Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

tiểu thuyết đoàn hữu nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.48 KB, 105 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM









NGÔ QUỐC TUẤN





TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN








THÁI NGUYÊN - 2013




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGÔ QUỐC TUẤN





TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM



Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60220121



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. CaoThị Hảo




THÁI NGUYÊN - 2013





i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.


Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn




Ngô Quốc Tuấn




ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, đến
nay chúng tôi đã hoàn thành và được phép bảo vệ luận văn.
Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn,
khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu tại trường.
Với sự biết ơn chân thành tôi bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Thị Hảo -
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn nhà văn Đoàn Hữu Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ về tư liệu

và thời gian để tôi hoàn thành phần nghiên cứu của mình.
Cũng xin cảm ơn tới Ban giám hiệu trường PTDT Nội trú Sa Pa đã tạo
điều kiện giúp đỡ và động viên trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình
và những người thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp
tôi hoàn thành tốt khoá học này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn




Ngô Quốc Tuấn




iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 8
Chƣơng 1. TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM TRONG DÕNG VĂN XUÔI

HIỆN ĐẠI VIẾT VỀ DÂN TỘC MIỀN NÚI 8
1.1. Diện mạo văn xuôi hiện đại viết về dân tộc miền núi 8
1.1.1. Quá trình vận động 8
1.1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 8
1.1.1.2. Giai đoạn 1945 – 1975 9
1.1.1.3. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay 12
1.1.2. Những thành tựu tiêu biểu 20
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Đoàn Hữu Nam 23
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con người 23
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Đoàn Hữu Nam 23
Chƣơng 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI MIỀN NÚI
TRONG TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM 30
2.1. Bức tranh hiện thực sống động về miền núi 30
2.1.1. Hiện thực về thổ phỉ và cuộc đấu tranh tiễu phỉ của đồng bào
miền núi 30
2.1.2. Những phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc 36
2.1.3. Thiên nhiên miền núi hoang dã, lãng mạn 44
2.2. Hình ảnh con người miền núi trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam 50
2.2.1. Những tên thổ ty, thổ phỉ cuồng vọng, tàn bạo 51
2.2.2. Những người dân có số phận đau thương thức tỉnh đi theo cách mạng 55

iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM 64
3.1. Cốt truyện 64
3.1.1. Kiểu cốt truyện lịch sử 65
3.1.2. Kiểu cốt truyện đời tư 69
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 72

3.2.1. Khắc hoạ nhân vật qua miêu tả ngoại hình 73
3.2.2. Khắc hoạ nhân vật qua miêu tả nội tâm 74
3.2.3. Sử dụng đắc dụng yếu tố kì ảo để xây dựng nhân vật phản diện 77
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật 82
3.3.1. Sử dụng phổ biến nghệ thuật so sánh và ngôn ngữ giầu hình ảnh 82
3.3.2. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số 86
3.3.3. Lời văn đậm tính triết lý, lãng mạn, bay bổng 89
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97


1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học viết về dân tộc và miền núi là khu vực có sự hiện diện khá
đông đủ bộ mặt văn học các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam. Với khả năng khơi sâu vào cái riêng, cái đặc sắc của mỗi dân tộc,
vùng miền, văn học dân tộc miền núi đã đem lại sự phong phú, đa dạng và có
một vị trí nhất định trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Đặc biệt,
những nét đặc thù trong thiên nhiên và khí chất con người miền núi đã tạo nên
sức gợi riêng, so với văn xuôi viết về đồng bằng, đô thị . Nhà nghiên cứu
Phong Lê đã từng nhận xét : “văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ riêng,
không thay thế được, không ai bắt chước được”. Do đó nghiên cứu về văn học
viết về đề tài miền núi sẽ có nhiều khám phá thú vị.
1.2. Mỗi một nhà văn đều thông qua thế giới nghệ thuật trong tác phẩm

của mình để gửi gắm một quan niệm nghệ thuật về hiện thực đời sống và tâm
điểm của bức tranh ấy là số phận những con người trước những thử thách,
những bi kịch trong cuộc sống đời thường hay trước những bão giông của lịch
sử Trong văn học đương đại có khá nhiều nhà văn tiêu biểu viết về đề tài
miền núi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc như: Ma Văn
Kháng, Mạc Phi, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thuý… Đoàn Hữu Nam là
một cái tên khá mới. Ông có duyên với bút mực bắt đầu từ thơ, truyện ngắn,
nhưng thành công hơn cả là tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam phản
ánh khá phong phú hiện thực miền núi những năm sục sôi cách mạng giành
chính quyền và tiễu phỉ với nhiều biến cố lịch sử gắn liền với đời sống của
cộng đồng các dân tộc: Hmông, Dao, Giáy… ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta, đặc biệt là Lào Cai - mảnh đất đã hoá thành máu thịt trong các sáng
tác của ông. Chúng ta có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Hữu
Nam như: Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão và nổi tiếng hơn cả là Thổ
phỉ. Tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn họ Đoàn đã được giải A của Hội văn

2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2010) và được chuyển thể
thành kịch bản phim công chiếu rộng rãi.
1.3. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam đã có khá nhiều bài
viết, bình luận, đánh giá, nhận xét về nội dung và phong cách nghệ thuật,
cách kết cấu, ngôn ngữ… mang phong cách riêng. Đó là những nhận xét của
các nhà văn Trung Trung Đỉnh, Phạm Duy Nghĩa, Sương Nguyệt Minh, Đoàn
Minh Tâm, Văn Công Hùng, Lộc Bích Kiệm, Cao Văn Tư Nhưng đi sâu để
tìm hiểu những đóng góp của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam về phương diện nội
dung và nghệ thuật để nhận diện những đặc điểm mới mẻ trong phong cách
sáng tác của nhà văn này thì đến nay vẫn là một khoảng trống. Hy vọng đề tài
này sẽ góp phần nhận diện một gương mặt tiêu biểu trong làng văn xuôi

