ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VƢƠNG THÚY HÒA
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VƢƠNG THÚY HÒA
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Tôn Thảo Miên
THÁI NGUYÊN, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong
bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Học viên
Vương Thúy Hòa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn, phòng
Quản lý và Đào tạo Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Tôn Thảo Miên, người cô đã
luôn tận tình giúp đỡ và động viên rất nhiều để tôi có thể hoàn thành luận văn trong
suốt thời gian qua.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên và tạo
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Học viên
Vương Thúy Hòa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN BẮC SƠN 11
1.1. Khái quát về nghệ thuật tự sự 11
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu 11
1.1.2. Khái niệm nghệ thuật tự sự 14
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn 18
1.2.1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Bắc Sơn 18
1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn 19
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bắc Sơn 20
Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN 27
2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 27
2.1.1.Khái niệm cốt truyện 27
2.1.2. Vai trò của cốt truyện trong tiểu thuyết 28
2.1.3. Cốt truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn 28
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 33
2.2.1. Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật trong tiểu thuyết 33
2.2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn 35
2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 47
Chƣơng 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN 63
3.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn 63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
3.1.1. Khái niệm người kể chuyện 63
3.1.2. Điểm nhìn trần thuật 63
3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn 73
3.2.1. Ngôn ngữ chính trị - xã hội 73
3.2.2. Ngôn ngữ bình dân đậm chất khẩu ngữ 79
3.2.3. Ngôn ngữ hài hước, dí dỏm 83
3.3. Giọng điệu trần thuật 86
3.3.1. Giọng điệu triết lí 86
3.3.2. Giọng điệu hài hước mỉa mai 90
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tự sự học là ngành nghiên cứu còn non trẻ. Nó được định hình từ những
năm 1960 - 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh chóng vượt biên giới, trở thành một trong
những lĩnh vực học thuật được quan tâm trên thế giới. Ở Việt Nam, các công trình về
tự sự học xuất hiện khá muộn và không đồng đều. Tuy nhiên, bước đầu đã có thể
cung cấp một số công cụ hữu hiệu cho người nghiên cứu. Một trong những hướng
nghiên cứu thi pháp học hiệu quả vào việc tiếp nhận tác phẩm văn học Việt Nam
chính là vận dụng các khái niệm tự sự học.
Ngày nay, cùng với sự vận động của đời sống xã hội Việt Nam là sự vận động
của tư duy văn học với những biên độ thẩm mĩ mới. Tiểu thuyết là nơi hội tụ nhiều
khát vọng cách tân và cho thấy khá rõ những mới mẻ trong nghệ thuật tự sự. Đặc biệt
trong những năm gần đây, xuất hiện một số tiểu thuyết gây được tiếng vang lớn và để
lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi sự mới mẻ ở đề tài, cách đặt vấn đề của
nhà văn. Do vậy, tiểu thuyết được coi là mảnh đất hấp dẫn mời gọi người nghiên cứu
vận dụng lí thuyết về tự sự học giải mã tác phẩm.
1.2. Nguyễn Bắc Sơn là một nhà văn nổi tiếng và được đánh giá cao trong
dòng văn học Việt Nam đương đại. Nguyễn Bắc Sơn từng là nhà giáo, nhà quản lý
giáo dục, quản lý báo chí. Ông có sự từng trải và quan trọng hơn là tha thiết với cuộc
đời, bởi thế những trang viết của ông ấm nóng hơi thở của cuộc sống đương đại. Ông
viết nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, tiểu luận và cả
báo chí. Nhưng có lẽ bạn đọc biết đến nhà văn Nguyễn Bắc Sơn nhiều hơn ở thể loại
tiểu thuyết, khi đã chín về tuổi đời tuy vẫn trẻ về tuổi nghề.
Dấn mình vào thể loại tiểu thuyết, ông đã đến với thực tế đời sống, cọ xát và
va đập đến tận cùng với cuộc đời, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong tiến
trình đổi mới của đất nước. Cơ chế thị trường đang xuất hiện, nhiều giá trị bị đảo lộn,
đời sống con người, tư duy và bản lĩnh cũng phải đổi thay để thích ứng với thời cuộc.
Cũng chính ở thể loại này, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã gặt hái được những thành
công ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Luật đời và cha con ra mắt bạn đọc cả nước
vào năm 2005. Tiểu thuyết Luật đời và cha con gây được tiếng vang trong dư luận vì
sự mới mẻ ở đề tài, ở cách đặt vấn đề của nhà văn. Đó là các vấn đề xã hội với những
2
bất cập của cơ chế, độ vênh giữa lý luận và thực tiễn đời sống. Hay nhiều vấn đề
nóng trong cuộc sống hiện đại cũng được thể hiện trong tác phẩm như: chuyện gia
đình, chuyện hôn nhân, chuyện tình dục trong cuộc sống hiện đại…Đặc biệt tác phẩm
có tính thời sự cao ở chỗ đặt ra vấn đề: Cần phải thay đổi phương thức Đảng lãnh đạo
sao cho có hiệu quả cao. Chính vì điểm mới lạ đó, tiểu thuyết Luật đời và cha con đã
được tổ chức tọa đàm tại báo Văn nghệ, được báo chí viết bài bình luận, phỏng vấn
rất nhiều, chủ yếu là khen ngợi (khoảng 20 bài). Tiểu thuyết còn được tái bản tới 3
lần trong sáu tháng (NXB Hội nhà văn 8/2005, NXB Văn học tái bản 10/2005,
3/2006), được giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc liên hiệp các hội văn hóa nghệ thuật
Việt Nam. Liền sau đó, hãng phim truyện truyền hình Việt Nam dựng thành phim
“Luật đời” (26 tập) được khán giả nhiệt tình đón nhận và bình chọn là phim truyền
hình hay nhất năm 2007.
Sau thành công đầu tay đến năm 2008, Nguyễn Bắc Sơn lại tiếp tục cho ra
mắt tiểu thuyết Lửa đắng. Lần này, hiệu ứng của nó lại còn cao hơn cả Luật đời và
cha con. Bởi vì Lửa đắng vẫn tiếp tục dòng cảm hứng tiểu thuyết luận đề, mổ xẻ trực
diện những vấn đề liên quan đến quá trình đổi mới toàn diện trong xã hội, sự đấu tranh
quyết liệt giữa cái cũ và cái mới. Những vấn đề Lửa đắng đặt ra gai góc mà hấp dẫn.
