tâm lý...
Các phương pháp giáo dục được tiến hành dựa trên cơ sở vận dụng các
quy luật tâm lý. Đặc trưng của các phương pháp này là tính thuyết phục, tức
là làm cho cá nhân và cộng đồng phận biệt được phải trái, đúng sai, lợi hại ,
đẹp xấu, thiện ác, để từ đó nâng cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với hệ
thống.
Các phương giáo dục thông thường được sử dụng kết hợp với các
phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt nhẹ nhàng vừa sâu sắc
đến từng người, từng cộng đồng , có tác động xã hội hóa công tác bảo vệ môi
trường. Đây là một trong những bí quyết thành công của nhiều nước Đông
Nam Á và Bắc Âu.
Các phương pháp tác động lên các yếu tố khác của hệ thống
môi trường.
Đó là các phương pháp quản lý đi sâu vào từng yếu tố chi phối lên các
đầu vào của quá trình quản lý môi trường ( tài chính, lao động, công nghệ,
12
thông tin, pháp chế vật tư, sản phẩm rủi ro...). Các phương pháp quản lý này
mang tính chất nghiệp vụ, gắn liền tính kỹ thuật của quản lý chuyên ngành
theo các thành phần môi trường và thường gắn với việc sử dụng các phương
pháp toán-một loại không thể thiếu trong việc lựa chọn các phương pháp quản
lý kinh tế ngày nay.
Các phương pháp tác động lên hệ thống môi trường khác.
Đó là cách tác động bên ngoài hệ thống. Nó không thể sử dụg các tác
động trực tiếp như đã sử dụng trong nội bộ mà tủy thuộc vào mối tương quan
hệ thuộc và phụt thuộc cụ thể diễn ra như thế nào ( mình lệ thuộc họ hay họ lệ
thuộc mình và họ là quan hệ tương đồng), mà có cách sủ dụng phương pháp
thích hợp. Các phương pháp sử dụng chủ yếu ở đây là sự biến dạng của ba
phương pháp đã biết: các phương pháp kinh tế các phương pháp tác động tâm
lý thay cho các phương pháp giáo dục, các phương pháp quan hệ hợp lý-thay
cho các phương pháp hành chính. Ngoài ra có thể sử dụng các phương pháp
khác như phương pháp cạnh tranh, phương pháp marketing, phương pháp xã
hội học, phương pháp truyền thông...
CHƯƠNG II
HIỆN TRẠNG KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TẠI CÁC XÃ NGHÈO TẠI HÀ NỘI
(ĐÁNH GIÁ TẠI BA XÃ KIM QUAN, CẨM YÊN, ĐẠI ĐỒNG)
1. Tình hình kinh tế xã hội
1.1. Địa hình.
13
Vị trí của ba xã, nằm phía Nam và Tây Nam của Hà Nội mở rộng (Hà
Tây cũ), có địa hình rất đa dạng, vùng đồi núi phía tây và vùng đồng bằng
phía đông, độ cao giảm từ tây bắc xuống đông nam.
1.2. Tình hình kinh tế- xã hội.
Tổng diện tích đất tự nhiên của ba xã là 136154ha, trong đó đất nông
nghiệp là 90563ha chiếm 66.52% đất tự nhiên, đất phi nông nghiệp khoảng
45591ha, chiếm khoảng 33.48%. Dân số 20677 người, mật độ dân số
1.519người/km2, chi tiết được biểu thị như trong bảng 1 dưới đây.
Đất đai của các xã có độ phì nhiêu cao, có nhiều địa hình có thể
bố trí được nhiều loại cây trồng. Nông dân có trình độ thâm canh khá, nền
nông nghiệp đã, và đang sẽ cung cấp đáng kể sản phẩm nông nghiệp thit cá,
rau, hoa, quả cây cảnh cho Hà Nội.