đương đại dân tộc và miền núi và có thể làm tư liệu cho những ai nghiên cứu
tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam nói riêng và văn xuôi dân tộc và miền núi nói
chung. Qua đó, chúng tôi cũng muốn giới thiệu với bạn đọc về con người và
vùng đất Lào Cai với những lịch sử văn hoá, những phong tục tập quán tiêu
biểu. Hơn nữa, là người con của Lào Cai - miền đất giáp biên giới phía Bắc
của Tổ quốc - tôi cũng mong muốn sẽ hiểu hơn, yêu hơn vùng đất và con
người nơi đây và muốn truyền cho độc giả niềm yêu mến đó khi thực hiện
luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
So với các nhà văn viết về miền núi và dân tộc như Tô Hoài, Nguyên
Ngọc hay Ma Văn Kháng thì Đoàn Hữu Nam là một cái tên khá mới mẻ. Anh
sáng tác từ những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, nhưng thực sự được bạn đọc
biết đến vào những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đặc biệt khi tiểu thuyết Thổ
phỉ (2010) đạt được giải thưởng cao - Giải A Hội văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam. Sau sự kiện này, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số Việt Nam đã tổ chức một cuộc tọa đàm về “Tiểu thuyết Thổ phỉ của
Đoàn Hữu Nam và Văn học trẻ dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại”.

3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Cuộc toạ đàm này đã diễn ra tại văn phòng cơ quan Hội văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số vào ngày 23.4.2011 với sự chủ trì của nhà văn Cao
Duy Sơn – Phó Chủ tịch Hội và sự điều hành của nhà thơ Inrasara. Có nhiều
nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu về văn học dân tộc và miền núi đã tham gia
trong cuộc toạ đàm này. Tiêu biểu như: Hoàng Quảng Uyên, Lê Minh Thảo,
Mã A Lềnh, Lâm Tiến, Trung Trung Đỉnh, Sương Nguyệt Minh, Phạm Duy
Nghĩa… Các ý kiến đánh giá xoay quanh những đóng góp và hạn chế của tiểu
thuyết Thổ phỉ cho văn học đương đại Việt Nam, nhất là văn học viết về dân
tộc và miền núi.

Mã A Lềnh cho rằng: “xung đột thiệt ác đầy tính thời sự trong Thổ phỉ
đã được khắc hoạ rất thành công”, nhưng “lực lượng đằng sau lưng thổ phỉ
xúi bẩy huýt chó, suýt thú cắn càn… hoàn toàn vắng bóng trong tác phẩm”.
Nhà nghiên cứu Lâm Tiến khẳng định: “nội dung hiện thực phản ánh trong
Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam không có gì mới, trừ cụ giáo Choong”. Sương
Nguyệt Minh lại không đồng ý với ý kiến này, anh cho rằng: “Đoàn Hữu Nam
đã có nỗ lực rất lớn trong cách thể hiện”.
Hoàng Quảng Uyên nhấn mạnh ưu điểm trong cách sử dụng từ ngữ của
Đoàn Hữu Nam là “nói như người Dao, người Mông nghĩ” không như người
Kinh viết về dân tộc thiểu số lâu nay. Điều này chứng tỏ Đoàn Hữu Nam đã
gắn bó rất sâu nặng với con người và cuộc sống vùng núi Lào Cai, “lặn sâu
vào cuộc sống hàng ngày của đồng bào, hiểu biết vùng núi rừng với bao ngõ
ngách của nó” (Trung Trung Đỉnh). Nhà thơ Inrasara lại chỉ ra xu hướng
sáng tác của Thổ phỉ là “viết theo phương pháp hiện thực, hiện thực xã hội
chủ nghĩa nữa”. Chính vì viết theo xu hướng này, theo Inrasara, “hạn chế nổi
cộm nhất” của Thổ phỉ là “cái nhìn của Thượng đế - tác giả”. Có lẽ đây không
chỉ là một nhận xét riêng dành cho tiểu thuyết Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam mà
là một đánh giá chung cho văn học dân tộc thiểu số, miền núi đương đại.
Có thể nói, trong cuộc toạ đàm này một số ưu điểm và hạn chế của cuốn
tiểu thuyết Thổ phỉ đã được các tác giả đưa ra bàn luận một cách khách quan,

4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

khoa học, thậm chí có những ý kiến trái chiều nhau. Tuy nhiên, tất cả những
nhà nghiên cứu, nhà văn trong cuộc toạ đàm đều nhất trí khẳng định: Mặc dù
vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam là cuốn
tiểu thuyết thành công, có giá trị, mang lại sự mới mẻ cho văn học viết về dân
tộc thiểu số những năm gần đây.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể kể đến những bài báo, lời giới thiệu sách

của những tác giả khác cũng có những ý kiến nhận xét về tiểu thuyết Đoàn
Hữu Nam. Chúng ta có thể kể đến các bài viết sau:
Trên đỉnh đèo giông bão- một tiểu thuyết có văn (trong sách: Một thế kỷ
thơ văn Lào Cai, Nxb Hội nhà văn 2010) – Phạm Duy Nghĩa.
“Thế giới nghệ thuật Đoàn Hữu Nam trong tiểu thuyết Thổ phỉ (trong sách:
Một thế kỷ thơ văn Lào Cai, Nxb Hội nhà văn 2010) - Sương Nguyệt Minh.
Tiểu thuyết Thổ phỉ - Vài cảm nhận - Đoàn Minh Tâm (Tạp chí Văn
nghệ quân đội).
“Thổ phỉ” và hiện thực văn chương – Văn Công Hùng.
Thổ Phỉ - Tiểu thuyết đậm nét đặc trưng thể loại – Lộc Bích Kiệm.
Thổ phỉ - Làm mới một đề tài (Đọc tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn
Đoàn Hữu Nam, NXB Hội nhà văn, 2010 – Giải A Hội Văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam 2010) (In trong tạp chí: Khoa học và tổ quốc,
số tháng 7/2012) – Phạm Duy Nghĩa.
“Thổ phỉ” – Từ một góc nhìn nhỏ - Lâm Tiến.
Qua những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, tiểu thuyết
Đoàn Hữu Nam đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều đối tượng
cả người nghiên cứu và người sáng tác. Tuy nhiên chủ yếu các tác giả mới chỉ
quan tâm tới tiểu thuyết Thổ phỉ - một tác phẩm từng được giải thưởng cao và
tạo nên tên tuổi của Đoàn Hữu Nam và cũng mới chỉ dừng lại ở những bài
báo nhỏ, lẻ, chưa phải là những công trình khoa học. Ngoài tiểu thuyết Thổ
phỉ, Đoàn Hữu Nam còn các tác phẩm khác cũng có giá trị như: Tình rừng,

