Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.54 KB, 104 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM









HOÀNG THỊ HẰNG







CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN










LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN









THÁI NGUYÊN – NĂM 2013



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







HOÀNG THỊ HẰNG







CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thu Hằng






THÁI NGUYÊN – NĂM 2013


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM








HOÀNG THỊ HẰNG






CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ
TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Thu Hằng







THÁI NGUYÊN – NĂM 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS Dương Thu Hằng.
Tôi cam đoan rằng:
- Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
- Kết quả này không trùng với bất cứ tác giả nào đã được công bố
Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn


Hoàng Thị Hằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 1

3. Mục đích nghiên cứu 4

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4

5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5

7. Kết cấu luận văn 5

8. Đóng góp của luận văn 6

NỘI DUNG 7

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 7

1.1. Khái niệm chủ đề đời tư 7

1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài 7

1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư 8

1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư 9

1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại 12


1.2.1. Khái quát chung 12

1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến 13

1.3. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến 24

1.3.1 Con người và cuộc đời 24

1.3.2. Sự nghiệp sáng tác 27

1.3.3. Mảng thơ viết về chủ đề đời tư trong trước tác của Nguyễn Khuyến 28

Chương 2. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA BỨC CHÂN DUNG TỰ HỌA 30

2.1. Về hình thức 30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2. Tâm hồn tính cách 32

2.2.1. Con người hiếu học 33

2.2.2. Con người chua chát, sâu cay và cũng rất hài hước dân dã 34

2.2.3. Con người luôn dằn vặt day dứt khôn nguôi 41

Chương 3. CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ QUA CÁC MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN 56

3.1. Mối quan hệ vợ chồng 56


3.2. Mối quan hệ cha con 67
3.3. Quan hệ thầy trò 78

3.4. Quan hệ bạn bè 82

3.5. Quan hệ làng xóm 86

KẾT LUẬN 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
PHỤ LỤC




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của lịch sử văn học dân tộc
nói chung và văn học trung đại nói riêng. Thơ văn Nguyễn Khuyến là điểm sáng
của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX - những năm đầu thế kỷ XX.
Thơ ông đề cập tới nhiều mảng chủ đề, trong đó “chủ đề đời tư” chiếm một số
lượng khá lớn. Những dòng thơ ấy ông viết cho riêng mình, viết về đời sống cá
nhân và những mối quan hệ tình cảm riêng tư.

Chủ đề đời tư không phải là chủ đề lớn và xuất hiện phổ biến trong văn học
Việt Nam thời trung đại. Thời trung đại là thời kỳ mang đậm dấu ấn của tam giáo.
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng tam giáo, về cơ bản con người trong văn học trung đại
Việt Nam thường hướng về những chức năng, phận sự, sự hành đạo mà ít chú ý đến
vấn đề đời tư của con người suốt một thời gian dài. Khoảng năm thế kỉ đầu vấn đề
đời tư gần như không được nhắc đến. Sự in đậm dấu ấn cá nhân cùng với sự thể
hiện sâu sắc đời sống riêng tư của mình, Nguyễn Khuyến đã tạo ra một bước phát
triển mới cho văn học Việt Nam trung đại trong việc thể hiện con người. Đó là quá
trình đi từ cái “chung” đến cái “riêng”, từ “vô ngã ” đến “hữu ngã ” và chính cái
“riêng” cái “hữu ngã” này, trong chừng mực nhất định làm cho văn học có sự thay
đổi về chất.
Nguyễn Khuyến là một tác giả được giảng dạy trong nhà trường các cấp. Vì
vậy, thực hiện đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ” sẽ góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học về tác giả Nguyễn Khuyến nói riêng, văn học trung đại
Việt Nam nói chung.
Xuất phát từ ba lí do trên chúng tôi lựa chọn đề tài : “Chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Khuyến” với hy vọng sẽ góp thêm một góc nhìn mới về tác giả quen thuộc này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Khuyến là một thi tài, là một trong những cây đại thụ của văn học dân
tộc. Bóng mát của cây đại thụ ấy đã rợp xuống thời gian suốt mấy trăm năm. Gốc rễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2

của nó đã ăn sâu vào lòng đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Vì thế từ lâu,
Nguyễn Khuyến và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến đã trở thành mảnh đất trù
phú nuôi trồng biết bao cây bút nghiên cứu, phê bình văn học.
Thơ văn Nguyễn Khuyến được công bố muộn, đăng tải lần đầu tiên trên Nam