14
Biểu 1: Tình hình sử dụng đất tự nhiên và mật độ dân số
T
T Tên xã Diện tích đất tự nhiên(km2)
tổng diện tích đất nông nghiệp
đất phi
nông
nghiệp
Dân số
(người)
mật độ
(người/km2)
Tổng cộng 136154 90563 45591 20677 1.519
1 Kim Quan 46104 29478 16626 6526 1.415
2 Cẩm Yên 39228 22800 16428 4651 1.185
3 Đại Đồng 50822 38285 12537 9500 1.869
Nguồn số liệu: trích báo kinh tế xã hội hàngnăm của xã và quy hoạch đất đai
đến năm 20010 và 2015.
Với vị trí thuận lợi, có thị trường lớn là thủ đô Hà Nội tiêu dùng trực
tiếp nhiều loại nông-lâm-thủy sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ
công mỹ nghệ. Là một trong những địa phương có nguồn nhân lực dồi dào và
có kiến thức kỹ thuật. Với chuỗi đô thị Miếu Môn-Xuân Mai-Hòa Lạc-Sơn
Tây và các khu công nghệ cao được xây dựng sẽ là cơ hội, động lực thúc đẩy
các mặt hoạt động kinh tế đặc biệt là ngành công nghiệp và phát triển đô và là
địa bàn xây dựng mới, di chuyển xí nghiệp công nghiệp của Thủ đô. Khi
đường Láng –Hòa Lạc giai đoạn 2 được xây dựng, hệ thống đường sắt, xa
điện ngầm từ Hà Nội đi Hòa Lạc được xây dựng sẽ là tiền đề tạo bước phát
triển đột phá kinh tế về kinh tế xã hội của địa phương.
Tốc độ tăng trưởng của ba xã nghèo trên bình quân là12,46%/năm
trong đó tăng trưởng bình quân của xã Kim Quan là 14,57%/năm, xã Cẩm
Yên là 13,41%/năm, xã Đại Đồng là 9,4%/năm , được thể hiện trong bảng 2
sau:
15
Biểu 2: Giá trị sản lượng và tốc độ tăng trưởng kinh tế (2005-2007)
Tên xã
Tổng giá trị sản lượng Tốc độ tăng trưởng %
2005 2006 2007
2006/
2005
2007/
2006
2007/
2005
Bình quân/
năm
Tổng cộng 321.408 373.279 706.432 16,14 89,25 219,79 73,26
Kim Quan 30.510 43.125 43.848 41,34 1,68 43,72 14,57
Cẩm Yên 11.426 14.567 16.023 27,49 10,00 40,23 13,41
Đại Đồng 53.931 61.952 69.135 14,87 11,59 28,19 9,40
Nguồn số liệu: Trích báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm của xã
Bình quân thu nhập tính theo đầu người của 3 xã là 5,547 triệu
đồng/người/năm, chi tiết được thể hiện ở biểu 3 dưới.