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Dốc người, trên đỉnh đèo giông bão chưa được giới nghiên cứu quan tâm.
Đây là những khoảng trống để chúng tôi có thể bổ sung hi vọng góp phần làm
sáng tỏ những đóng góp của nhà văn Lào Cai này qua những tiểu thuyết viết
về dân tộc, miền núi.

Nhìn chung, Đoàn Hữu Nam là một trong những cây bút nặng lòng với
đề tài dân tộc và miền núi. Ta có thể thấy được chất miền núi thấm đượm
trong những trang văn của ông. Nhà văn không chỉ thành công trong hàng loạt
những truyện ngắn và thơ mà còn rất thành công trong tiểu thuyết. Hàng loạt
những tác phẩm tiểu thuyết của ông được bạn đọc cả nước biết đến như: Tình
rừng - Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân – 2000, Dốc người –
Tiểu thuyết – NXB Công an nhân dân – 2001, Trên đỉnh đèo giông bão –
Tiểu thuyết – NXB Quân đội nhân dân – 2004, NXB Lao động tái bản năm
2010, Thổ phỉ - Tiểu thuyết – NXB Hội Nhà văn năm 2010.
Trong những sáng tác của Đoàn Hữu Nam có một vấn đề được ông đề
cập đến khá sâu sắc ghi dấu một thời kỳ lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ tiễu phỉ
ở phía Bắc nước ta. Đây là một trong những thời kỳ nhiều biến động diễn ra ở
các tỉnh miền núi nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống của nước ta
những năm 50 - 60. Là tác giả trẻ trong nền văn học đương đại, Đoàn Hữu
Nam vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tác và khẳng định phong cách riêng độc đáo
trong sáng tác nghệ thuật. Ông được đánh giá là nhà văn có những đóng góp
lớn ở mảng đề tài văn xuôi viết về miền núi. Tuy nhiên đến thời điểm hiện
nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng về Đoàn Hữu Nam và
những tác phẩm của nhà văn.
Nhìn chung, qua khảo sát những công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy, tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam mới được nghiên cứu lẻ tẻ, chưa hệ
thống. Những đánh giá về đóng góp của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam cũng chỉ
được đề cập ở những nét khái quát nhất trong những công trình nghiên cứu về
văn học các dân tộc thiểu số.

6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Hi vọng với công trình “Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam”, chúng tôi sẽ
tiếp nối những ý tưởng của những nhà nghiên cứu đi trước để khám phá, khảo

sát và chỉ ra một cách hệ thống và cụ thể những đóng góp tiêu biểu của nhà
văn Đoàn Hữu Nam trên lĩnh vực tiểu thuyết cho văn học nước nhà, nhất là
dòng văn học dân tộc và miền núi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, luận văn
tập trung khảo sát một số phương diện tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật
được biểu hiện nổi bật trong tác phẩm của Đoàn Hữu Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam.
+ Tình rừng - Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân – 2000.
+ Dốc người – Tiểu thuyết – NXB Công an nhân dân – 2001.
+ Trên đỉnh đèo giông bão – Tiểu thuyết – NXB Quân đội nhân dân –
2004, NXB Lao động tái bản năm 2010.
+ Thổ phỉ - Tiểu thuyết – NXB Hội Nhà văn năm 2010.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm tới một số tiểu thuyết viết về đề
tài miền núi của các tác giả tiêu biểu như: Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn
Kháng, Vi Hồng… làm đối tượng để so sánh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi vào nghiên cứu, khảo sát, phân tích, lý giải những nét đặc
sắc, tiêu biểu cùng những hạn chế nhất định trong những tiểu thuyết của Đoàn
Hữu Nam trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua đó, chỉ ra quan
điểm nghệ thuật, vùng thẩm mĩ riêng, các nhân sinh quan, thế giới quan
trong sáng tác của ông. Từ đó khẳng định những đóng góp quý báu của tác
giả cho nền văn xuôi viết về miền núi nói riêng và văn xuôi đương đại Việt
Nam nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau:

7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học.
- Phương pháp thống kê, so sánh.
- Phương pháp lịch sử, văn hoá.
- Phương pháp khái quát, tổng hợp.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ
thống về tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, góp phần khẳng định vị trí của nhà văn
trong dòng chảy của văn xuôi đương đại viết về dân tộc và miền núi.
- Qua việc khảo sát và chỉ ra những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và
nghệ thuật của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam người đọc được tiếp cận với thiên
nhiên, con người và lịch sử vùng núi Lào Cai, thêm hiểu thêm yêu về vùng
đất biên cương của Tổ quốc.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của
luận văn chúng tôi triển khai trên 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam trong dòng văn xuôi hiện đại viết
về dân tộc miền núi.
Chương 2: Hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong tiểu thuyết
Đoàn Hữu Nam.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết
Đoàn Hữu Nam.