phong tạp chí (1917). Nhưng phải đợi đến gần hai mươi năm sau thì công tác văn
học sử trên đường hình thành mới tìm đến Nguyễn Khuyến.
Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ văn chữ Hán của Nguyễn Khuyến được
chính thức bắt đầu từ năm 1957, nhưng phải đến năm 1971, khi cuốn Thơ văn
Nguyễn Khuyến được công bố, công việc này mới đạt được những thành tựu đáng
kể. Kể từ đây, việc nhìn nhận “Nguyễn Khuyến – một nhà thơ yêu nước ” bắt đầu
được đề cập đến. Cũng trong khoảng thời gian này, bộ Hợp tuyển thơ văn yêu nước
Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX ra mắt và Nguyễn Khuyến cũng có một “chỗ ngồi”
không đến nỗi quá khiêm tốn trong bộ sách trên.
Từ đó đến nay đã có nhiều công trình lớn nhỏ nghiên cứu về thơ Nguyễn
Khuyến: Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm [30]; Nguyễn Khuyến thơ, lời bình
và giai thoại [31]; Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình [39]; Nguyễn Khuyến tác
phẩm [10]
Có thể nói, Nguyễn Khuyến là nhà thơ để lại dấu ấn đậm nét trong văn học với
rất nhiều tác phẩm được lưu truyền hậu thế. Vì vậy, thơ văn ông đã được rất nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, đề tài “chủ đề đời tư trong
thơ Nguyễn Khuyến” thì vẫn chưa thấy có công trình nào được công bố. Nó chỉ
được đề cập đến ở một số bài viết, cụ thể như sau:
Trong bài “Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động của một
phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc”, Nguyễn Huệ Chi
viết: Nguyễn Khuyến đã tự trào mình khá chua cay, đã vạch đúng chân tướng con
người bế tắc, thoái chí của mình: “Cờ đang dở cuộc không còn nước; Bạc chửa thâu
canh đã chạy làng”, (Tự trào) [30, tr. 62]. Bài viết mới chỉ ra một khía cạnh tự trào
trong tính bi kịch con người Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề
chứ cũng chưa đi sâu vào từng bài cụ thể để tìm hiểu và nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



3


Trong bài “Nhân vật trữ tình trong thơ trữ Hán”, Trần Thị Băng Thanh có
viết: “Hình ảnh một ông già xuề xòa giữa cộng đồng dân dã ở đây đã lùi lại phía
sau, nhường chỗ cho một hình ảnh khác: một trí thức ý thức rõ rệt về bản lĩnh và
nhân cách, về trách nhiệm kẻ sĩ trước những xáo động dữ dội của thời cuộc. Đây
chính là một dạng nhân vật đặc sắc và không kém quan trọng trong thơ Nguyễn
Khuyến, có quan hệ mật thiết với con người tác giả, nhưng không hoàn toàn đồng
nhất với tác giả Vẻ đẹp hướng nội làm cho nhân vật ấy sống động lên, như là một
người anh em sinh đôi với Nguyễn Khuyến; và cũng chính con người nghệ thuật
này đã thống nhất anh đồ nho, ông quan Tam Nguyên và ông già Yên Đổ ẩn cư
trong Nguyễn Khuyến lại làm một” [30, tr. 240].
Ở bài viết này, Trần Thị Băng Thanh cũng nhắc đến hình ảnh con người
Nguyễn Khuyến, tuy nhiên tác giả lại chỉ nêu vấn đề chứ cũng chưa đi sâu khảo sát
tác phẩm cụ thể.
Trong bài “Tâm trạng Nguyễn Khuyến qua thơ tự trào” Vũ Thanh có nêu: “Ở
cả hai mảng chân dung, cũng chỉ là một Nguyễn Khuyến. Nhưng nếu ở chân dung
tự trào bằng chữ Hán tâm hồn tác giả cao quý quá, sâu xa quá thì ở chân dung tự
trào bằng chữ Nôm tác giả như cố tình bôi xấu đi, đánh lạc hướng đi, che dấu đi
“một tấm lòng son vẫn có thừa” Hai bức chân dung tự họa ấy vừa là sự bổ sung
mật thiết vừa đối lập nhau một cách gay gắt” [30, tr. 275].
Nhà nghiên cứu Vũ Thanh đã đề cập đến chân dung tự trào. Tuy nhiên, tác giả
chỉ tìm hiểu về tâm hồn cao quý chứ chưa đi sâu tập trung phân tích làm rõ hình ảnh
chân dung, con người Nguyễn Khuyến.
Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã đề cập
đến vai trò, ý nghĩa của chủ đề đời tư trong tiến trình phát triển của thể loại: “ Cùng
với việc phản ánh xã hội, đất nước, con người, ở giai đoạn cuối của Đường luật
Nôm đã xuất hiện khuynh hướng đi vào đời tư. Đây là một biểu hiện mới trong chức
năng thể loại, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét. Những bước đi đầu tiên này chắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4

hẳn có một ý nghĩa nào đó đối với sự phát triển và mở rộng chủ đề đời tư trong thơ
ca Việt Nam giai đoạn sau ”[40, tr. 6].
Rõ ràng, chủ đề đời tư trong văn học trung đại là vấn đề đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm, chú ý ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau. Tuy vậy, cho đến
nay chưa có một công trình nào coi chủ đề đời tư là đối tượng chính để nghiên cứu
một cách có hệ thống và toàn diện. Đây là một việc làm có ý nghĩa khoa học, ý
nghĩa thực tiễn và góp phần nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Vì vậy, chúng tôi tiếp thu
những ý kiến, những gợi dẫn quý báu của các nhà nghiên cứu đi trước để thực hiện
đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến ”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài đi sâu vào tìm hiểu chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến, qua đó góp
phần phác họa rõ thêm chân dung một tác giả văn học.
- Luận văn góp phần nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập thơ văn Nguyễn Khuyến trong nhà trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những bài thơ mang chủ đề đời tư
trong cuốn “Nguyễn Khuyến tác phẩm” của tác giả Nguyễn Văn Huyền Sưu tầm –
Biên dịch – Giới thiệu, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1984.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm những bình diện sau :
4.2.1. Các sáng tác của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là những bài thơ về chủ đề đời tư.
4.2.2. Các tư liệu, công trình nghiên cứu, bài báo có liên quan.
Ngoài ra, trong chừng mực có thể luận văn còn so sánh chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Khuyến với các tác giả thơ trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Công Trứ, Tú Xương