Biểu 3: Dân số và thu nhập bình quân đầu người
Tên xã
Số hộ gia
đình
Dân số
(người)
Thu nhập bình quân
triệu đồng/người/năm
Tổng cộng 4824 20677 4.93
Kim Quan 1.630 6.526 4,60
Cẩm Yên 987 4.651 2,24
Đại Đồng 2.207 9.500 7,92
Nguồn số liệu: Trích báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm của xã
Tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp của 3 xã năm 2005 là 44 %/năm,
năm 2006 là 47%/năm, năm 2007 là 47%/năm. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và thương mại dịch vụ năm 2005 là 56 %/năm, năm 2006 là
16
53%/năm, đến năm 2007 là 53 %/năm.Chi tiết từng xã thể hiện tại Biểu 4,
dưới đây
Biểu 4: Giá trị sản xuất nông nghiệp và CN, TTCN, TMDV (2005-2007)
Đơn vị tính: triệu đồng
Tên xã
Tổng giá trị sản lượng Sản xuất nông nghiệp SX CN, TTCN, TMDV
2005 2006 2007 2005 2006 2007 2005 2006 2007
Tổng 3 xã 95867 119644 129006 42410 117.437 135.704 53466 63142 11599
Tỷ trọng sản xuất từng năm (%) 44 47 47 56 53 53
Kim Quan 30.510 43.125 43.848 8.610 17.403 19.186 21.900 25.722 24.662
Tỷ trọng sản xuất từng năm (%) 28 40 44 72 60 56
Cẩm Yên 11.426 14.567 16.023 6.921 9.917 10.723 4.505 4.650 5.300
Tỷ trọng sản xuất từng năm (%) 61 68 67 39 32 33
Đại Đồng 53.931 61.952 69.135
26.87
0
29.182 30.800 27.061 32.770 38.335
Tỷ trọng sản xuất từng năm (%) 50 47 45 50 53 55
Nguồn số liệu: Trích báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm các xã cung cấp
Nhìn chung, sự tăng trưởng kinh tế của các xã là phù hợp với quy luật
thuận chiều trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong cả nước. Đó là
kết quả bước đầu đáng ghi nhận mở ra khả năng mới trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH, tuy nhiên ta cũng vẫn nhận thấy
đây là một trong những xã nghèo khá điển hình, mức tổng sản lượng nông
nghiệp vẫn chiếm khá cao trong tổng sản lượng sản xuất. Đời sống nhân dân
từng bước cải thiện, các mặt xã hội cũng có chuyển biến tích cực. Do tổ chức
thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích các cá nhân gia
đình sản xuất kinh doanh giỏi, biết làm giàu, nên đời sống nhân dân xã ngày
càng được cải thiện.
17
Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém,
chưa theo kịp tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá như hiện nay. Trong đó,
nguyên nhân chính là nhận thức bảo vệ môi trường trong xã hội, của người
dân chưa đầy đủ, ý thức chấp hành pháp luật về môi trường của nhiều tổ chức,
cá nhân còn yếu. Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường làm
huỷ hoại và ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động.
2. Tổng quan về tình hình môi trường.
2.1. Hiện trạng môi trường nước.
2.1.1. Hiện trạng môi trường nước mặt.
Với đặc điểm địa hình của các xã khá đa dạng xã Kim Quan với địa
hình bán sơn nguyệt, xã Đại Đồng với địa hình bán sơn địa, và xã
Cẩm Yên với địa hình xã nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa vùng
núi Ba Vì và đồng bằng sông Hồng, có địa hình đồi gò, hơi dốc về
phía nam. Có thể thấy cả ba xã với nhiều loại địa hình như đồng
bằng, trung du và miền núi nên có rất nhiều dạng các thuỷ vực khác
nhau như sông, suối, ao, hồ.Là nơi tập trung hầu hết các nguồn nước
mặt của địa phương. Một số con sông lớn chạy qua như sông Tích,
cùng hệ thống kênh, mương, ao, hồ,…Điều này cho thấy nguồn tài
nguyên nước mặt khá rồi dào có khả năng cung cấp nước phục vụ
tốt cho đời sống, kinh tế -xã hội phát triển của địa phương.
Tuy nhiên, hiện nay nguồn nước mặt được sử dụng cho rất nhiều
mục đích khác nhau như sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,
điều hoà vi khí hậu, tạo cảnh quan du lịch…Ngoài ra, sông lớn còn
giúp hệ thống giao thông đường thuỷ thuận lợi trong thông thương
hàng hoá. Hàng năm, những con sông này còn có tác dụng bồi đắp
một lượng lớn phù xa góp phần làm tăng độ phì nhiêu của đất cho
các khu vực đồng bằng dọc hai bờ sông.