8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM TRONG DÕNG VĂN
XUÔI HIỆN ĐẠI VIẾT VỀ DÂN TỘC MIỀN NÖI


1.1. Diện mạo văn xuôi hiện đại viết về dân tộc miền núi
1.1.1. Quá trình vận động
1.1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Đầu thế kỷ XX, hòa chung với quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt
Nam, văn học dân tộc và miền núi chính thức ra đời. Đây thực sự là một địa
hạt mới mẻ. Với sức hút của một “miền đất lạ”, “một món lạ” với bao điều
kỳ thú, bí ẩn về một miền “ma thiêng nước độc”, văn học về cuộc sống và
con người miền núi bắt đầu được nhà văn và độc giả quan tâm. Tuy nhiên
trước năm 1945 văn xuôi viết về miền núi mới chỉ có tác phẩm của các văn
nghệ sĩ người Kinh mà giới nghiên cứu quen gọi là “truyện đường rừng”.
Mảng hiện thực mới mẻ phong phú và hấp dẫn này đã thu hút sự chú ý của
nhiều cây bút. Trong thời kỳ này hầu như chưa có tác phẩm văn xuôi nào của
tác giả người dân tộc thiểu số xuất hiện. Mặc dù từ những năm 30 của thế kỷ
XX, trên diễn đàn văn học cũng đã xuất hiện một số tác phẩm viết về đời sống
sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, nhưng tác giả viết về
mảng này đều là người Kinh như: Thế Lữ với tập truyện Vàng và máu; Lan
Khai với Truyện đường rừng; Tchya với Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya;
Nhất Linh với Lan rừng, Ngậm ngải … Khái Hưng với Tiếng khèn…. Lúc
bấy giờ, những tác phẩm này cũng đã thu hút sự chú ý của người đọc bởi sự
mới lạ về cảnh và người miền núi và một phần nào đã kích thích trí tò mò của
độc giả trước những miền đất lạ xa xôi, hoang dã với những phong tục tập
quán kì lạ, bí hiểm, hoặc những hủ tục mông muội, thậm chí man rợ của
những tộc người (Thổ, Mán,…) trên vùng núi cao rừng sâu. Những nhà văn
lúc này giống như một du khách, một kẻ lãng tử đi khám phá những miền đất

9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

xanh thẳm, âm u, hoang dã, phát hiện ra những điều kỳ bí trong cuộc sống của

những tộc người sống trong rừng thẳm còn nhiều bí ẩn đối với con người trong
xã hội văn minh.
1.1.1.2. Giai đoạn 1945 – 1975
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra
một thời kì mới trong lịch sử dân tộc: thời kì độc lập tự do. Lúc này, chúng ta
phải đối đầu với những thử thách vô vàn khó khăn và khốc liệt với hai kẻ thù đó
là Pháp và Mĩ để bảo vệ nền hòa bình, giải phóng và thống nhất đất nước. Dưới
ánh sáng của thời đại mới, nhân dân miền núi đã trở thành một bộ phận không
thể thiếu trong cuộc cách mạng dân tộc. Con người miền núi cũng trở thành một
đối tượng thẩm mĩ vô cùng quan trọng cho nền văn học cách mạng. Có thể nói,
sự phát triển của văn học miền núi giai đoạn này là sự kế thừa, phát triển của
thể loại “truyện đường rừng” giai đoạn trước 1945 đã được kết tinh ở những
cây bút xuất sắc như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc… những nhà văn đã
có công góp phần khai phá, mở đường cho văn xuôi dân tộc miền núi hình
thành và phát triển.
Nếu như văn xuôi viết theo xu hướng “truyện đường rừng” trước năm
1945 hình dung con người miền núi là những “giống người”, “bọn người”,
“người mọi” mà sự dã man từ thời mông muội của loài người dường như vẫn
còn rơi rớt lại, thì sau năm 1945 cái nhìn đối với con người miền núi đã có sự
thay đổi. Từ cái nhìn phiến diện của “con mắt người Hà Nội” lúc ban đầu, về
sau Nam Cao đã nhận ra rằng “Người Mán chẳng có gì đáng sợ… Họ chẳng
giết ai và cũng chẳng có gì là quái gở”. Hơn nữa, tác giả nhận ra rằng người
Mán tốt và cũng tràn đầy tinh thần cách mạng: “Họ nhịn ăn, giấu cơm đem
cho người cách mạng ăn” (Nhật ký ở rừng). Nhà phê bình Lâm Tiến cho
rằng “Với Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã vẽ nên một bức tranh tuy còn đơn
giản nhưng rất chân thực, mới mẻ về con người, cuộc sống của các dân tộc
miền núi”.

10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi cách mạng về miền núi,
sau Cách mạng Tháng Tám đó chính là Tô Hoài. Nhà văn đã đến với đồng
bào Tây Bắc và đắm chìm trong cuộc sống của con người các dân tộc miền
núi. Tô Hoài đã từng ăn, ở và sinh hoạt cùng họ, cùng ăn thịt ngựa, thịt chó
nhạt, ăn rêu đá nướng và bọ hung xào như bà con, cùng vác củi, thổi sáo, bắt
chuột, bắt con rúi, và trong những đêm trăng sáng theo thanh niên Hmông đi
“cướp vợ”. Sống với người miền núi, ông thật sự thấu hiểu và yêu quý họ.
Ông tâm sự: “Tôi thích những người ấy lắm,. Cô thì nhận là em. Cô thì nhận
là con… Qua họ, mình biết được người thật, việc thật, người bình thường việc
bình thường. Vì thế trước kia tôi có biết tí gì về miền núi đâu. Nhưng bây giờ
tôi dám viết về miền núi. Tôi say sưa về miền núi. Tôi đã để công phu vào việc
học tiếng miền núi và tha thiết yêu người miền núi, coi miền núi như quê
hương mình vậy”. Núi cứu quốc được tác giả viết vào năm 1948 thể hiện
được sự vất vả, thiếu thốn nhưng giàu ý nghĩa đối với cách mạng nhưng cũng
như quyết tâm chiến đấu của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm còn
nhiều hạn chế như còn nặng về thể hiện, miêu tả các tài liệu, bề mặt của hiện
thực mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản chất của nó để rồi “chết chìm trong
tài liệu” như nhà văn đã tâm sự. Năm 1960 tập truyện Truyện Tây Bắc ra đời
với ba truyện ngắn là Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A
Phủ được đánh giá là tác phẩm thành công xuất sắc đầu tiên về miền núi
trong văn xuôi cách mạng hiện đại. Tập truyện có một vị trí quan trọng trong
văn học hiện đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài sang những vùng núi hẻo lánh
còn ít được nhà văn đào xới. Ở đấy “cảnh và người Tây Bắc hiện ra hài hòa
đường nét, ấm màu sắc, êm ái âm thanh” và tác giả đã thành công trong việc
“miêu tả con người chuyển sang ý thức từ tự phát đến tự giác là một đặc
trưng của ngòi bút Tô Hoài”.
Đóng góp của tác giả ở chỗ ông đã nhận thức và đi sâu vào cuộc đời,
thân phận khổ cực của con người miền núi tựa như một trái núi đè nặng con