Hai cuốn tiểu thuyết trên có nội dung chính trị sâu sắc, cho thấy nhà văn
Nguyễn Bắc Sơn đã có sự tiếp nối nguồn mạch tiểu thuyết luận đề của Nguyễn Mạnh
Tuấn. Nhiều nhà phê bình văn học đã so sánh lối viết của Nguyễn Bắc Sơn với
Nguyễn Mạnh Tuấn - tác giả của những Đứng trước biển, Cù lao Tràm… làm sôi nổi
văn đàn thời “tiền đổi mới”. Lựa chọn khuynh hướng này, Nguyễn Bắc Sơn chứng tỏ
ông là một công dân có ý thức cao vì đề cập đến những vấn đề chính trị “nóng” mà
dường như mọi người biết nhưng ngại đụng chạm vì nhiều lí do khác nhau.
1.3. Đến nay tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn đã được tiếp cận trên nhiều phương
diện khác nhau, nhưng chưa có công trình chuyên sâu về nghệ thuật tự sự. Vì vậy
mục đích của đề tài là từ những tri thức lí luận về tự sự, tìm hiểu nghệ thuật tự sự của
tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn. Chọn đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn, chúng tôi muốn nhận diện một hiện tượng đáng chú ý trong đời sống văn
chương nước ta mấy năm gần đây, qua đó tìm hiểu con đường vận động cùng những
thể nghiệm cách tân của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến bàn chung về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Trong văn học Việ t Nam đương đ ại, tiể u thuyế t chiế m mộ t v ị trí quan trọng.
Thể tài này được coi là “cỗ trọng pháo” trong nền văn học. Chính vì thế từ giữa thậ p
kỷ 90, trong bối cảnh hộ i nhậ p, tiể u thuyế t đã có sự tìm tòi theo mộ t hướng mới, ở đó
“hình thức của tiể u thuyế t đã trở thành chủ đề quan trọng”.
Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có cách tân cả về nội dung lẫn nghệ thuật,
nhất là giai đoạn từ sau đổi mới đến nay. Đây là giai đoạn mà văn học nói chung và
tiểu thuyết nói riêng có những bước tiến đáng ghi nhận, đội ngũ sáng tác ngày càng
đông đúc, số lượng tác phẩm dồi dào, trong đó có những tác phẩm thực sự có giá trị.
Thực tế đó đòi hỏi giới nghiên cứu phải có sự quan tâm thích đáng đối với thể loại
văn học chủ soái này.
Trong công trình Văn học Việt Nam sau năm 1975 - những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn chủ biên, tập hợp khá
nhiều ý kiến khác nhau về tiểu thuyết. Xin được điểm qua một số bài viết sau:
Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại của Bùi Việt Thắng; Một
cách lý giải về thực trạng tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Nguyễn Hòa; Ý thức
cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Bích Thu; Về một
hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thập kỷ 80 đến nay của
Nguyễn Thị Bình…
Những công trình, bài viết trên đây đề cập khái quát về nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Qua các công trình, bài viết đó, chúng tôi nhận thấy
tiểu thuyết Việt Nam đang nỗ lực làm mới thể loại cho thích hợp với hiện thực mới
phức tạp, đa chiều. Dư luận bạn đọc có chỗ thống nhất, cũng có chỗ xung đột, có cả
cái nhìn hoài nghi bi quan nhưng không thể phủ nhận được một thực tế là các nhà văn
nước ta đang rất giàu khát vọng cách tân tiểu thuyết. Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận
diện đóng góp của tác giả Nguyễn Bắc Sơn với hai cuốn tiểu thuyết Luật đời và cha
con và Lửa đắng được đông đảo bạn đọc yêu thích.
2.2. Những ý kiến bàn về tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng
Sau khi xuất hiện trên văn đàn văn học đương đại, hai tiểu thuyết Luật đời và
cha con và Lửa đắng đã được bạn đọc và khán giả đón nhận như một “hiện tượng
4
mới”. Các nhà nghiên cứu phê bình văn học, đạo diễn điện ảnh và cả những bạn đọc
yêu thích văn chương đều có những bài nhận xét, đánh giá. Đặc biệt đã có rất nhiều
tờ báo có bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn Nguyễn Bắc Sơn như : báo Văn nghệ, An
ninh thủ đô, Nhà báo và công luận, Người lao động Mỗi tác giả quan tâm đến
những khía cạnh khác nhau của tác phẩm.
Là một nhà văn được yêu mến, một “hiện tượng” đang diễn ra, nên những bài
viết tìm hiểu về sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn được đăng tải nhiều trên các phương
tiện truyền thông. Số lượng bài viết dồi dào, sắc thái, “cấp độ” tình cảm khác nhau,
người viết có thể là nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp hay đơn
thuần chỉ là một độc giả yêu thích văn chương.
2.2.1. Về tiểu thuyết Luật đời và cha con
Các nhà nghiên cứu phê bình văn học đánh giá tác phẩm ở nhiều khía cạnh
nhưng đều thống nhất đánh giá cao thành công nổi bật của tác giả trong việc lựa chọn
đề tài sáng tác mới, xông thẳng vào những vấn đề nóng bỏng, thậm chí có thể là mạo
hiểm của cuộc sống hiện đại. Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt một số bài viết đó:
Nhà thơ, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn trên báo Văn nghệ Trẻ số 40 (462)
ngày 2/10/2005 đã khẳng định: “Luật đời và cha con là cuốn tiểu thuyết Việt Nam
đầu tiên mổ xẻ sự vận động của toàn xã hội trong quá trình đổi thay cơ chế , một sự
vận động đụng chạm đến từng gia đình, từng số phận” [47, tr.541]. Trong bài viết tác
giả cũng thẳng thắn chỉ ra một vài nhược điểm của tác phẩm là một số chương đoạn
còn lan man, xô bồ, dễ dãi, chạy theo sự vụ, mượn mồm nhân vật để kể chuyện đời
Nhưng kết luận cuối cùng của bài viết là một lời khen ngợi: “Luật đời và cha con là
một cuốn tiểu thuyết thuyết tình ái - chính trị gai góc và sinh động, một bước cố gắng
thể hiện những vấn đề của cuộc sống và con người hiện đại ở góc nhìn mới mang tính
luận đề, một cái nhìn trực diện về những diễn biến theo hướng suy đồi của xã hội
hôm nay và chia sẻ những khó khăn của những người lãnh đạo có tầm nhìn mới, bản
lĩnh mới và năng lực mới” [47, tr.543 - 544 ].
Bài viết Luật đời và cha con của nhà văn Hoàng Minh Tường (Báo Văn nghệ
số 49 ngày 3/12/2005) cho rằng câu chuyện của tiểu thuyết Luật đời và cha con xoay
quanh chuyện của một gia đình song cũng là chuyện của xã hội. Những tha hóa của
các thành viên trong một gia đình nhìn bề ngoài mẫu mực, những mối quan hệ nhằng
5
nhịt trong hôn nhân, những vấn đề tham nhũng, tệ nạn xã hội tất cả đều được phản
ánh trong tác phẩm. Từ đó Hoàng Minh Tường khẳng định: “Ở lĩnh vực nào, ngòi bút
của Nguyễn Bắc Sơn cũng tỏ ra hoạt náo và giàu chi tiết đời sống” [47, tr.549].