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Làm rõ một số khái niệm có liên quan đến đề tài
5.2.Khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm mang chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn
Khuyến
5.3. Phân tích và đánh giá về tác dụng, ý nghĩa của các phương diện thể hiện chủ đề
đời tư trong thơ Nguyễn Khuyến. Qua đó, khẳng định vai trò vị trí của chủ đề đời tư
trong thơ Nguyễn Khuyến đối với tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt
Nam trong việc thể hiện con người nói chung, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Khuyến nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề tài
này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp này giúp chúng tôi phân loại và
lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết
vấn đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá
trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây là
phương pháp không thể thiếu để có thể hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra
sự tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành (lịch
sử học, văn hóa học, toán học, xác suất thống kê…) nhằm giúp cho vấn đề được
nhìn nhận bao quát hơn và chính xác hơn.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Chủ đề đời tư qua bức chân dung tự họa.
Chương 3: Chủ đề đời tư qua các mối quan hệ cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



6

8. Đóng góp của luận văn
Là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê những bài thơ về chủ đề đời tư mà
Nguyễn Khuyến thể hiện trong sáng tác của mình. Từ đó, phân tích, lập luận chỉ ra
nội dung tư tưởng mới mẻ và phong phú của mảng thơ này đối với sự nghiệp văn
học của Nguyễn Khuyến. Thông qua đó, giá trị thơ văn và tài năng của Nguyễn
Khuyến được khẳng định sâu sắc hơn.
Luận văn là một trong những nguồn tư liệu hữu ích phục vụ việc giảng dạy, học
tập và nghiên cứu về Nguyễn Khuyến.









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Khái niệm chủ đề đời tư
1.1.1. Phân biệt chủ đề và đề tài
Đề tài là “khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực
tiếp trong tác phẩm văn học ” [7, tr. 110]. Có thể hiểu đề tài là yếu tố cơ bản của tác
phẩm văn học dùng để chỉ phạm vi đời sống hoặc tâm trạng được phản ánh trong công
trình nghệ thuật của nhà văn.
Chủ đề là “vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra và qua
nội dung cụ thể của tác phẩm văn học ” [7, tr. 61].
Đề tài là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống được miêu tả. Có bao
nhiêu hiện tượng đời sống có bấy nhiêu đề tài. Khi nói đến đề tài tác phẩm, ta
không phải chỉ nói tới một đề tài, mà thực chất là một hệ thống đề tài liên quan
nhau, bổ sung cho nhau tạo thành đề tài của tác phẩm. Tương tự như vậy, về bản
chất, chủ đề văn học không bao giờ là vấn đề đơn nhất. Nếu trong thực tại, bản chất
con người đã là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thì điều đó có nghĩa là bất cứ
một vấn đề nào của con người cũng liên quan đến hàng loạt vấn đề phức tạp khác
của quan hệ xã hội. Vì thế, trong một tác phẩm cũng có chủ đề chính và chủ đề phụ.
Như vậy, thực chất khái niệm đề tài, chủ đề mang tính hệ thống.
Đề tài và chủ đề có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối quan hệ đặc biệt
quan trọng với nội dung tác phẩm. Đề tài và chủ đề là những khái niệm chủ yếu thể
hiện phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài
giúp ta xác định “Tác phẩm viết cái gì ?”, thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi

“Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? ”. Chủ đề bao giờ cũng được hình thành và
được thể hiện trên cơ sở đề tài. Đề tài và chủ đề là hai khái niệm khác biệt nhau
nhưng trong một số trường hợp đề tài và chủ đề hòa quyện với nhau không tách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



8

được như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện đồng thoại, một số thơ trữ tình Người
tiếp nhận có thể đi thẳng từ đề tài bên ngoài vào chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Như vậy đề tài và chủ đề là một con đường quan trọng giúp người đọc có thể đi vào
và tiếp nhận nội dung tác phẩm.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài và chủ đề trong tác phẩm văn học,
các nhà văn luôn quan tâm đến vấn đề này trong quá trình sáng tác. Mặc dù là
những phương diện khách quan của nội dung tác phẩm nhưng đề tài và chủ đề đều
có tính chất chủ quan. Không chỉ gắn với hiện thực khách quan, đề tài và chủ đề còn
do lập trường tư tưởng và vốn sống của nhà văn quy định. Các nhà văn chân chính
luôn có ý thức trong việc làm mới đề tài, chủ đề trong sáng tác của mình. Nguyễn
Khuyến với chủ đề đời tư trong thơ chính là một trường hợp như vậy.
1.1.2. Phân biệt con người cá nhân và chủ đề đời tư
Văn học là một hoạt động sáng tạo, sự sáng tạo mang tính cá nhân trực tiếp và
độc đáo. Vì thế, sáng tác văn học bộc lộ mạnh mẽ và phong phú vai trò của nhân tố
chủ quan (dấu ấn của chủ thể sáng tạo).
Ở thời nào cũng vậy, sức sáng tạo của dân tộc kết tinh ở những cây bút lớn đều
có những cách khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của riêng mình
Điều đó cũng có nghĩa là: ở mức độ đậm nhạt khác nhau, tác phẩm văn học viết bao
giờ cũng ít nhiều in dấu ấn cá nhân. Dấu ấn cá nhân này không thể có ở dòng văn
học dân gian do sáng tác được tiến hành tập thể và lưu truyền bằng miệng, là kết
quả nhận thức - thẩm mĩ của một tập thể trong cộng đồng.