11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

người từ khi sinh ra cho đến lúc chết, từ kiếp này sang kiếp khác, trùng điệp
nỗi khổ như kiếp trâu ngựa tôi đòi “đời con, đời cháu bao giờ hết nợ thì thôi”
(Vợ chồng A Phủ), để rồi tác giả đi tới cái nhận thức thật đau đớn và khó hiểu
là làm sao con người có thể kéo dài kiếp sống lay lắt và mù mịt như thế và ý
nghĩa cuộc đời con người hi sinh là gì? Trăn trở với những kiếp sống tôi đòi
của con người vùng cao, nhất là thân phân của người phụ nữ miền núi dưới
chế độ xưa, Tô Hoài đã thâu tóm cuộc đời người đàn bà miền núi trong những
câu văn ám ảnh: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đay,
xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc xay ngô, lúc nào
cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt
năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm vẫn có lúc, đêm nó không được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả
đêm cả ngày”. Dưới sức mạnh của cường quyền và thần quyền, cuộc đời của
con người vùng cao trở nên bi thảm hơn bao giờ hết. Tiêu biểu là nhân vật Mị
trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài…
Cũng sau năm 1945, theo định hướng đường lối văn nghệ của Đảng,
mảng Văn học dân tộc thiểu số đã được quan tâm tạo điều kiện phát triển và
bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ngoài một số tác giả người
Kinh viết về miền núi như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc…, đã có một số
tác phẩm của một số tác giả người dân tộc thiểu số đã xuất hiện, gia nhập vào
dòng chảy của văn xuôi miền núi vốn trước đây chỉ là độc quyền của nhà văn
dân tộc người Kinh. Một thế hệ nhà văn trẻ người dân tộc đã được hình thành
trong những năm 50, 60 khi miền Nam đấu tranh chống Mĩ, miền Bắc xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Họ là những trí thức dân tộc, những người yêu mến và
tự hào về mảnh đất và con người miền núi, thiết tha muốn đóng góp vào nền
văn học nước nhà những tiếng nói tình cảm và tâm hồn của dân tộc mình. Đó
là nhà văn Nông Viết Toại với tác phẩm: Boỏng tàng tập éo (1952), Nông

Minh Châu với Ché Mèn được đi họp (1959), Y Điêng với Em chờ bộ đội

12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Awa Hồ (1960), Hoàng Hạc với Ké Nàm (1964), Triều Ân với Tiếng khèn A
Pá (1968), Vi Thị Kim Bình với Những bông huệ (1968), Hoàng Hạc, Triều
Ân với Tiếng hát rừng xa (1969)… Cách mạng, nhân dân, văn hóa văn học
dân gian chính là ba nguồn mạch cảm hứng vô tận nuôi dưỡng các cây bút
văn xuôi người dân tộc thiểu số trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Những sáng tác của họ luôn luôn bám sát công cuộc cách mạng dân tộc và thể
hiện sâu sắc tình cảm, ý chí của người dân miền núi trong những tháng ngày
đầy gian khổ, mất mát, hi sinh, nhưng cũng đầy oanh liệt, oai hùng của dân
tộc. Thời kỳ này phạm vi phản ánh của văn học dân tộc ta khá rộng, các tác
giả dân tộc thiểu số không chỉ viết về cuộc sống và con người miền núi, mà
họ còn viết về miền xuôi, về miền Nam, thậm chí còn quan tâm tới cả những
vấn đề có tính quốc tế. Tác phẩm của họ luôn hướng tới việc ca ngợi sự thay
đổi lớn lao của đất nước, của nhân dân các dân tộc miền Bắc và cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Ở giai đoạn này, ý thức dân tộc được
nâng cao trong từng cây bút dân tộc thiểu số. Họ háo hức, hồ hởi khám phá
với tâm hồn “bừng nắng hạ”, với một trái tim cháy bỏng, hăng say, hăm hở,
tràn đầy cảm hứng lãng mạn khi viết về quê hương vùng cao tươi đẹp, kì vĩ
với con người miền núi khỏe mạnh, chân thật, hồn nhiên, yêu đời. Vậy là
dường như chưa bao giờ người ta chưa bao giờ được thể hiện niềm tự hào về
quê hương, dân tộc mình đến thế…
Như vậy, với những đóng góp đáng kể của các tác giả miền núi thuộc
nhiều dân tộc khác nhau, văn xuôi dân tộc và miền núi Việt Nam đã dần dần
được định vị và góp phần xứng đáng vào công cuộc cách mạng, công cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trở thành
một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1.1.1.3. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay
Trong bối cảnh hòa bình, thống nhất và phát triển đất nước, khắc phục
hậu quả chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới, văn xuôi dân tộc thiểu số