Trong bài Cái nhìn hiện thực và con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn
in trên Tạp chí Nhà văn số 3/2006, nhà nghiên cứu Bích Thu đã nhận định về thành
công của tác phẩm: Đề tài mới mẻ mang tính thời sự “Luật đời và cha con là cuốn
tiểu thuyết mang tính thời sự cập nhật đầy ắp chất liệu của đời sống và con người
đương đại” [47, tr.551]; biết cách xây dựng nhân vật “trong sự soi chiếu từ nhiều
điểm nhìn, tạo góc cạnh và chiều sâu cho nhân vật” [47, tr.553]; về kết cấu “thể hiện
rõ cái nhìn mới của Nguyễn Bắc Sơn về cuộc đời và con người” [47, tr.556] thông
qua hai mảng chính : chuyện gia đình với bao phức tạp do sự tác động của xã hội,
chuyện xã hội với bao đề tài nhức nhối về tham nhũng, cơ chế ; Cách xây dựng các
tình tiết “bất ngờ, mang đậm yếu tố bi hài làm nổi bật sự đa chiều, đa diện của hiện
thực và con người” [47, tr.557]. Bên cạnh những thành công tác giả cũng chỉ ra một
số hạn chế của nhà văn như: có những trang tác giả còn nói hộ nhân vật, văn viết có
lúc thô, chưa thật uyển chuyển.
Trong chương trình Tác giả và tác phẩm do Đài phát thanh và truyền hình Hà
Nội 1 giới thiệu nhà văn Bắc Sơn, phát sóng 8/8/2009, nhà nghiên cứu Bích Thu cũng
phát biểu về tiểu thuyết Luật đời và cha con như sau: “Với cuốn tiểu thuyết này nhà
văn Nguyễn Bắc Sơn đã đem lại cho người đọc sự hấp dẫn và mang được những vấn
đề mà tiểu thuyết đương đại mặc dù không có những cách tân lớn lao, tác phẩm được
viết theo lối tiểu thuyết truyền thống nhưng tính hấp dẫn, hiện đại của đề tài, những
thủ pháp nghệ thuật rất chừng mực của anh làm cho tiểu thuyết đến được bạn đọc”.
Bài Đi qua ranh giới để tồn tại của Nguyễn Đăng Điệp in trên báo Văn nghệ
ngày 1/4/2006 nhấn mạnh đến đề tài mới mẻ, đến tổ chức và sự lựa chọn cách kể hợp
lí của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn. Bài viết cũng khẳng định ý nghĩa thực tiễn và những
thành công ban đầu của Nguyễn Bắc Sơn: “Vấn đề anh đặt ra trong tác phẩm này
gai góc hơn nhiều: Cần có sự chuyển đổi phương thức lãnh đạo đất nước trong đội
ngũ Đảng viên sao cho phù hợp với những thay đổi của đời sống, phải nhanh chóng
xem lại văn hóa Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây là vấn đề nóng. Nóng
đến mức nhiều người chỉ bàn mà ngại đụng bút Đọc Luật đời và cha con, vì thế ta
6
như được tiếp xúc trực tiếp với những luồng điện nằm sẵn trong đời, được thấy phù
sa đời sống chạm vào xúc giác của mình, được hít thở vị mặn của cuộc sống đang
diễn ra trước mắt ta từng phút giây” [47, tr.563 - 567].
Tác giả cũng có ý kiến phát biểu trực tiếp, đánh giá thỏa đáng những thành
công của nhà văn: về mặt tư duy tiểu thuyết, tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn là tiểu
thuyết mang tính luận đề, thông thường những tiểu thuyết luận đề thì khô khan nhưng
Nguyễn Bắc Sơn đã biết mềm mại hóa, biết làm cho nó có khả năng chinh phục
người đọc. Bởi lẽ cách tổ chức các tuyến sự kiện, tuyến nhân vật, ngôn ngữ rất gần
gũi với đời sống. Chính điều này mang lại sự tươi mới cho tiểu thuyết của Nguyễn
Bắc Sơn.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Chí Hoan có bài Một cuốn tiểu thuyết về đổi
mới in trên báo Người Hà Nội ngày 31/3/2006 nói về những điểm đổi mới của Luật
đời và cha con gồm: Vấn đề xã hội mới được nói đến, tác phẩm được triển khai theo
hình mẫu ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực “truyền thống” - “Cuốn tiểu thuyết này đặt
trọng tâm và dựa cả vào nhân vật và cốt truyện, trong đó phần của các nhân vật có
vai trò lấn át” [47, tr.573], điểm nhìn mới của cuốn tiểu thuyết “chính là nhìn vào
một khía cạnh hiển nhiên nhưng không phải lúc nào cũng được chú ý”.
Trong buổi thảo luận về tiểu thuyết Luật đời và cha con do báo Văn nghệ tổ
chức ngày 26/12/2006 có rất nhiều ý kiến phát biểu trực tiếp, khen ngợi thành công
của cuốn tiểu thuyết. Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam phát biểu:
“Tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã thành công về mặt thể loại” [47, tr.580].
Nhà phê bình Lê Quang Trang cho rằng: “Thành công đáng chú ý nhất của cuốn tiểu
thuyết là tác giả dũng cảm và sắc sảo trong việc phô bày những vấn đề của xã hội.
Tác giả đã thông qua hình tượng nghệ thuật để nêu những bất cập của cơ chế, nêu độ
vênh giữa lý luận và thực tiễn đời sống” [47, tr.581]. Nhà văn Phạm Ngọc Tiến đánh
giá cao ý nghĩa thời sự của tác phẩm, theo ông: “Văn đàn năm nay có một số sự kiện,
trong đó có cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Lâu lắm mới có một cuốn tiểu
thuyết thế sự, xông thẳng vào đời sống chính trị như thế này” [47, tr.582]. Nhà thơ,
nhà phê bình Nguyễn Hoàng Sơn đánh giá: “ Luật đời và cha con dễ đọc, đọc được
một mạch. Tác giả hiểu biết nhiều, không lên gân. Viết thành thực” [47, tr.583].
Cùng với quan điểm trên là quan điểm của nhà văn Dạ Ngân: “… cũng như Luật đời
7
và cha con của Nguyễn Bắc Sơn được đọc hiện nay là nhờ vấn đề gai cạnh, nóng sốt”
[47, tr.584].