18
Ngày nay, nguồn tài nguyên nước mặt của các xã đang đứng trước
những nguy cơ suy giảm nghiêm trọng về chất lượng do ô nhiễm gây ra. Hiện
tại các nguồn ô nhiễm tại các thuỷ vực rất đa dạng, tập trung chủ yếu vào các
loại chất thải rắn, các loại hoá chất bảo vệ thực vật, dầu mỡ thải từ các hoạt
động giao thông đường thuỷ, dịch vụ du lịch...đã gây ra những ảnh hưởng
đáng kể đến chất lượng của nguồn tài nguyên nước của địa phương và làm ô
nhiễm thuỷ vực. Nguồn nước sinh hoạt của nhân dân vẫn chủ yếu lấy từ giếng
khoan và giếng khơi. Theo thống kê của xã Cẩm Yên hiện nay, nhân dân xã
sử dụng phần lớn nước sinh hoạt từ có 80 giếng khoan của hộ gia đình và 500
giếng đào trong hộ gia đình. Còn tại xã Đại Đồng hiện nay, nhân dân xã sử
dụng phần lớn nước sinh hoạt từ 7 giếng làng khoảng 3.600m
3
và 1.500 bể
chứa nước mưa, 2.000 giếng khoan của hộ gia đình. Nhân dân xã Kim Quan
sử dụng phần lớn nước sinh hoạt từ có 80 giếng khoan của hộ gia đình và 500
giếng đào trong hộ gia đình Các giếng nước ngầm được người dân tự khai
thác ở độ sâu 20-30 mét. Sau đó được bơm hút lên hầu hết các nguồn nước
đều được người dân cho chảy vào bể lọc bằng cát. Đây là công đoạn duy nhất
trong quá trình xử lý nước tại các hộ gia đình hiện nay. Mặc dù quá trình lọc
cát đã có tác dụng làm giảm hàm lượng sắt có trong nguồn nước, song không
thể triệt để nên nguồn nước khi sử dụng đều có hàm lượng sắt và một số yếu
tố khác cao hơn tiêu chuẩn quy định cho phép đối với nước sinh hoạt. Không
có hộ gia đình nào dùng nước ao hồ và các nguồn khác vì đã bị ô nhiễm
không thể dùng được trong sinh hoạt.
Nguyên nhân của tình trạng môi trường nước bị ô nhiễm bởi một số
nguồn chính sau:
Một là: Nguồn nước thải không được xử lý triệt để xả thải trực tiếp vào
các thuỷ vực nước mặt.
Hai là: Nguồn chất thải rắn sinh ra từ quá trình sinh hoạt và sản xuất
không được quản lý chặt chẽ bị phát tán vào nguồn nước mặt.
19
Ba là: Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật bị rửa trôi từ các khu vực ruộng
cấy, trồng ảnh hưởng đến chất lượng của các nguồn nước mặt tiếp nhận;
Bốn là: Chất thải sinh ra từ quá trình hoạt động du lịch trên các thuỷ
vực nước mặt gây ô nhiễm dầu mỡ, mất cảnh quan của các thuỷ vực;
Năm là: Sự lan truyền chất ô nhiễm từ những khu vực này sang khu
vực khác, lan truyền theo dòng chảy.
Sáu là: Các ao hồ trong khu dân cư hiện nay bị san lấp nhiều ảnh
hưởng đến việc tiêu thoát nước gây ra ô nhiễm môi trường.
Về hiện trạng môi trường nước tại các cơ sở sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại tại các xã một trong
những đặc điểm chung hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đều có công nghệ lạc hậu, chủ yếu
là sản suất thủ công, không có hệ thống xử lý chất thải nên tác động
đến môi trường là điều khó trách khỏi. Tại xã Kim Quan Theo số
liệu thống kê tỷ trọng giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ của xã chiếm 56%/năm và hầu hết tại cơ
sở sản xuất này đều có công nghệ lạc hậu, chủ yếu là sản suất thủ
công, không có hệ thống xử lý chất thải nên tác động đến môi
trường là điều khó trách khỏi. Hầu hết lượng nước thải được sinh ra
đều không xử lý và xả thải trực tiếp ra môi trường. Do đặc thù như
vậy nên những cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ này đều là những địa điểm có tính nhậy cảm môi trường
cao. Đây là các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ có phát sinh ra một lượng nước thải khá lớn trong quá
trình sản xuất. Hầu hết lượng nước thải được sinh ra đều không xử
lý và xả thải trực tiếp ra môi trường. Quá trình này gây ảnh hưởng
trực tiếp đến nguồn nước mặt là điều khó tránh khỏi.