13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

phát triển một bước mới. Và khoảng thời gian từ 1976 – 1986 được coi là
chặng đường khởi động cho cao trào đổi mới. Văn xuôi miền núi cũng có
đóng góp tích cực cho chặng đường này. Đội ngũ tác giả là người dân tộc
thiểu số đông đảo hơn và thành tựu trong sáng tác cũng rực rỡ hơn. Ở thời kỳ
này, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển mạnh về số lượng cũng như chất
lượng, giúp chúng ta có thể nhận diện một cách rõ ràng, khẳng định nó như
một thực thể riêng, độc đáo trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
Một đặc điểm rất dễ nhận diện trong văn học sau năm 1975 ở nước
ta đó là dư âm của cuộc chiến tranh vẫn còn đọng nhiều trong từng trang
viết và nhiều tác phẩm vẫn còn mang đậm chất sử thi với ý thức cộng
đồng và cảm hứng anh hùng ca, cảm hứng ngợi ca. Hình tượng những
anh hùng cách mạng, những con người mới, những chiến sĩ trên mặt trận
văn hóa đang cùng đồng bào miền núi xây dựng cuộc sống mới là trung
tâm của nhiều tác phẩm. Những tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe
(1979), Trăng non (1982), Vùng biên ải (1983) của Ma Văn Kháng,
Rừng động của Mạc Phi… tiếp tục mở rộng và hoàn thiện bức tranh hiện
thực miền núi với sự tái hiện trên quy mô lớn của quá trình cách mạng,
những giai đoạn lịch sử hào hùng của các dân tộc ít người vùng địa đầu
của Tổ quốc. Nghệ thuật xây dựng nhân vật con người miền núi trong
văn xuôi giai đoạn này đã ghi nhận sự thành công của nghệ thuật điển
hình hóa cao độ nhưng vẫn chịu sự chi phối khá lớn của khuynh hướng
sử thi. Con người mới, con người tập thể vẫn là trung tâm của văn học và
có sự thống nhất cao giữa ngoại hình và tính cách. Cũng ở giai đoạn này,

đội ngũ sáng tác các nhà văn dân tộc thiểu số đã tăng lên đáng kể và
cũng trưởng thành nhanh chóng. Nhà văn Vi Hồng tiếp tục đóng góp
hàng loạt tác phẩm có giá trị như Đất Bằng (1980), Vãi Đàng (1980),
Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đá rơi (1985)… Bao trùm lên
các sáng tác của ông là cảm hứng ca ngợi cái tốt đẹp và lên án những tội

14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ác mà bọn phong kiến đã gây ra cho người dân. Bên cạnh đó còn có
Tiếng chim gô (1979) của Nông Minh Châu, Niềm vui (1979) của Vi Thị
Kim Bình, Tiếng kèn A Pá (1980) của Triều Ân, Hạt giống mới (1983)
và Sông gọi (1986) của Hoàng Hạc. Mỗi tác giả đều phản ánh hiện thực
và con người miền núi theo cách riêng nhưng tựu chung lại họ đều tập
trung phản ánh sự đổ mới của cuộc sống và con người miền núi nhờ có
ánh sáng của cách mạng. Những thành quả từ hai nguồn tác phẩm của
các nhà văn dân tộc Kinh và nhà văn dân tộc thiểu số cho thấy mười năm
năm sau chiến tranh tuy không dài nhưng là giai đoạn phát triển đồng bộ
và phong phú của văn xuôi miền núi.
Sự đổi mới trong văn học đã xuất hiện ngay từ cuối thập niên 70 đến đầu
thập kỉ 80 nhưng phải đến năm 1986 sự thay đổi mới thực sự thành phong
trào rộng lớn, sâu sắc, làm xuất hiện loại hình nhân vật mới trong văn học.
Văn xuôi miền núi cũng có những bước chuyển biến tích cực và đạt được
nhiều thành tựu mới mẻ. Lúc này các cây bút người Kinh vẫn cần mẫn cắm
bản. Tô Hoài đánh dấu sự trở lại của mảng đề tài miền núi bằng tiểu thuyết
Nhớ Mai Châu (1988). Ma Văn Kháng với nhiều truyện ngắn đặc sắc về
vùng cao như Vệ sĩ của quan châu (1988), Bài ca trăng sáng (1992), Móng
vuốt thời gian (2003) đã cho thấy những cách nhìn mới mẻ, sâu hơn về hiện
thực và con người miền núi. Một trong những thành tựu đáng kể trong giai
đoạn này đó là bộ ba tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe (1978), Vùng biên

ải (1983), Gặp gỡ ở La Pán Tẩn (1999) của Ma Văn Kháng. Nguyễn Ngọc
Thiện đã khái quát giá trị của các tiểu thuyết này ở vai trò “một cuốn sử biên
niên” với những tri thức quý báu về lịch sử, xã hội, phong tục, tâm lí, ngôn
ngữ,… của cộng đồng dân tộc Tây Bắc ở nước ta.
Ở vùng núi Việt Bắc và Tây Bắc – tác giả người Tày luôn chiếm số
đông. Ngoài các nhà văn như Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kì, còn có Đoàn

15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lư, Hoàng Hữu Sang, Cao Duy Sơn…, trong đó đáng chú ý là nhà văn Vi
Hồng. Từ năm 1980 – 1997, Vi Hồng đã cho ra đời 14 cuốn tiểu thuyết.
Trong khu vực miền Trung xuất hiện La Quán Miên (dân tộc Thái) với
tập truyện Hai người trở về bản (1996), Kha Thị Thường với tập truyện Lũ
núi (2003), Lang Quốc Khánh với tập kí Những miền thương nhớ (2005),
Hà Thị Cẩm Anh (dân tộc Mường) với Gốc gội xù xì.
Trong khu vực Tây Nguyên có Hlinh Nie (dân tộc Êđê) với tập truyện
ngắn Con rắn màu xanh da trời (1997) với tập kí Trăng Xí Thoại (1999),
Kim Nhất (dân tộ Bana) với Hồn ma núi (2002) và Niê Thanh Mai (dân tộc
Êđê) với tập truyện Về bên kia núi (2007)…
Khu vực các tỉnh phía Nam, lần đầu tiên xuất hiện văn xuôi của một số
dân tộc như truyện kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
(1994) của Lý Lan (dân tộc Hoa), tiểu thuyết Chân dung cát (2006) của
Inrasara (dân tộc Chăm).
Trong những sáng tác trên, có những tác phẩm khá xuất sắc, thể hiện
được bản sắc riêng của, dân tộc từ dựng cảnh, dựng người đến cách sử dụng
ngôn ngữ nghệ thuật và tư duy độc đáo. Nhiều tác phẩm đã kết hợp được với
ngôn ngữ nghệ thuật và cách tư duy nghệ thuật độc đáo. Nhiều tác phẩm đã
kết hợp được bút pháp tự sự theo kiểu truyền thống (ảnh hưởng từ các sử thi,
truyện cổ, truyện thơ…) với bút pháp văn xuôi hiện đại, tạo ra sự đa dạng