2.2.2. Về tiểu thuyết Lửa đắng
Lửa đắng chỉ được giải ba trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba (2006-2010),
nhưng nó là một trong những tác phẩm được dư luận quan tâm nhiều nhất. Các nhà
văn, nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao thành công của tác phẩm, và cho rằng
nét nổi bật là sự mới mẻ về đề tài. Nhà văn đã đề cập đến những vấn đề bất cập trong
cơ chế hành chính và những vấn đề xã hội ở nước ta, vấn đề này đã được triển khai ở
Luật đời và cha con , nhưng được khai thác sâu hơn trong Lửa đắng.
Nhà văn Vũ Duy Thông, khi viết thay lời giới thiệu cho cuốn sách Lửa đắng
đã viết: “Những nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đều đại diện cho một
loại cán bộ, đảng viên, công chức nào đó. Nhưng vượt lên những ước lệ mòn sáo,
những nhân vật này không chỉ gánh vác trách nhiệm đại diện của mình mà còn tồn
tại như một con người cụ thể, có vui buồn, yêu, ghét; khát vọng cao cả và dục vọng
thấp hèn; tự tin và tự ti; thành công và thất bại… Các nhân vật của ông tồn tại như
người đang sống quanh ta, bởi thế, có lẽ là lần đầu tiên một cách có hệ thống, trong
tiểu thuyết đương đại, người đọc được hé mở tấm màn của chủ nghĩa sơ lược để tiếp
cận với lớp người vẫn thường được gọi là “quan” trong xã hội với tấm chân dung
chân thực của nó” [51, tr.8 - 9].
Phạm Xuân Nguyên khi giới thiệu Sách hay - lan toả tri trức đã có bài
“Lửa đắng và tiểu thuyết chính trị”. Bài viết khẳng định Lửa đắng là một tiểu thuyết
chính trị. Tiểu thuyết đã “đưa người cán bộ đảng viên làm nhân vật trung tâm, và có
thể nói ông là người đầu tiên dựng nên hình tượng người Tổng bí thư Đảng trong tác
phẩm văn học”.
Bích Thu cũng có lời nhận xét khích lệ, biểu dương: “Nguyễn Khoa Điềm có
tập thơ tên “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” nhưng đây lại là Lửa đắng. Nó đặt ra trước
mắt chúng ta rất nhiều vấn đề nóng, nhiều vấn đề bức xúc về cơ chế, về đổi mới tư
duy, về cải cách hành chính mà anh Nguyễn Bắc Sơn đã đưa tất cả vào trong tác
phẩm của mình. Nói là tiểu thuyết chính trị, có thể nói là tiểu thuyết luận đề, ngay tên
Lửa đắng đã là tiểu thuyết luận đề, hoặc những vấn đề đặt ra đã mang tính luận đề.
Cái điều đáng nói ở đây là những nhân vật trong Lửa đắng không phải là cái loa
8
phát ngôn của tác giả. Những nhân vật hiện lên rất sống động, là những hình tượng
nghệ thuật đều nói lên điều mà nhà văn tâm huyết”.
Bài Cuộc trở dạ đau đớn của Đào Thị Mĩ Dung in trên báo Văn nghệ số 39 ra
ngày 26/9/2009 đã đề cập tới một số khía cạnh chính của tác phẩm: Đó là vị đắng của
cuộc sống được phản ánh qua Lửa đắng. Vị đắng của cơ chế mua bán càng ngày
càng ngấm sâu vào lòng độc giả, chà sát bao nhiêu tấc lòng còn nặng trĩu ưu tư về
tương lai đất nước. Đó là trận chiến cải cách xã hội được thể hiện qua hình tượng
nhân vật Trần Kiên - người đã thực hiện: “ nhất thể hoá hai vai trò trong một cương
vị trở thành một giải pháp tránh những bất cập trong công tác quản lí, lãnh đạo;
đồng thời bắt buộc người lãnh đạo phải luôn ý thức vai trò của mình trước Đảng và
chính quyền” [7].
Trong cuộc tọa đàm về cuốn tiểu thuyết Lửa đắng của nhà văn Nguyễn Bắc
Sơn (ngày 5/9/2011) do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, có rất nhiều nhà văn, nhà
thơ, nhà nghiên cứu phê bình từ các nơi đến dự như: Nguyễn Trí Huân, Nguyễn
Quang Thiều, Phong Lê, Trần Đình Sử, Lê Thành Nghị, Bích Thu, Nguyễn Khắc
Trường, Nguyễn Hoàng Sơn, Phạm Xuân Nguyên… nhiều bản tham luận đã được
trình bày, nhiều ý kiến trao đổi về đề tài, về nội dung của Lửa đắng đã diễn ra. Cụ
thể: Tham luận của nhà phê bình Lê Thành Nghị cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết viết
về đời sống hiện đại với nỗi đau trước cái ác và sự lộng hành của đồng tiền đang làm
biến dạng một bộ phận xã hội, nhưng không làm độc giả mất niềm tin vào cuộc đời.
Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận định, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã dám dũng cảm “xông
vào” thể nghiệm một đề tài mang tính thời sự nóng bỏng hiện nay: cơ chế thị trường
đã xâm nhập một cách mạnh mẽ vào các phương diện: quản lí - tri thức và giáo dục.
Lửa đắng là một tác phẩm tiên phong đưa ra cái nhìn mới về những giá trị cũ, hệ tư
duy cũ, cơ chế cũ… như một điều đáng báo động vẫn còn đang tiếp diễn trong cuộc
sống hiện nay. Có tham luận lại nói về cách dàn dựng các tuyến nhân vật đối lập nhau
của cuốn tiểu thuyết trong thế cờ cải cách hành chính.
Nhà văn Ma Văn Kháng có bài Lửa đắng bức toàn cảnh hôm nay in trên báo
Văn nghệ số 19(12/5/2012). Bài viết nhận định Lửa đắng viết về rất nhiều vấn đề của
cuộc sống hôm nay, về chuyện của một gia đình, chuyện của toàn xã hội: “Đọc Lửa
đắng có cái thú vị là gặp gỡ ở đây một cuộc sống thật phong phú trên rất nhiều bình
9
diện…Nói thế là để đi đến một nhận xét căn bản nữa: Lửa đắng qua miêu tả hiện
thực một đơn vị thành phố mang tên Thanh Hoa có cái vóc dáng và tham vọng trở
nên một bức họa toàn cuộc ngày hôm nay” [19]. Nhà văn cũng ghi nhận, với Lửa
đắng, Nguyễn Bắc Sơn đã “đẩy cuốn sách vào giữa dòng đời sôi sục đổi mới của
ngày hôm nay”.