Dấu ấn cá nhân là cơ sở để nhận diện con người cá nhân trong văn học. Dấu
ấn cá nhân là biểu hiện của chủ thể con người riêng biệt. Khi nào con người riêng
biệt ấy có ý thức tự khẳng định sự tồn tại, khẳng định giá trị riêng của mình gắn với
ý nghĩa nhân sinh quan của con người thì xuất hiện con người cá nhân. Như vậy con
người cá nhân trong sáng tác văn chương là quá trình tự ý thức về mình của con
người, là cái “tôi” tác giả thể hiện trong tác phẩm - sự diễn tả giãi bày thế giới tư
tưởng, tình cảm, ước mơ khát vọng thầm kín của nhà văn, sự khẳng định vai trò
bản ngã của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



9

Văn học viết Việt Nam thời kì trung đại với tư cách là những sản phẩm sáng tạo
tinh thần của những chủ thể - cá thể, đã xuất hiện con người cá nhân. Trong lời kết
cuốn “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam”, Trần Đình Sử khẳng định:
“Con người cá nhân trong văn học trung đại có một quá trình tự ý thức chậm chạp,
lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh hưởng của các ý
thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng khung trong ý thức hệ đó mà
phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính của con người trong thực tế đời
sống” [26, tr. 194]. Đặc biệt “Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII con người cá nhân khẳng
định mình bằng cách gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp
chung của cộng đồng, yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý ” [26, tr. 194].
Như vậy có con người cá nhân chưa hẳn đã có chủ đề đời tư. Trong những bài
thơ tự thuật, cảm hoài, ngôn chí, ngôn hoài , các tác giả đã gửi gắm, bộc lộ tâm sự
của mình. Nhưng thời trung đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và giai đoạn
phát triển của nhà nước phong kiến, con người sống bằng các giá trị chủ yếu như
đạo lí cương thường, cho nên bộc lộ tâm sự mà không thấy tâm trạng, không thấy
cái “tôi” trữ tình riêng, không nhằm nói tiếng nói của cái “tôi” cá biệt mà nói tiếng

nói của cái “ta” (phần đạo lí trong cái “tôi” đó). Đây là tiếng nói của sự tự ý thức về
nghĩa vụ, về trách nhiệm của con người cá nhân trước vận mệnh đất nước chứ
không phải mang màu sắc của con người cá nhân ở một mức độ nhất định.
“Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (Các Mác). Văn học lại
là một bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng phản ánh chủ yếu cho nên
văn học phản ánh các mối quan hệ xung quanh con người. Chỉ khi nào con người
với những mối quan hệ riêng tư chiếm một vị trí lớn trong đời sống của họ, những
giá trị cá nhân như quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự
nhiên được đề cao, được chú ý thì khi đó có sự xuất hiện của chủ đề đời tư trong
văn học.
1.1.3. Khái niệm chủ đề đời tư
Từ khái niệm chung về chủ đề có thể xác định: ở chủ đề đời tư, vấn đề chủ
yếu, vấn đề trung tâm mà nhà văn nêu lên, đặt ra trong tác phẩm là các vấn đề đời tư
của chính bản thân tác giả, thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10

- Con người và cuộc sống riêng của chính tác giả.
- Các mối quan hệ riêng tư
Như vậy, trong tác phẩm văn học có sự xuất hiện của chủ đề đời tư, tác giả
đã đưa chính mình vào thơ văn mình như một nhân vật khách thể. Nhân vật ấy với
tác giả vừa là một, vừa không là một vì nó đã là một nhân vật của văn học được xây
dựng theo quy luật sáng tạo của nghệ thuật vốn dĩ là thiên hình vạn trạng, vừa thực
vừa hư nhưng tất cả đều trên một cái nền tâm trạng thực, một nhân cách thực.
Dễ thấy, có hai nguyên nhân chủ yếu của sự hình thành và xuất hiện chủ đề đời
tư trong văn học. Nguyên nhân thứ nhất có thể kể đến là do quy luật phát triển tất
yếu của văn học. Nguyên nhân thứ hai chính là do có sự phát triển của cá tính và ý

thức cá nhân trong văn học. Trên thực tế, chủ đề đời tư chỉ xuất hiện khi con người
có ý thức về cá nhân, cá tính của mình. Bởi thế, một số thể loại văn học dân gian
tiêu biểu không hề có chủ đề đời tư. Chẳng hạn, “Thần thoại là tập hợp những
truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn
hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con
người”. Thần thoại được coi là những sáng tác sớm nhất trong quá trình phát triển
của lịch sử văn học dân tộc. Thần thoại là sản phẩm của người nguyên thủy, khi con
người bắt đầu có ý thức nhưng chưa tách mình ra khỏi tự nhiên. Điều kiện sinh sống
của người nguyên thủy một mặt khiến cho họ không thể đấu tranh với lực lượng tự
nhiên, mặt khác gắn chặt họ với tự nhiên. Sáng tạo thần thoại, người nguyên thủy đã
“dùng tưởng tượng, mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên, chi phối tự
nhiên, hình tượng hóa tự nhiên” [21, tr. 69]. Hàng loạt truyện thần thoại của người
Việt như “Thần trụ trời”, “Sơn tinh thủy tinh”, “Thần mưa”, “Thần mặt trời” “Nữ
thần mặt trăng” “Mười hai bà mụ” đã ra đời như một nhu cầu để nhận thức, lý giải
các hiện tượng tự nhiên và thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Việt
cổ. Như vậy, thần thoại phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là chủ
yếu. Do đó, ở thần thoại chưa xuất hiện chủ đề đời tư. Tương tự, sử thi ra đời khi xã
hội nguyên thủy đã tan rã, xã hội phong kiến chưa hình thành; là bức tranh rộng và
hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