20
2.1.2. Hiện trạng môi trường nước ngầm.
Hiện trạng nước ngầm của 3 xã có trữ lượng khá dồi dào. Theo kết quả
điều tra đánh giá tiềm năng, chất lượng và hiện trạng sử dụng nước dưới lòng
đất phục vụ quy hoạch và khai thác bền vững nguồn nước ngầm của địa
phương, trữ lượng tĩnh tự nhiên nước dưới đất đủ khả năng cung cấp nước
cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, sản xuất và đời sống dân sinh trên địa
bàn từng xã. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn nhất định do điều kiện địa
chất thủy văn phức tạp, trữ lượng nước phân bố không đồng đều giữa các
vùng.
Nguồn nước ngầm tại 3 xã đang chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nguồn ô
nhiễm khác nhau trong đó đặc biệt là ảnh hưởng của các nguồn nước thải
không được xử lý. Điều đó có thể thấy rất rõ tại tất cả các làng nghề trên địa
bàn các xã. Tại các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ, nguồn nước ngầm được người dân tự khai thác ở độ sâu 20-30 mét.
Sau đó được bơm hút lên hầu hết các nguồn nước đều được người dân cho
chảy vào bể lọc bằng cát. Đây là công đoạn duy nhất trong quá trình xử lý
nước tại các hộ gia đình hiện nay. Mặc dù quá trình lọc cát đã có tác dụng làm
giảm hàm lượng sắt có trong nguồn nước, song không thể triệt để nên nguồn
nước khi sử dụng đều có hàm lượng sắt và một số yếu tố khác cao hơn Tiêu
chuẩn quy định cho phép đối với nước sinh hoạt.
2.1.3 Đánh giá tác động ô nhiễm môi trường nước.
Ở một số xã, khu dân cư sống tập trung với mật độ dân số cao, lượng
rác thải sinh hoạt nhiều không thu gom được và xử lý. Các ao hồ, kênh
mương thoát nước trong khu dân cư đang bị san lấp ảnh hưởng đến việc tiêu,
thoát nước trong khu dân cư. Bởi vậy vấn đề ô nhiễm môi trường tại khu dân
cư đang xuất hiện và ngày càng tăng thêm. Qua kết quả rà soát đánh giá hiện
trạng môi trường nước của các xã (gồm môi trường nước mặt và nước ngầm),
có thể thấy môi trường nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống
21
kinh tế xã hội của địa phương. Cho nên, những ảnh hưởng của nguồn tài
nguyên nước sẽ tác động trực tiếp lẫn gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của
xã. Bên cạnh những tác động của đời sống kinh tế xã hội nguồn tài nguyên
nước thì những tác động của cộng đồng dân cư đến nguồn tài nguyên nước
của xã hiện nay cũng rất lớn. Những tác động này rất đa dạng về mức độ và
hình thức. Tuy nhiên đặc điểm chung của hầu hết các tác động của con người
đến nguồn tài nguyên nước là tác động mang tính tiêu cực nhiều hơn tích cực.
Với thực tế như vậy, nên những tác động ảnh hưởng đến môi trường nước của
nguồn nước ô nhiễm là khá đa dạng, điển hình là một số nguồn chính sau đây.
- Nguồn nước thải không được xử lý triệt để xả thải trực tiếp vào các
thuỷ vực nước mặt.
- Nguồn chất thải rắn sinh ra từ quá trình sinh hoạt và sản xuất không
được quản lý chặt chẽ bị phát tán vào nguồn nước mặt.
- Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật bị rửa trôi từ các khu vực ruộng
cấy, trồng ảnh hưởng đến chất lượng của các nguồn nước mặt tiếp
nhận;
- Chất thải sinh ra từ quá trình hoạt động du lịch trên các thuỷ vực
nước mặt gây ô nhiễm dầu mỡ, mất cảnh quan của các thuỷ vực;
- Sự lan truyền chất ô nhiễm từ những khu vực này sang khu vực
khác, lan truyền theo dòng chảy.
Trước thực tế trên, các chất ô nhiễm đối với các nguồn nước hiện nay
là khá đa dạng, nguồn ô nhiễm này gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
của các thuỷ vực nước mặt cũng như túi nước ngầm. Hiện nay các nguồn ô
nhiễm môi trường nước có nguồn gốc không giống nhau thường mang tính
đặc thù cao cho từng khu vực.
Với những đặc điểm chung về sự tác động qua lại của nguồn tài nguyên
nước với con người như hiện nay tại các thuỷ vực nước mặt và các túi nước
ngầm trên địa bàn các xã đã xuất hiện hiện tượng ô nhiễm. Quá trình sử dụng
22
các nguồn nước bị ô nhiễm sẽ gây ra nhiều các loại bệnh khác nhau cho sức
khoẻ của con người sử dụng như da liễu, tiêu hoá, ung thư, đau mắt…Điều
này cho thầy tính chất nguy hại đối với sức khỏe của cộng đồng khi phải sử
dụng nguồn nước bi ô nhiễm
Ngoài ra, việc sử dụng các nguồn nước ngầm bị ô nhiễm trong vùng
trồng trọt cũng có thể gây ra sự hấp thu các chất ô nhiễm như kim loại nặng
vào các sản phẩm của quá trình trồng trọt. Đây là tác động gián tiếp đến sức
khoẻ cộng đồng do sử dụng các nguồn nước bị ô nhiễm. Như vậy, hiện nay sử
dụng các nguồn nước không bảo đảm chất lượng vào các mục đích khác nhau
của cuộc sống sẽ là nguyên nhân gây ra nhiều tác động nguy hại đến sức
khoẻ của con người. Các tác động này, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Với
đặc điểm như vậy, việc gìn giữ chất lượng của nguồn tài nguyên là rất quan
trọng. Việc này cần được thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ của nhiều ban
ngành có liên quan.
Vậy đâu là giải pháp cho vấn đề ô nhiễm nước nghiêm trọng tại đây?
Chiến lược lâu dài là có thể cung cấp những nguồn nước uống an toàn đã qua
xử lý và cải thiện hệ thống vệ sinh. Chiến lược ngắn hạn là sử dụng những
phương pháp xử lý nước đơn giản tại hộ gia đình như lọc nước, đun sôi nước
bằng lượng nhiệt thừa từ nấu nướng. Ngay cả việc xây dựng thói quen rửa tay
cũng có thể bảo vệ hàng triệu con người.
Bên cạnh đó, ngoài chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức, cũng
cần phải áp dụng những quy định nghiêm ngặt hơn đối với vấn đề kiểm soát ô
nhiễm, buộc tất cả mọi doanh nghiệp - từ quy mô nhỏ đến lớn - phải đáp ứng
được những tiêu chuẩn tối thiểu. Xét cho cùng, nước sạch và không khí trong
lành là những điều thiết yếu để có được một cuộc sống khỏe mạnh.
Điều quan trọng nhất là chính phủ cần đầu tư và xây dựng những dự án
nước sạch cũng như các công trình xử lý nước thải để hỗ trợ cho chiến dịch
này và thu hút người dân tham gia.
23
2.2. Hiện trạng không khí tiếng ồn
2.2.1. Hiện trạng môi trường không khí và tiếng ồn.
Hiện nay, trên địa bàn 3 xã cũng giống như các địa phương khác các
nguồn ô nhiễm không khí rất đa dạng nên tác động của các dạng chất ô nhiễm
cũng rất khác nhau đến môi trường không khí. Dưới đây là một số nguồn gây
ô nhiễm không khí hiện nay:
- Mật độ phương tiện giao thông hoạt động với mật độ dày gây tiếng ồn,
khí thải làm ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến môi trường nhất là đối với nhân
dân sống ven đường và gần đường cao tốc, đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua.