Bên cạnh đó còn có một số bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn Nguyễn Bắc Sơn
về Lửa đắng như : Sức khoẻ và đời sống có bài Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn: ngọn lửa
văn chương là thuốc đắng, Việt Báo.vn có bài Lửa đắng sẽ bùng cháy,
Tuanvietnam.net có bài Tiểu thuyết Lửa đắng - bức tranh tha hoá quyền lực, An ninh
thủ đô với bài Sau Luật đời và cha con là Lửa đắng,…Các bài phỏng vấn đó đều có
sự động viên, khích lệ nhà văn. Đồng thời thông qua những tâm sự của chính tác giả
để làm rõ nội dung tác phẩm về đề tài, cách xây dựng nhân vật, ý đồ sáng tác…
Điểm lại những bài nghiên cứu, phê bình, những ý kiến phát biểu, thảo luận về
hai tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn, chúng tôi nhận thấy:
Hầu hết các bài viết đều khẳng định tài năng và giá trị tác phẩm của Nguyễn
Bắc Sơn, tuy còn đôi chỗ khác biệt nhưng về cơ bản là thống nhất. Hầu như các khía
cạnh thành công của tác giả về cả nội dung và nghệ thuật đều được đề cập. Song vì
mới chỉ dừng lại ở phạm vi các bài nghiên cứu, bài báo, ý kiến phát biểu, phỏng
vấn… nên các tác giả chưa có điều kiện để đi sâu lí giải toàn diện, cụ thể về đặc điểm
tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn và những đóng góp của ông cho sự phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Chúng tôi xin tiếp thu tất cả ý kiến của các nhà nghiên
cứu, các nhà văn, nhà báo, bạn đọc về tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn. Đó là những
gợi mở quý báu để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm
nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn về các mặt nghệ thuật tổ chức cốt
truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật tổ chức trần thuật. Qua đó góp
phần làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản, những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật
tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xác định những khái niệm liên quan đến nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết.
10
- Tìm hiểu về nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
- Tìm hiểu về người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết
Nguyễn Bắc Sơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn qua nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng
nhân vật và nghệ thuật tổ chức trần thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát chủ yếu hai cuốn tiểu thuyết gây
tiếng vang của Nguyễn Bắc Sơn, đó là Luật đời và cha con (Nhà xuất bản Văn học,
2008) và Lửa đắng (Nhà xuất bản Lao động, 2011), đồng thời có so sánh với một số
tiểu thuyết cùng thời của một số tác giả khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại.
5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu.
5.3. Phương pháp hệ thống - loại hình.
5.4. Phương pháp phân tích- tổng hợp.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, phần Nội dung được
chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát về nghệ thuật tự sự và sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
Chương 3: Người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn nhằm
chỉ ra những đặc điểm cơ bản, những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
11
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN BẮC SƠN
1.1. Khái quát về nghệ thuật tự sự
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu
Hội thảo tự sự học đầu tiên ở nước ta (2001- khoa văn, ĐHSPHN) và sau đó là
việc xuất bản công trình Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử (Nxb. ĐHSP,
2003) dường như đã góp phần chính danh trong tiếng Việt tên gọi một chuyên ngành
nghiên cứu văn học quan trọng ở Âu - Mĩ, chuyên ngành Tự sự học - Narratology.
Tự sự học là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, có lịch sử lâu đời. Tuy chủ nghĩa
cấu trúc và tiền thân của nó là trường phái hình thức Nga đã làm cho lý thuyết tự sự
trở thành một học vấn có hệ thống chặt chẽ, nhưng kiến thức về tự sự đã không
ngừng được khám phá từ xưa đến nay.
Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, nghiên cứu cấu trúc của
văn bản tự sự và các vấn đề liên quan, hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ
thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một cách đọc. Tên gọi Tự sự học -
Narratology, Narratologie, là do nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari Tezvetan Todorov
đề xuất năm 1969, trong sách Ngữ pháp “Chuyện mười ngày”. Cái mà Todorov gọi
là ngữ pháp ở đây chính là kết cấu tự sự của tác phẩm. Thực ra nghiên cứu cấu trúc tự
sự là một truyền thống lâu đời trong văn học phương Tây. Hoàn toàn có thể xem Thi
pháp học của Aristotle là một trong những khởi đầu của truyền thống đó. Trong quá
trình phát triển, nó đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong ngành tự sự học,
trong khoa văn học và trong các khoa học nhân văn; là một bộ môn nghiên cứu liên
ngành, có tính quốc tế.
Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là quá
trình phát ra đơn phương trong quá trình giao tiếp, văn bản tự sự là cụm thông tin
được phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Song
trong các hình thức tự sự, có thể nói tự sự trong văn học là phức tạp nhất và là đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của tự sự học. Nó không chỉ có trong truyện ngắn, tiểu
thuyết mà còn có trong thơ, kịch.
12
Lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm hơn trên phạm vi thế giới bởi nó là
công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất để giúp ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên
cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa. Lý thuyết tự
sự có thể coi như một bộ phận không thể thiếu trong hành trang nghiên cứu văn học
ngày nay. Nó là một bộ phận cấu thành của hệ hình lí luận hiện đại.
Tự sự học hiện đại cho thấy rõ vai trò của chủ thể trong trần thuật khi phân
biệt kể cái gì và kể như thế nào. Lần đầu tiên nó làm cho người trần thuật vô hình vốn
ít được người ta chú ý phân tích, được hiện ra như là một hệ thống biểu đạt. Lý thuyết
tự sự cũng chỉ ra kết cấu của các tầng bậc trần thuật và theo đó xuất hiện các kiểu
người trần thuật khác nhau. Lý thuyết tự sự hiện đại đã nêu ra các khái niệm về góc
nhìn, điểm nhìn…điều đó giúp phân tích, nhận dạng hình thức tự sự. Tự sự học hiện
đại có thể được chia làm ba thời kì: tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu
trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa.
Trước cấu trúc chủ nghĩa, tự sự học nghiên cứu các thành phần và chức năng
của tự sự. B.Tomasepxi, năm 1925, đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự.
V.Shklovski chia truyện thành hai lớp: chất liệu và hình thức. V.Propp nghiên cứu
cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích (1928). Từ những năm 20 của thế kỉ
trước, Bakhtin đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần thuật
và tính đối thoại của nó. Họ trở thành những người mở đường cho tự sự học hiện đại.
Ở phương Tây, với sáng tác của Flaubert ở thế kỉ XIX, cũng như sáng tác của Henry
James (Mĩ) và M.Proust (Pháp) ở đầu thế kỉ XX, người ta đã biết rằng trong tiểu
thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là ý thức, là
phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ đó người ta quan tâm tới “trung tâm
ý thức”, chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc qua trung tâm ý thức của nhân vật mới bộc
lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được đặc biệt quan tâm với
Percy Lubock (1921), K.Friedemann (1910). Về sau các vấn đề này còn được phát
triển bởi một loạt tác giả Âu, Mĩ khác như J.Pouillon, A.Tate, CI.Brooks, T.Todorov,
G.Gennette… Những tìm tòi này gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết.