11

đại diện cho bộ tộc. Đó là những bài ca ca ngợi những kì tích của toàn thể cộng
đồng mà tiêu biểu là ca ngợi những nhân vật anh hùng trong sự nghiệp xây dựng
đời sống chung như chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ bộ tộc
Con người sử thi là những dũng sĩ có sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường. Họ
có thể giết tê giác, bắt voi rừng, quật ngã trâu như Khinh Dú, Xinh Nhã Có thể

đánh bại các tù trưởng để trở thành “tù trưởng của các tù trưởng”, chặt cây thần, đi
bắt nữ thần mặt trời để chinh phục tự nhiên như Đam San Con người sử thi có ý
thức và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ đối với cộng đồng, nhưng con người sử thi
chưa phải là những con người phát triển ý thức cá nhân, con người bên trong, con
người cho riêng mình, vì mình. Đại diện toàn năng cho bộ tộc, tiêu biểu cho những
gì tốt đẹp nhất của cộng đồng, rõ ràng sử thi chủ yếu phản ánh mối quan hệ giữa
con người và lịch sử, con người với cộng đồng. Không thể tìm thấy chủ đề đời tư
trong những tác phẩm này.
Đến thời trung đại, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng đồng; giá
trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Con người ý thức cá tính trong cái chuẩn mực
vô ngã. Theo giáo sư Trần Đình Sử, sự ý thức về cá tính trong xã hội Việt Nam
trung đại không nằm ngoài quy luật phổ biến trên nhưng có tính đặc thù. Con người
một mặt lấy luân thường đạo lí làm phương châm răn mình, làm khuôn đúc nhân
cách, mặt khác cá tính con người được ý thức bằng các phạm trù “siêu chuẩn”, “phi
chuẩn”. Các phạm trù đó có thể là “tài tình”, “nghịch tử” Nó được ý thức qua
phạm trù “tâm sự” mang tính chất trữ tình. Khi Nguyễn Trãi viết:
Đống lương tài có mấy bằng mày,
Nhà cả nhiều phen chống khỏe thay .
(Tùng)
thì “tài” ở đây không phải để khoe mà nó là một phạm trù để ý thức cá tính, để nhận
ra giá trị tự thân của con người. Sang giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII, thế kỷ
XIX, lại xuất hiện hàng loạt các tác giả như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát lấy “ngông” làm tài để khẳng định cá tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



12

Tất cả đều là kết quả của việc con người tách mình ra khỏi môi trường xung

quanh, con người tự cho phép mình như một chủ thể tự nhận thức. Và chính sự vượt
lên khuôn khổ, sự tự nhận thức ấy, con người cá nhân đã được khẳng định.
1.2. Chủ đề đời tư trong văn học trung đại
1.2.1. Khái quát chung
Con người trong văn học chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng triết học, thần
học mỗi thời. Giống như con người trong văn học trung đại Trung Quốc mang đậm
dấu ấn của tam giáo Nho, Đạo, Phật, văn học trung đại Việt Nam ra đời và phát
triển dưới các triều đại phong kiến, ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến.
Đặc điểm chung của ý thức trung đại phản ánh vào các luồng tư tưởng này là quan
niệm về con người “vô ngã”. Cả Nho, Phật, Đạo đều chủ trương lý tưởng vô ngã,
phá ngã, vô kỷ Điều này đã chi phối đến cách ứng nhân xử thế, xác định mối quan
hệ qua lại giữa cá nhân và cộng đồng của con người trong văn học.
Có thể nói, thời trung đại cái riêng chưa phát triển, mối quan hệ của con người
là mối quan hệ với cái chung, với cộng đồng, với dân tộc. Nhân cách con người
được tăng cường ở vị trí công dân – một phần tử của đất nước, ít có chỗ cho cá nhân
tự ý thức, có khi hy sinh cũng là sự xả thân để thành nhân.
Tuy vậy, đặc trưng này không phải là sự nhất thành bất biến trong suốt quá
trình phát triển của văn học trung đại. Lý tưởng chung của tam giáo có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống văn học là vậy, nhưng văn học lại là một lĩnh vực ý thức về
đời sống con người, không thể lược quy con người trong văn học vào các ô có sẵn
của triết học. Văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối của tư tưởng triết học
Trung Quốc nhưng không đồng nhất với chúng. Con người ta sinh ra, ai cũng có cá
tính, có nhu cầu tự khẳng định mình trong xã hội, trong sự tồn tại của chính mình.
Con người cá nhân riêng tư với những nhu cầu, lợi ích của “đời sống hiện hữu” luôn
tồn tại bên “một đời sống tâm linh”. Người ta không chỉ coi trọng mặt tinh thần của
cuộc sống để trau dồi cho mình những đức tính cần thiết, khi phải đối diện với
những cái thường ngày, những vấn đề của riêng mình, sự tự ý thức về cá nhân sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