- Các công trình xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng và giao thông.
Hiện nay các công trường xây dựng chủ yếu tập trung vào các khu
công nghiệp và quá trình làm mới, sửa chữa các hệ thống đường
giao thông. Đối với một số khu công nghiệp đang trong quá trình
san lấp mặt bằng nên ô nhiễm bụi từ quá trình chuyên chở, rơi vãi
đất, đá là rất lớn. Hiện tượng ô nhiễm môi trường không khí xẩy ra
tại các khu vực có tuyến đường giao thông chạy qua bởi lưu lượng
phương tiện tham gia giao thông ngày càng lớn đã xuất hiện hiện
tượng tiếng ồn và bụi bẩn.
- Các khu công nghiệp và các nhà máy, xí nghiệp sản xuất công
nghiệp. Trong những năm gần dây với định hướng mới trong phát
triển kinh tế, xã hội của từng xã mọc nên nhiều khu, cụm điểm công
nghiệp được hình thành trên địa bàn. Các nhà máy, xí nghiệp, khu
công nghiệp với số lượng, mật độ như hiện nay đang hoạt động trên
địa bàn xã là không lớn. Do đó những tác động của nguồn khí thải
từ hoạt động của các nhà máy này đến môi trường không khí của
tỉnh là không đáng kể.
24
- Các làng nghề truyền thống, có số lượng khá lớn cho nên những tác
động từ quá trình sản xuất của làng nghề này đến môi trường không
khí là rất đáng kể. Do đặc điểm sản xuất đặc trưng của các làng
nghề, các tác động của chúng đến môi trường không khí cũng mang
tính đặc trưng. Hiện nay các tác nhân gây ô nhiễm sinh ra từ các
làng nghề của địa phương chủ yếu là hơi, khí thải, mùi và tiếng ồn
tại các làng chế biến nông sản, các làng sản xuất các sản phẩm cơ
khí, các làng nghề sản xuất mộc, mây tre, giang, dan…có thể nói,
hiện nay tác nhân gây ô nhiễm có nguồn gốc từ các làng nghề hiện
nay là rất đa dạng và với số lượng nhiều tác động đến môi trường
không khí là rất lớn và trên diện rộng.
- Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay các cơ sở sản
xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn các xã là rất lớn, tuy nhiên
các cơ sở này thường không tập trung và nằm rải rắc hầu hết các
khu vực trong địa bàn. Loại sản phẩm này chủ yếu là các cơ sở sản
xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi đá. Hiện nay hầu hết các
cơ sở này phải sử dụng một lượng than đá rất lớn. Đây là nguyên
nhân chính làm phát sinh ra các bụi khí CO, SO2, CO2, … và bụi.
Do tính chất và khả năng phát tán cao nên các loại khí này có khả
năng gây ô nhiễm trên một diện rộng và ảnh hưởng trực tiếp đến
môi trường không khí, năng suất hoa mầu và sức khoẻ của cộng
đồng.
- Khí thải sinh ra từ quá trình phân huỷ chất thải rắn. Đây là nguồn
gây ô nhiễm mang tính cục bộ cao, đây là nguồn ô nhiễm có khả
năng tác động rất nguy hại đến môi trường và sức khoẻ của cộng
đồng. Nguồn gốc của các ô nhiễm này tập trung tại các bãi thu gom
và chôn lấp rác thải sinh hoạt trên địa bàn xã. Hiện nay, trên địa bàn
3 xã đã có các điểm bãi rác tập trung nhưng phần lớn chưa bảo đảm
hợp vệ sinh môi trường. Là nơi tạo điều kiện các loại khí độc hại
25