Giai đoạn thứ hai của lí thuyết tự sự là chủ nghĩa cấu trúc, đi tìm mô hình cho
hình thức tự sự, mở đầu với công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của
R.Barthes năm 1968 và “S/Z” năm 1970 (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu
13
cấu trúc chủ nghĩa); T.Todorov có tác phẩm Ngữ pháp “Chuyện mười ngày”… Sơ
khởi của quan niệm này là hình thái học truyện cổ tích của Propp, tiếp theo là nghiên
cứu cấu trúc thần thoại của Claude Levi-Strauss và mô hình hành vi ngôn ngữ của
Roman Jakobson. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học
làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở
rộng của ẩn dụ. Todorov xem nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ
nghĩa hiện thực thì tình tiết thuộc thức chủ động, còn trong thần thoại là thuộc thức bị
động… A.J.Greimas vận dụng sự đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để nghiên cứu
cấu trúc tự sự. G.Genette tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ
yếu là vị ngữ động từ vì ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ ngôn ngữ học. R.Barthes
cũng tán thành quan điểm đó. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất
ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần
đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận
được mối quan hệ văn học với đời sống, nhưng họ đã góp phần làm sáng tỏ bản chất
biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ học đã làm cho
tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại, bởi ông chỉ quan
tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự.
Giai đoạn thứ ba của tự sự học là gắn liền với kí hiệu học, một bộ môn quan
tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean -
Claude Coquet). Ở đây, hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm.
Tư tưởng này gắn với việc phân tích ý thức hệ của M.Bakhtin. Các tác giả như
Iu.Lotman, B.Uspenski, cũng theo hướng này, nhìn thấy đằng sau điểm nhìn một lập
trường quan điểm xã hội thẩm mĩ nhất định. Đặc điểm của lý thuyết tự sự hiện nay,
tuy cũng coi trọng phân tích hình thức nhưng không tán thành việc sao phỏng giản
đơn các mô hình ngôn ngữ học mà đi theo kí hiệu học và siêu kí hiệu học. Pierre
Macherey, nhà mácxít Pháp cho rằng bất cứ sự đồng nhất nào giữa phê bình văn học
với ngôn ngữ học đều sẽ thất bại, bởi nó bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức,
còn Iu.Lotman cho rằng thông tin ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất
phát của văn bản lại chính là chỗ bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn bản.
Nếu văn bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ của văn
hóa. Như thế lý thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp.
14
Tổng quan quá trình phát triển của lý thuyết tự sự, nhà lí luận tự sự Mĩ Gerald
Prince chia làm ba nhóm theo ba loại hình. Nhóm một là những nhà tự sự học chịu
ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp, trong số này có
Greimas, ông đã giản lược số chức năng của Propp xuống tới con số 20 và làm nổi
bật lôgic tự sự. Các tác giả như Todovov, Barthes, Remak, Norman Friedman,
Northrop Frye, Etienne Souriau…, mỗi người một cách, chú ý tới cấu trúc của câu
chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và quy luật của tổ
hợp, lôgic phát triển và loại hình cốt truyện… Khi cực đoan nhất họ cho rằng tác
phẩm tự sự không chi phối bởi chất liệu. Một câu chuyện có thể kể bằng văn học,
điện ảnh, ba lê, hội họa…đều được, do đó bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng
biểu đạt của chất liệu. Nhóm thứ hai lấy G.Genette làm tiêu biểu đã xem nguồn gốc
của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết mà biểu đạt, cho nên vai trò của người trần
thuật được coi là quan trọng nhất. Họ chú ý lớp ngôn từ của người trần thuật với các
yếu tố cơ bản như điểm nhìn, giọng điệu… Đây là nhóm đông nhất thu hút nhiều nhà
nghiên cứu như Dolezel, Micke Bal. Nhóm thứ ba đại diện là Gerald Prince và
Seymour Chatman, họ coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp.
J.Culler cũng thuộc phái này, ông coi trọng cả cấu trúc sự kiện lẫn cấu trúc lời văn.
Nghiên cứu tự sự đang là một xu thế có nhiều triển vọng trong lý luận văn học và có
ý nghĩa văn hóa rộng lớn.
1.1.2. Khái niệm nghệ thuật tự sự
Trong Từ điển tự sự học (University of Nebraska Press xuất bản 1987), mục từ
Narratology của Gerand Prince có hai định nghĩa:
Định nghĩa 1: Lí thuyết về tác phẩm tự sự ra đời dưới ảnh hưởng của Chủ
nghĩa cấu trúc. Narratology nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của
các tác phẩm tự sự với các chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể
sản sinh và đối tượng tiếp nhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm
“nội dung câu chuyện” và “hình thức trần thuật” cùng mối quan hệ giữa hai cái đó.
Định nghĩa 2: Nghiên cứu tác phẩm tự sự trong tính cách là một biểu đạt văn
tự đối với sự kiện câu chuyện (tiêu biểu là G.Genette). Trong nghĩa hạn định này,
narratology không quan tâm bản thân câu chuyện, mà tập trung sự chú ý vào thoại
ngữ tự sự.
15
Như vậy có thể thấy, Narratology trong định nghĩa thứ nhất chính là một lí
luận tổng quát liên quan đến mọi tác phẩm tự sự trong một trọn vẹn chỉnh thể và quá
trình. Chúng ta có thể hiểu bao quát rằng, mọi tác phẩm tự sự ở đây là chỉ tất cả các
loại hình và dạng thức tự sự, cho dù là tự sự trên/bằng/với chất liệu/phương tiện nào
chứ không chỉ là ngôn từ lời nói. Nó cũng nghiên cứu hai đầu của cái quá trình giao
tiếp tự sự đó - chủ thể sản sinh tự sự và kẻ tiếp nhận tự sự. Đó không chỉ là hình ảnh
một người nói/viết và bên kia, hình ảnh người đọc/người nghe. Tất cả các tác phẩm tự
sự đều vật chất hoá thành một dạng “văn bản” bởi những chủ thể tác giả tồn tại/hiển
hiện trên những cấp độ bao hàm nhau “kể” cho những đối tượng thụ nhận cũng tồn
tại /hiển hiện trên những cấp độ bao hàm tương ứng một “câu chuyện”.
Narratology trong định nghĩa thứ hai có một sở chỉ hạn định hơn. Nó nghiên
cứu văn học tự sự ( tiểu thuyết, truyện kể là thực liệu điển hình). Thậm chí nó còn
tiếp tục giới hạn sự quan tâm trong phạm vi hình thức biểu đạt câu chuyện bằng lời
văn tự. Ở đây nhắc đến G. Genette như là đại diện tiêu biểu của khuynh hướng tự sự
học này. Ta đều biết tác phẩm đại biểu của Gérard Genette là Thoại ngữ tự sự
(Discours du recit. Seuil, 1972. J.E.Lewin dịch ra tiếng Anh Narrative Discourse.