lớn dần lên đòi quyền được sống, quyền được tự bộc lộ. Con người “vô ngã” sẽ
chuyển dần sang con người “hữu ngã”, con người “chung” sẽ tiến dần đến con người
“riêng” như là một quy luật tất yếu. Tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong cuốn “Về con
người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” đã phát hiện: “Điều đặc biệt là với những
tác giả lớn (chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công
Trứ ) thì các nguyên tắc lớn trên kia thường dễ được bỏ qua tự thân các tác gia
cổ điển có khả năng vượt qua mọi vách ngăn của thời đại” [26, tr. 19].
Nếu như “vách ngăn” của thời trung đại là những tư tưởng chuẩn mực và vô
ngã thì con người đã “vượt qua” bằng sự tự khẳng định mình, ý thức về mình. “Văn
học Việt Nam trước thế kỷ XVIII khẳng định cá nhân trong các tư tưởng lớn. Từ thế
kỷ XVIII, nó ý thức về cái thân con người như một giá trị trần thế” [32. tr, 55]. Như
vậy, con người có thể khẳng định mình trong các chuẩn mực của luân lí xã hội,
trong bậc thanh danh vị; con người cũng có thể khẳng định mình bằng những biểu
hiện “phi chuẩn”, “ngoài chuẩn”. Văn học trung đại Việt Nam đã ghi dựng được
những mẫu hình anh hùng, tài nhân, quân tử, văn học trung đại cũng tái hiện được
những cái “tôi” rất ngông nghênh, kiêu bạc. Đây là những phạm trù biểu hiện cá
tính đặc trưng của thời trung đại. Với ý thức cá nhân sâu sắc, văn học Việt Nam
trung đại đã xuất hiện chủ đề đời tư. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm
của một số những nhà thơ tiêu biểu.
1.2.2. Chủ đề đời tư trong sáng tác của một số tác giả trước Nguyễn Khuyến
1.2.2.1. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi
Nói về con người Nguyễn Trãi là nói về một nhà yêu nước một nhà nhân đạo,
một nhà văn hóa lớn. Đó là con người có cái tài kinh bang tế thế, làm rạng rỡ cho đất
nước, từ xưa tới nay chưa từng có. Nguyễn Trãi xuất hiện ở cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV, là tác giả đầu tiên của giai đoạn văn học trung đại Việt Nam đã chú ý đến chủ đề
đời tư.
Với những sáng tác văn học có tính chất quan phương, Nguyễn Trãi từng được

biết đến như là một nghệ sĩ tài ba, một nhà tư tưởng vĩ đại, một anh hùng kiệt xuất của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



14

dân tộc. Tìm hiểu đời tư trong thơ ông, chúng ta còn hiểu hơn về một cá nhân giữa đời
thường, một nhà thơ luôn yêu thương trìu mến với cảnh vật với con người, với đời sống
nghèo mà trong sạch của quê hương: với mồ mả ông bà, với cha mẹ, họ hàng thân
thích; cả những khát khao âm thầm, những ưu sầu nặng lẽ đang diễn ra trong chính bản
thân nhà thơ. Ở giai đoạn lịch sử mà văn học còn chịu sự ngự trị của những tư tưởng
chuẩn mực, những mẫu hình lý tưởng, văn chương quan phương cung đình giàu ý
nghĩa tụng ca vương triều, tụng ca thánh đế thì sự xuất hiện chủ đề đời tư trong thơ
Nguyễn Trãi có ý nghĩa như là “những sáng tạo đột xuất, vượt qua thông lệ, vượt
qua mọi ràng buộc ” [26, tr. 20]. Nguyễn Trãi vừa là tư cách một con người xã
hội, vừa “thấy sự bung tỏa, thấy những lực ly tâm của sự sáng tạo thơ ca ra xa quỹ
đạo quan phương chính thống” [26, tr. 20]. Điều này càng làm tăng thêm vẻ đẹp tài
năng, trí tuệ tâm hồn Nguyễn trãi, tăng thêm nhân cách của một nhà thơ lỗi lạc.
Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Trãi trước hết được biểu hiện ở mối quan hệ
riêng tư. Đó là tình cảm của nhà thơ đối với cha mẹ, với vợ con, bạn bè, mối quan hệ
trong tình yêu nam nữ và ngay cả với chính bản thân mình.
Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm, trong một thời gian dài
phải sống xa quê hương, nỗi nhớ cha mẹ già, nỗi nhớ người thân, hình ảnh quê hương
lối cũ trở đi trở lại day dứt qua những vần thơ:
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy,
Viên hạc chăng hờn lại những thương.
(Tự thán 1)
Trái tim nhạy cảm với cội với nguồn ấy không chỉ đập ngày một ngày hai mà trải
dài theo năm tháng:

Can qua thập tải thân bằng thiểu
Vũ trụ thiên niên biến cố đa
( Hoạ Tân trai vận )
Dịch: Mười năm can qua bạn bè bà con đều ít
Nghìn năm trong vũ trụ biến cố xảy nhiều.
(Hoạ vần thơ Tân trai )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



15

Tiếng lòng 10 năm, nỗi xót xa đến quặn lòng ấy là của một người con nặng tình
nặng nghĩa luôn đau đáu niềm riêng, luôn thiết tha trong tâm khảm.
Sự xuất hiện của tình yêu nam nữ, của những tình cảm nồng ấm vợ chồng trong
thơ Nguyễn Trãi cũng là một khía cạnh mới mẻ và độc đáo.
Bài “Tiếc cảnh số 10”, nhiều người cho rằng đó là những câu thơ Nguyễn Trãi
viết cho Nguyễn Thị Lộ - người thiếp yêu của nhà thơ - ở tuổi 40 mà vẫn vô cùng
tình tứ và ý nhị:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ?
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
(Tiếc cảnh số 10)
Ẩn sau cái vẻ ngoài của lời lẽ trách móc là một tình cảm mãnh liệt của một tâm
hồn đang tràn ngập yêu thương. Vì yêu mới dằn vặt, vì yêu mới nghi ngờ và khát
khao. Tình cảm vợ chồng thắm đượm này đã trở thành một thứ đặc sản quý và vô
cùng hiếm của thơ ca trung đại Việt Nam.
Với bản thân, con người và cuộc sống sinh hoạt cá nhân, những nhu cầu, lợi
ích cũng được Nguyễn trãi ý thức rất rõ, nó được biểu hiện sinh động và phong