muôn hình muôn vẻ, nhiều giọng điệu và tạo thành “vườn hoa nhiều hương
sắc”, làm phong phú bức tranh của đời sống văn học hiện đại nước nhà. Mã A
Lềnh với bút kí “Cao Nguyên trắng” mang giọng điệu sôi nổi đã ghi lại
những đổi mới trên quê hương trong thời kỳ kinh tế thị trường. Với một văn
phong khá linh hoạt và hấp dẫn, ông đã tái hiện một bức tranh quê hương
miền núi với những nét hoa văn khác nhau nhưng luôn có màu gam chủ đạo là
rực rỡ, sôi động. Nhà văn Cao Duy Sơn với những tác phẩm Người lang
thang, Cực lạc, Hoa mận đỏ… và đặc biệt hơn cả là tác phẩm Đàn trời đã tái

16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

hiện một bức tranh xã hội phong phú với những mảng đời, với những số phận
và những lối sống khác nhau ở miền núi. Tác giả đã miêu tả những xung đột
trong cuộc sống, trong tâm hồn mỗi cá nhân với một ngòi bút tinh tế, sinh
động, đậm chất hiện thực, nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Kim Nhất
(dân tộc Ba Na) thể hiện khá chân thật và phong phú những phong tục tập
quán của dân tộc mình qua những tác phẩm Chuyện buôn làng, Nối dây,
Phạt kơ đi… Hlinh Niê đã biết kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa chất huyền
thoại và sử thi khi viết về con người, cuộc sống ở Tây Nguyên. Tác giả giới
thiệu kho tàng florklore độc đáo với những ngôi nhà rông, những hình hoa
văn, chim thú rừng được lưu giữ trên nóc các nhà mồ; về nghệ thuật ẩm thực
xứ Tây Nguyên…; miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội cồng chiêng, những
nét hoa văn thổ cẩm Tây Nguyên phối hợp hài hòa giữa các gam: xanh, vàng,
đỏ để làm nổi bật hai màu chủ đạo là đen và trắng (Về đâu hỡi thổ cẩm Tây
Nguyên, Trăng Xí Thoại). Người con của núi rừng tây Nguyên này không chỉ
trăn trở trước những luật tục lạc hậu vẫn tồn tại, mà đau đớn xót xa trước
những di sản văn hóa dang bị mai một dần khi: “hàng trăm các nghệ nhân
theo dòng thời gian lặng lẽ nằm xuống. Hàng trăm cổ vật như có cánh bay,
hàng trăm công trình sưu tầm, công sức và tâm huyết của bao người bị mối

xông thành đất. Chiêng Gia Rai, Ê đê, Ba na chảy thành máu trong các lò
nấu đồng”. Đây không chỉ là lời cảnh báo mà là một hiện thực nhức nhối về
sự mất mát của các di sản văn hóa dân tộc trong thời buổi kinh tế thị trường,
dưới sức tác động ghê gớm của đồng tiền.
Cũng như thơ, thành tựu về văn xuôi dân tộc miền núi sáu năm đầu thế
kỷ XXI không nhiều. Nhưng điều đáng quý là đã xuất hiện các viết truyện
ngắn, tiểu thuyết khác trước. Với giải A cuộc thi Báo Văn Nghệ - Hội nhà văn
Việt Nam năm 2004 cho tác phẩm Gốc gội xù xì, Hà Thị Cẩm Anh là một cây
bút văn xuôi dân tộc thiểu số có lối kể chuyện chân mộc, giản dị, dễ hiểu
nhưng giàu biểu tượng, sâu sắc và hấp dẫn. Tác phẩm đã phân tích, lý giải

17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật một cách hợp lý. Có thể nói đây là một
trong những truyện ngắn có ngôn ngữ chi tiết, kết cấu, cốt truyện chặt chẽ
nhất của văn học dân tộc thiểu số từ trước đến nay. Bản sắc dân tộc được thể
hiện rõ từ cách kể chuyện cho tới cử chỉ, lời nói, suy nghĩ, hành động, việc
làm của nhân vật. Ngoài truyện ngắn Gốc gội xù xì, Hà Thị Cẩm Anh còn có
một số truyện ngắn thành công khác.
Về tiểu thuyết – Cao Duy Sơn vẫn là cây bút chủ lực và có nhiều thành
tựu về thể loại này. Từ tiểu thuyết Người lang thang, Cực lạc, Hoa mận đỏ
cho tới thiểu thuyết Đàn trời (xuất bản năm 2006) là một bước dài của Cao
Duy Sơn nói riêng và tiểu thuyết dân tộc thiểu số nói chung. Với Đàn trời, lần
đầu tiên bức tranh xã hội rộng lớn của miền núi được thể hiện rõ ràng và đầy
đủ nhất, gần như có đủ các giai tầng, các ngành nghề; từ bí thư, chủ tịch tỉnh,
chủ tịch xã, trưởng phố; từ giám đốc, phó giám đốc tới trưởng phòng, phó
phòng, tổng biên tập, phó tổng biên tập tới phóng viên, nhà báo, kỹ sư, bác sĩ,
công an; từ khách sạn, nhà hàng, tới doanh nghiệp, thương nhân; từ cô giáo
đến học sinh, sinh viên; từ ông già thổi sáo, người nông dân lao động tới

người buôn bán; từ bọn giặc cướp đến kẻ đâm thuê, chém mướn… Tác phẩm
còn được mở rộng về không gian và thời gian, từ thành thị tới nông thôn, từ
phố cũ đến phố mới, từ thị xã Bình Lãng, đến Long Châu, Hải Phòng, Hòn
Gai, Lạng Sơn… Từ thời kháng chiến chống Pháp, hòa bình lập lại cho tới
những năm đổi mới, cơ chế thị trường hiện nay. Cả một dung lượng rộng lớn
đó được thể hiện trong một cuốn tiểu thuyết dày 682 trang. Với bút pháp hiện
thực, tác giả đã phân tích, mổ xẻ những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân
vật cũng như những mâu thuẫn, xung đột gay gắt đang diễn ra trong cuộc
sống, nhất là trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng và đang
diễn ra ở một tỉnh miền núi. Cách xây dựng nhân vật của tác giả được chiếu
dọi từ những góc độ khác nhau, làm cho tính cách nhân vật trở nên đa dạng,
sắc nét. Đó cũng là thành công trong cách viết của tác giả, mà từ trước tới nay