Ithaca: Cornell Univ. Press, 1980). Trong đó Genette đề xuất khái niệm ngữ thái,
phân xuất thoại ngữ trần thuật và hành động trần thuật từ cái thực thể mà chẳng hạn
Mieke Bal (Hà Lan) cũng gọi bằng tiếng Pháp là văn bản tự sự (texte narratif).
Những tác phẩm tự sự bằng/trên chất liệu khác dĩ nhiên không liên quan đến khái
niệm ngữ thái của Genette.
Tự sự học hiện đại cố gắng khu biệt narrative và naration như là khu biệt giữa
“chuyện kể ra” và “hoạt động kể chuyện”. Người ta giả định rằng mọi chuyện trên
đời cho tới trước lúc được kể nên lời là cứ tồn tại trong trạng thái “vốn thế”. Và
những sự - việc tồn tại “vốn thế” đó không phải là narrative (tạm gọi là truyện kể,
hoặc chuyện kể - trong cách nói “chuyện kể rằng ”) mà là story (tạm gọi là chuyện,
câu chuyện, trong cách nói “có một câu chuyện ”). Các học giả Trung Quốc gọi cái
này là “cố sự” (với nghĩa “chuyện đã xảy ra” - nhấn mạnh yếu tố “cố” (tạm lấy đầu
đề Cố sự tân biên dịch theo cách của Trương Chính - Chuyện cũ viết lại để minh
hoạ cho ý này). Sau khi ta thuật ra/kể nên “chuyện đã xảy ra” đó thì mới có kết quả
hiện trình narrative, tức là một câu chuyện do hình tượng một người trần thuật
16
hướng về độc - thính giả từ một góc độ nào đó, tồn tại trong một kết cấu ngôn từ nhất
định. Công việc đó trở nên có khả năng chính là nhờ hoạt động naration. Chung quy,
naration dịch thành “thuật kể/trần thuật/kể chuyện” chỉ hoạt động, còn narrative dịch
thành “tự sự/ truyện kể”, chỉ kết quả của hoạt động narration, cái kết quả “chuyện
kể ra” hoặc nói chính xác hơn “chuyện có được nhờ kể, chuyện nhờ kể mà nên”. Vì
nói “câu chuyện” sợ người ta vẫn nghĩ đến “chuyện đã xảy ra” chưa từng kể đến chứ
không phải là những “chuyện xưa kể rằng” - sản phẩm thường thấy trong nền văn
hoá đọc. Thế nhưng, những rào đón như thế này thường cũng khó mà tự mình kín kẽ.
Ta hoàn toàn có thể cật vấn rằng, vậy làm thế nào để biết đến những “cố sự ” đó?
Huống hồ có cho đó là “sự cố” hay không lại còn là một chuyện khác. Làm thế nào
để biết đó là những sự - việc tồn tại “vốn thế” (sự - việc dưới “dạng bản lai chân
diện mục”) trong “thực tế hiện thực”. Cái “câu chuyện/story/histoire/cố sự” theo
nghĩa này phải được hiểu là những kết cấu sự kiện có tính cách “khách quan” chưa
từng kinh qua bất cứ biểu thuật nào và vì thế không chịu bất cứ ảnh hưởng của một
lập trường quan điểm hay sự “nhào nặn” của hình thức biểu thuật. Trên thực tế
những câu chuyện ta đọc được, nghe được không thể còn có “tính khách quan” giả
tưởng đó được nữa. Tự sự học giải cấu trúc dường như muốn đi đến cùng trong vấn
đề này. Các nhà tự sự học giải cấu trúc cho rằng chúng ta (cả độc giả lẫn nhà viết
truyện) chỉ có thể tiếp xúc với câu chuyện thông qua thoại ngữ tự sự đã sản sinh nên
nó. Họ cho rằng tự sự học giả định sự kiện tồn tại trước thoại ngữ nói về hoặc biểu
đạt chúng. Vì vậy đã kiến lập nên một trật tự tầng bậc. Thế nhưng tác phẩm tự sự
trong quá trình vận tác thường lật nhào trật tự đó. Các tác phẩm tự sự không phải là
biểu đạt sự kiện như là biểu đạt sự thực đã biết, mà là biểu đạt chúng như là sản vật
của sức mạnh hay yêu cầu của thoại ngữ.
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu
trúc tự sự. Nó quan tâm đến nhiều vấn đề khác nhau của tác phẩm.
Tác giả không bao giờ hiện diện trong tác phẩm như là một người kể, người
phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái “Tôi” thứ hai của nhà
văn, với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả
thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm
người kể. Người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần
17
thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần
thuật trong văn bản văn học là một hiện tượng nghệ thuật phức tạp nhất mà ngôi kể
chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì là ngôi kể, mà chỉ
là chủ thể kể. Sự khác biệt của “ngôi thứ nhất”, “ngôi thứ ba” chỉ là khác nhau về
mức độ bộc lộ và ẩn dấu của người trần thuật mà thôi. Sự ẩn dấu của ngôi kể thứ ba
làm cho nó gần như là vô nhân xưng. Ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng
điệu. Điều quan trọng nữa là kể theo điểm nhìn nào. Đây là vấn đề tiêu cự trần thuật
làm phân biệt các hình thức tự sự khác nhau.
Ý thức chủ thể tự sự cũng là một hiện tượng phức tạp, nhiều tầng, bao gồm tác
giả hàm ẩn, người trần thuật (có thể nhiều vai) và nhân vật (có thể nhiều người). Từ
đó, cấu trúc tự sự có nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu, có tính đối thoại, một vấn đề
đã được M.Bakhtin nêu lên.
Lí thuyết tự sự hiện đại lần đầu tiên làm cho người trần thuật vô hình vốn ít
được người ta chú ý phân tích, được hiện ra như một hệ thống biểu đạt. Nó cho người
ta thấy người trần thuật đã can dự vào tiến trình tự sự như thế nào, từ hình thức đến
bình luận.
Lí thuyết tự sự đã chỉ ra kết cấu và tầng bậc trần thuật, mà người trần thuật ở
bậc càng cao thì càng xuất hiện sau. Nhiệm vụ của nó là cung cấp, giới thiệu người
trần thuật ở bậc thấp, phân biệt trần thuật chính, trần thuật phụ, siêu tự sự (super
narative) là biện pháp che giấu tính hư cấu và do đó, gia tăng khả năng hư cấu cho
tiểu thuyết. Tự sự càng phát triển thì siêu tự sự cũng phát triển theo, xuất hiện các
kiểu người trần thuật khác nhau.