phú trong những sáng tác của ông.
Hình ảnh một ông già tuổi cao, đầu bạc, đôi mắt lòa, ăn mặc giản dị là hình
ảnh Nguyễn Trãi tự họa mình trong thơ:
Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch,
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.
(Thứ Cúc Pha tặng phi )
Dịch: Hai mắt đã lòa đầu lại bạc,
Ơn vua chưa đáp, dạ đâu đành.
(Hoạ thơ của Cúc Pha tặng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



16

Hay : Bít bả hài gai khăn cóc
Xềnh xoàng làm mấy đứa thôn nhân
(Mạn thuật 11)
Rồi cuộc sống cần kiệm, thanh đạm mà đầy vui thú, hòa đồng cùng cỏ cây, hoa
lá chim muông, cùng cuộc sống lao động nghèo nơi thôn dã. Đó chính là nơi mà
Nguyễn Trãi tìm lại được sự cân bằng cho tâm hồn bên chốn quan trường ồn ào với
những ganh đua chật hẹp:
Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
(Thuật hứng 19)
Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn
Ấp ủ cùng ta làm cái con.
(Ngôn chí 20)
Thời Nguyễn Trãi, Nho giáo đang thịnh hành, mọi giá trị văn thơ phải được thể
hiện bằng sự cao quý, trang nhã. Với những vần thơ chân thực, giản dị viết về mình

Nguyễn Trãi đã góp vào thơ ca dân tộc một tiếng nói độc đáo và táo bạo.
1.2.2.2. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Là nhà thơ lớn của thế kỉ XVI, vần thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là tiếng nói tiêu
biểu của tầng lớp nho sĩ trước thực tại khi xã hội phong kiến nước ta bước đầu đi
vào con đường khủng hoảng suy vong.
Hai tập thơ để lại của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Bạch Vân am thi tập” và “Bạch
Vân quốc ngữ thi tập” đã tái hiện rất rõ cuộc đời, con người và tư tưởng của nhà
thơ. Đặc biệt bộc lộ trực tiếp đời sống tâm hồn, tâm tư, xúc cảm là những bài thơ
ông tự thuật về cá nhân và gia cảnh của mình.
Cái nghèo là sự phản ánh trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng
ta đã biết, mãi năm 45 tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm mới đi thi, đậu giải nguyên và năm
sau đó là trạng nguyên. Nhưng cuộc sống của nhà thơ không vì thế mà hết bần hàn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



17

nghèo khó. Vì nghèo mà dù đã cố giữ phong thái của một nhà nho, của người quân
tử vui với đèn sách, với “nửa rèm trăng gió” mà vẫn không quên được thực tế chua
cay. Tiếng thơ ông luôn bao hàm sự chua chát:
Vàng bạc nào ai vốn có phân,
Lạnh thay cơm hủ được no ăn.
Lạnh thuở đông, hằng nhờ bếp,
Nồng vụ hạ kẻo đắp chăn
(Bài 23 )
Bên cạnh tiếng thơ đạo lí, tiếng thơ phê phán thói đời đen bạc của một tấm
lòng luôn ưu thời mẫn thế, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nhà thơ trữ tình đằm
thắm và kín đáo. Người trí thức sâu sắc với những triết lí phương Đông kết hợp với
triết lí cuộc đời ấy không hề có cái nhìn cứng nhắc khô khan với cuộc đời, với con

người. Chất triết luận hài hòa với chất thơ đã tạo ra nét đặc sắc cho thơ trữ tình,
càng hiện rõ hơn trái tim giàu cảm xúc của nhà thơ.
Đây là chút nỗi niềm xốn xang những lúc thu về:
Đêm qua một trận gió vàng,
Nhớ thu sân vắng bàng hoàng lòng ta.
(Thu thanh 1)
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hoàn toàn sống với cõi riêng tư của mình, để mà mơ
màng, nhung nhớ, để vượt lên trên cái hiện thực thối nát của xã hội mà ông đã
không hề sợ sệt dám vạch trần, tố cáo. Con người tràn đầy nhiệt huyết vì nước vì
dân ấy cũng có lúc:
Đêm đợi trăng lồng bóng trúc,
Ngày chờ gió thổi tim hoa.
(Bài 19)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



18

Và cũng bao lần:
Nương song ngày trước mùi hương lọt
Thỏa chén, đêm âu, bóng quế tan
(Bài 26)
Vui cùng cảnh lại nhớ người, hình ảnh ánh trăng đêm gợi lại những kỉ niệm
gắn bó son sắt giữa bạn và ta xưa. Tình cảm đậm đà luyến nhớ dâng ngập tâm hồn:
Sơ giao bạn cũ cách xa,
Tấm son biết có đậm đà nữa thôi?
Đau lòng vô cớ lệ rơi,
Nhớ ai luống những bồi hồi xiết đau!
( Cảm cựu 1)