18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

những tác phẩm văn xuôi viết về dân tộc và miền núi chưa có được (nó chỉ có
trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao). Với việc phản ánh chân thực những
nhân vật và sự kiện, tác phẩm Đàn trời của Cao Duy Sơn không những mang
ý nghĩa phản ánh hiện thực phổ biến ở miền núi mà còn ở những nơi khác.
Ngoài Cao Duy Sơn, Hà Thị Cẩm Anh, còn có thể kể đến truyện ngắn
của Bùi Thị Như Lan. Với tập truyện Tiếng chim kỷ giàng (xuất bản năm
2004), Bùi Thị Như Lan đã đề cập tới một mảng đề tài mà các nhà văn dân
tộc thiểu số còn ít quan tâm, đó là các anh bộ đội người các dân tộc thiểu số.
Đó là anh bộ đội hy sinh trong thời bình (Mùa mắc mật), anh thương binh trở
về làng tham gia sản xuất (Hoa mía), những chiến sĩ trở về làng, vợ đã đi lấy
chồng khác (Sau lời hát sli), anh bộ đội bị nhiễm chất độc màu da cam
(Trăng mọc trong thung lũng, Gió hoang)… Như vậy, với cách cảm nhận
riêng về con người, cuộc sống, thiên nhiên miền núi và sự hòa quyện nhuần
nhuyễn giữa thiên nhiên và con người, tác giả đã khắc họa sâu đậm và cụ thể

hơn những nét tính cách của nhân vật. Đó cũng là nét mới trong cách viết của
văn xuôi dân tộc thiểu số.
Như vậy chúng ta có thể nói, mặc dù không có tài năng đặc biệt, xuất
chúng, nhưng những cây bút người dân tộc thiểu số đã phần nào thực hiện
được sứ mệnh cũng như sự khát khao cháy bỏng của những con người dân tộc
thiểu số không quên cội nguồn – đó là nuôi giữ ngọn lửa văn chương nghệ
thuật, nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc mình. Nếu không có sự hòa nhập máu thịt,
sự cộng sinh giữa chủ thể và khách thể thì nhà văn dân tộc thiểu số sẽ không
thể viết về con người, cuộc sống dân tộc mình một cách sâu sắc và đầy cảm
xúc đến thế. Gần như hầu hết các nhà văn dân tộc thiểu số luôn có cảm xúc
mãnh liệt, có tình cảm da diết đối với thiên nhiên, con người, cuộc sống của
dân tộc mình, quê hương mình. Bởi lẽ những người cầm bút ấy có một thế
mạnh riêng khi tâm thức của họ từ trong huyết thống đã được nuôi dưỡng bởi

19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

những phong tục tập quán, bởi những biểu tượng văn hóa đặc trưng của dân
tộc mình.
Trong sự phát triển chung của đất nước, cuộc sống của các đồng bào dân
tộc thiểu số đã có những bước phát triển và đổi mới về mọi mặt. Chính vì thế
cho nên đời sống văn chương cũng đã xuất hiện khá nhiều tác phẩm viết về
công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi. Ví dụ: tiểu thuyết
Gió hoang của Ma Trường Nguyên, tập bút ký Cao Nguyên Trắng của Mã A
Lềnh và các tuyển tập khác của Sa Phong Ba… Phạm vi phản ánh hiện thực
trong các tác phẩm cũng được mở rộng hơn nhờ không khí dân chủ, đổi mới
của văn học nói chung. Những vấn đề nhạy cảm, những mảng tối, những mặt
trái của hiện thực trước đây từng bị né tránh nay cũng đã được đề cập tới
nhiều hơn. Trong những năm 90, các tiểu thuyết của Vi Hồng đã được dư luận
quan tâm bởi ông đã chạm vào những vấn đề có tính thời sự như: sự băng

hoại đạo đức của một số là trí thức có địa vị xã hội khá cao, nhưng lại ham
tiền tài, danh vọng quên đi những điều tốt đẹp trong quan hệ giữa con người
với con người nên đã bị xã hội phê phán, lên án (Ngƣời trong ống, Gã ngƣợc
đời); hoặc một số sai lầm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự ấu trĩ của
việc ngăn cấm cá nhân làm giàu (Chồng thật vợ giả, Thung lũng đá rơi…).
Tuy nhiên, so với khoảng thời gian mấy chục năm đổi mới, văn xuôi dân
tộc thiểu số miền núi vẫn còn những hạn chế nhất định khi phản ánh hiện thực
của đời sống muôn mặt trong quá trình vận động, phát triển của nó ở khu vực
miền núi. Dường như bộ phận văn học này còn ít chạm đến đề tài chiến tranh
cách mạng – Một hiện thực lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của các
dân tộc miền núi. Phần lớn các nhà văn mới chỉ tập trung ngòi bút của mình
vào việc phản ánh công cuộc xây dựng đời sống mới ở vùng nông thôn miền
núi mà chưa dụng công tái hiện cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng anh dũng
ngoan cường của nhân dân các dân tộc miền núi ở cả hai cuộc đấu tranh
chống Pháp và chống Mĩ xâm lược (ở mảng đề tài này lại phải nhờ đến những

×