Lí thuyết tự sự cho thấy rõ sự biến dạng thời gian bằng các biện pháp rút gọn,
tỉnh lược, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi thay tính liên tục của sự kiện.
Từ đó nó giúp quan sát cụ thể cơ chế của nghệ thuật tự sự.
Lí thuyết tự sự học hiện đại đã nêu ra vấn đề phương vị hay nói cách khác là
góc nhìn (narrative perspective) với điểm nhìn, tiêu cự trần thuật với mô hình trần
thuật. Nó cũng nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự và các hình thức của nó.
Bao gồm việc phân loại các cách chuyển thuật ngôn ngữ người khác, như trực tiếp,
gián tiếp tự do, các hình thức độc thoại nội tâm, dòng ý thức. Tự sự học gắn chặt với
phong cách học tiểu thuyết. Ngày nay người ta không thể nghiên cứu phong cách học
18
tiểu thuyết mà bỏ qua các vấn đề của tự sự học. Tự sự học hiện đại đang tiếp tục
nghiên cứu cấu trúc tình tiết, đơn vị cơ bản của tự sự, các kiểu tổ hợp tình tiết, loại
hình hóa cốt truyện.
Như vậy nghiên cứu tự sự học có ý nghĩa văn hóa rộng lớn. Nó mở ra khả
năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học. Nó cho ta thấy không chỉ
là kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, mà còn cho ta thấy cả truyền thống
văn hóa ở đằng sau nó. Nó cho ta thấy cả ưu điểm và chỗ yếu của các truyền thống
văn học, từ đó có cái nhìn sâu sắc và toàn diện về truyền thống văn học ấy.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn
1.2.1. Vài nét về tiểu sử Nguyễn Bắc Sơn
Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn có tên khai sinh Nguyễn Công Bác. Sinh năm 1941.
Quê quán : Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Nội. Sinh ra ở Nam Định, kháng chiến chống
Pháp, gia đình ông tản cư lên Phú Thọ, ở xã Tân Phong, huyện Hạ Hòa. Ở đây ngay
từ tuổi thiếu niên, ông đã tham gia đoàn thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu Phước, trong
trại Thiếu nhi Bác Hồ, biểu diễn múa hát phục vụ kháng chiến. Năm 1955, ông trở về
Hà Nội, tốt nghiệp đại học Sư phạm năm 1962 trở thành thầy giáo dạy Văn trường
THPT Hoàn Kiếm trong 10 năm. Ông kể, hồi còn học phổ thông, cũng đã từng ấp ủ
mộng văn chương vì cũng có chút năng khiếu, nhưng rồi theo thời gian, cái mộng văn
chương ấy cũng tắt ngấm. Năm 1972 ông vào bộ đội, tham gia kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, từ năm 1981 đến 1992 ông là phó hiệu trưởng trường Chu văn An danh
tiếng, được bổ nhiệm làm hiệu trưởng nhưng ông từ chối sau đó vui vẻ về làm trưởng
phòng quản lý báo chí, xuất bản của sở Văn hoá thông tin Hà Nội, bởi vì: “Nghề báo
chí xuất bản, gắn với sách vở chữ nghĩa” là niềm đam mê từ lâu của ông. Chính
trong quãng thời gian 10 năm ở Sở Văn hoá thông tin Hà Nội, ông đã đến với thực tế
đời sống, cọ sát và va đập đến tận cùng với cuộc đời của một anh công chức ngành
văn hoá, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong tiến trình đổi mới của đất nước.
Cơ chế thị trường đang xuất hiện, nhiều giá trị bị đảo lộn, đời sống con người, tư duy
và bản lĩnh cũng phải đổi thay chóng mặt để thích ứng với thời cuộc, vì thế có biết
bao bi kịch đau đớn trong cái đời sống phức tạp ấy. Nguyễn Bắc Sơn đã sống đến tận
cùng cuộc sống đang sở hữu, làm việc hết mình và tích lũy vốn sống hết mình.
19
1.2.2. Sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn
Nguyễn Bắc Sơn là một nhà văn đa tài. Ông đã thử bút với nhiều thể loại văn
học, từ bút ký, đến truyện ngắn, truyện vừa rồi tiểu thuyết,… Ở thể loại nào ông cũng
gặt hái được những thành công nhất định.
Với những thành công trong sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Bắc Sơn
đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng văn học lớn: Giải Ba viết về giao thông vận
tải của Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông Vận tải; Giải Nhì và hai giải Nhất
(2001, 2002, 2003) cuộc thi Cả nước viết về Thăng Long - Hà Nội của báo Hà Nội
mới; Tặng thưởng của NXB Thanh niên viết về tập truyện vừa và ngắn Luật đời
(2004); Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật
Việt Nam tiểu thuyết Luật đời và cha con ( 2005); Giải Ba cuộc thi tiểu thuyết lần thứ
ba (2006 - 2010) của Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết Lửa đắng; Phim Luật đời
26 tập, chuyển thể từ tiểu thuyết Luật đời và cha con đoạt giải nhất phim truyền hình
nhiều tập năm 2007 do khán giả bình chọn.
Đánh dấu thành công lớn nhất cho sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn
chính là tiểu thuyết. Các tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn đều là tiểu thuyết luận đề,
trong đó đề cập đến nhiều vấn đề như chuyện gia đình, chuyện thế hệ, chuyện tình
yêu và đáng kể nhất là chuyện thay đổi cơ chế. Có thể nói ông là một nhà văn dũng
cảm, dám đối diện với những vấn đề thời sự chính trị đang diễn ra ở Việt Nam.
Cái tên Nguyễn Bắc Sơn cùng lối viết thẳng thắn, sâu sắc và gần cuộc sống,
con người hiện tại, thể hiện sinh động những vấn đề chính trị nhạy cảm làm giới mê
đọc nhớ mỗi khi nhắc đến tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng. Càng ngạc
nhiên hơn khi biết rằng đó là những tác phẩm đầu tay được ví như những bông hoa
nở muộn.
Nghỉ hưu, rời bỏ đời sống công chức mà thời gian cứ bị xé vụn ra bởi những
công việc hành chính sự vụ, ông chợt nhận ra mình đang sở hữu một nguồn tư liệu vô
cùng phong phú đã tích lũy được, lại được sống theo sở thích, sống cho mình. Lúc ấy
cái thú văn chương mới được thoả chí tang bồng. Thế là lao vào viết, viết như chưa
bao giờ được viết. Những bức xúc về cơ chế, những nỗi đau nhân tình thế thái trong
cơ chế còn nhiều bất cập đã được ông mổ xẻ một cách kỹ lưỡng, không né tránh
nhưng cũng đầy trách nhiệm dựng xây. Ở gần cái tuổi xưa nay hiếm, con người ta