Đó là những vần thơ chữ Hán mà tiếng thơ vẫn dào dạt tự đáy lòng. Trong thơ
quốc âm lại có những vần thơ trào lộng rất tự nhiên, bình dị, ông tặng cho môn sinh
cũng như cho chính người vợ yêu của mình:
Ngày vắng gióng lòng ngồi lẳng lặng,
Đêm thanh ngửa thịt gáy pho pho
Làm văn rỗng quặc như mông ngựa,
Thấy gái đi qua nghếch cổ cò.
(Trách học trò lười)
Một bài khác ông xưng hô với vợ là “mụ” và “yêng” (anh) vừa dân dã vừa trìu mến:
Quen thân, yêng nhủ mụ lời này
Lợi lộc mặc duyên, chăng ấy chớ,
Đôi co thế sự chớ chua thay!
Thế gian có hỏi: lời ai nhủ?
Mụ hay rằng: lời thánh dại ngây!
(Bài 21)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



19

Lời khuyên nhủ chân thành cũng là lời thương mến tận trái tim. Thái độ cởi
mở như vậy ai dám bảo của một ông trạng chuyên nói lời giáo huấn, chỉ biết thuyết
giảng khô khan?
Tùy thời xuất xử là thái độ và hành vi thích ứng với thực tế cuộc đời của hầu
hết các nhà nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy, bên cạnh con người Nho giáo ưu ái
và tích cực, trong tư tưởng của ông cũng có cái phiêu diêu của Lão – Trang, cái
thoát tục của Phật giáo. Xã hội Nguyễn Bỉnh Khiêm sống là xã hội đầy mâu thuẫn.
Muốn nhập thế hành đạo nhưng không gặp thời, nhà thơ đành phải tìm con đường
nhàn tản xuất thế. Và thế là chữ “nhàn” đã trở thành một chủ đề nổi bật trong thơ

ông. “Nhàn” là biểu hiện của sự “lánh đục về trong”, không ràng buộc bởi vinh hoa
phú quý, không khuất phục bởi thế lực gian tà. “Nhàn” cũng là thái độ tôn trọng tự
do, tự tại, là giải phóng con người cá nhân, nhà thơ được sống với những nhu cầu,
khát vọng riêng của mình. Sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là tiêu
biểu cho tư tưởng tự do, khát vọng nhàn tản. Ông từng nói:
Trong sạch ai là thiên hạ sĩ,
An nhàn ta chính địa trung tiên.
(Ngụ hứng 25)
Tiên là hình tượng đẹp nhất, quý nhất đối với người trần nhưng tiên phải huyền
thoại, còn đây ông thành tiên giữa chính cõi trần. Đó là khi con người “vô sự”, khi
“danh, lợi lâng lâng gió thổi hoa”:
Thấy đám thanh vân bước ngại chen,
Được nhàn ta xá dưỡng thân nhàn. (Bài 08)
Dửng dưng mọi sự đà ngoài hết,
Nhàn một ngày là tiên một ngày. (Bài
10)
Rồi ông tìm cho mình một cái thú “một mai, một quốc, một cần câu” để sống
trọn niềm vui giữa cuộc đời thanh bần đạm bạc – cuộc đời của những người lao
động thôn quê nghèo khổ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



20

Cũng như Nguyễn Trãi, chủ đề đời tư cũng đã biểu hiện khá sâu sắc trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đọc thơ ông chúng ta hiểu thêm về đời sống tình cảm, tâm tư
khát vọng riêng của một con người chỉ biết thuyết minh bằng trí tuệ mà cũng lắng
sâu tình cảm, có sức lay động lòng người.
1.2.2.3. Chủ đề đời tư trong thơ Nguyễn Công Trứ

Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một nhà nho rất nổi danh vào
đầu thế kỉ XIX. Nói tới Nguyễn Công Trứ chúng ta có thể nhắc ngay tới một số chủ
đề lớn xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông: chí nam nhi; triết lí cầu nhàn
hưởng lạc; cảnh nghèo và nhân tình thế thái. Nếu như những vần thơ viết về chí
nam nhi của ông đã biểu hiện rất rõ ý thức về nghĩa vụ, về sứ mệnh của kẻ làm trai
trong cuộc đời thì triết lí hưởng lạc, cầu nhàn, cảnh nghèo và nhân tình thế thái lại
góp phần khẳng định một con người cá nhân Nguyễn Công Trứ hết sức mới mẻ
giữa thời đại mình – một cái tôi riêng tư, một cái tôi hơn người, một cái tôi tự cho
mình là đủ.
Cầu nhàn là biểu hiện cho lối sống cá nhân. Giống các nho sĩ xưa, Nguyễn
Công Trứ cũng tìm đến cảnh nhàn để sống thảnh thơi, để di dưỡng tinh thần và suy
tưởng, hướng đạo Nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ dừng lại như Nguyễn Trãi:
“Nhàn” để thoát vòng danh lợi, để sống cuộc đời bình dị nơi thôn dã vui với sông
núi, gió trăng, làm bạn với cỏ cây hoa lá; cũng chẳng muốn thành tiên ngay giữa cõi
trần như Nguyễn Bỉnh Khiêm “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, “Dửng dưng mọi sự
hay ngoài hết”. Không nhàn trong ước ao mộng tưởng, Nguyễn Công Trứ có hẳn
một cách sống nhàn ngay cả khi làm khanh, làm tướng hay lúc làm lính thú ở biên
thùy. Không phải đợi về già, không cần đến xuất thế, nhà thơ “ngất ngưởng” ngay
lúc đương triều:
Khi Thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
(Bài ca ngất ngư
ởng)
Để con người hành động một cách tự do, để mọi tình thú của kiếp người đều
được thể hiện đầy đủ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×