Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 đến 1985

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.4 KB, 104 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM









NGUYỄN THỊ THU THỦY








KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975- 1985








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN










THÁI NGUYÊN - 2013





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ THU THỦY





KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975- 1985



CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Trọng Thưởng







THÁI NGUYÊN - 2013




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, khoa Sau đại học
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
- Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn Hà Nội.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư- Tiến
sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận
văn có thể hoàn thành.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
trường THPT Xuân Giang (Sóc Sơn, Hà Nội) đã động viên, khích lệ, tạo điều
kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Thu Thủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 3 tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Thu Thủy





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Cấu trúc của luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG 10
CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ THẨM MỸ NẢY SINH KHUYNH
HƢỚNG THẾ SỰ 10
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội. 10
1.1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh. 10
1.1.2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, hoàn thành
thống nhất về mặt nhà nước, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. 11
1.1.3. Đấu tranh bảo toàn lãnh thổ Tổ quốc. 13
1.2. Bối cảnh văn học. 14
1.3. Nhu cầu nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực văn học. 18
1.4. Bước chuyển của văn học. 22
1.4.1. Chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực. 22
1.4.2. Chuyển đổi quan niệm về con người. 27
1.4.3. Dấu hiệu vận động của thể loại tiểu thuyết. 33
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG DẠNG THỨC NGHỆ
THUẬT CỦA KHUYNH HƢỚNG THẾ SỰ. 38
2.1. Những đặc điểm của khuynh hướng thế sự 38
2.1.1. Đề tài hướng vào những vấn đề xã hội hậu chiến. 38
2.1.2. Số phận con người cá nhân. 44
2.1.3. Tình huống bi kịch, éo le. 49


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.1.4. Những chuyện đời thường, vụn vặt 54
2.1.5. Cảm hứng nhân đạo. 57
2.2. Các dạng thức nghệ thuật quen thuộc 61
2.2.1. Dạng thức các xung đột. 61
2.2.2. Dạng thức tự chiêm nghiệm, triết lý. 64
2.2.3. Dạng thức đời tư, đời thường, những mảnh đời bất hạnh. 67
CHƢƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU. 69
3.1. Nghệ thuật xây dựng kết cấu cốt truyện. 69
3.2. Nghệ thuật trần thuật. 73
3.2.1. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn . 73
3.2.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật. 76
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 79
3.3.1. Sự xuất hiện kiểu nhân vật mới. 79
3.3.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động. 81
3.3.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. 83
3.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. 85
3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực: 85
3.4.2. Ngôn ngữ mang đậm cá tính nhân vật và cá tính nhà văn. 87
3.4.3. Yếu tố thông tin và tính triết luận. 88
PHẦN KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đại thắng mùa xuân năm 1975 không chỉ mở ra một trang mới trong lịch
sử dân tộc ta mà còn đưa tới một chặng đường mới của nền văn học. Trong
bối cảnh ấy, giai đoạn 1975- 1985 chính là thời kì đầu của nền văn học Việt
Nam độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là chặng đường chuyển
tiếp từ văn học thời chiến sang văn học thời bình, từ văn học sử thi sang văn
học thế sự. Khác với sự nở rộ của thơ ca thời kì trước, ở giai đoạn này, văn
xuôi, trong đó có tiểu thuyết chiếm một địa vị ưu trội.
So với các thể loại văn xuôi khác, tiểu thuyết có những ưu thế đặc biệt.
Bởi tiểu thuyết có khả năng rộng lớn trong việc phản ánh hiện thực và những
diễn biến phức tạp của tâm hồn con người. Hơn thế, tiểu thuyết còn là thể văn
cho phép nhà văn bộc lộ nhiều nhất khả năng sáng tạo của mình. Qua tiểu
thuyết, người đọc cũng có thể hình dung, cảm nhận đầy đủ và sâu sắc hơn về
cuộc sống, xã hội, con người…Giai đoạn 1975- 1985 với hiện thực cuộc sống
bộn bề những khó khăn của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh đang
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đầy chông gai, thử thách đã nảy sinh
rất nhiều vấn đề mới về kinh tế chính trị, xã hội…Đây chính là mảnh đất màu
mỡ để tiểu thuyết phát huy ưu thế đó của mình. Đồng thời, từ đây tiểu thuyết
nói riêng, văn xuôi nói chung đã xuất hiện nhiều những vấn đề mới mà chúng
ta cần phải nghiên cứu thấu đáo.
Tìm hiểu tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985, chúng tôi nhận thấy có những
đổi mới cơ bản so với giai đoạn trước. Bởi từ trước 1975, đất nước ta còn
chìm trong khói lửa chiến tranh ác liệt. Vì thế, nền văn học chủ yếu mang
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nhưng sau 1975, bên cạnh sự
nối tiếp dòng mạch của giai đoạn trước, thể văn này đã nổi lên những khuynh
hướng mới trong một bối cảnh lịch sử mới, với những điều kiện mới, tiêu biểu
là khuynh hướng thế sự.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Ở khuynh hướng thế sự, nhiều tác phẩm đã dành sự quan tâm cho thời hậu
chiến như quá trình hòa hợp dân tộc, từ bỏ các thói quen trong thời chiến để
hòa nhịp với cuộc sống thời bình, những vấn đề đạo đức mới xuất hiện trong
quan hệ thường nhật, phổ biến….Một số tác giả đã đề cập kịp thời những vấn
đề nảy sinh trong buổi giao thời đó của đất nước. Góp phần tạo nên hướng mới
của văn học, chúng ta phải kể đến Nguyễn Minh Châu- với tiểu thuyết Miền
cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người từ trong rừng ra
(1982), đặc biệt là với tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
(1983), Bến quê (1985)- Nguyễn Minh Châu xứng đáng là người “mở đường
tinh anh và tài năng” đã đi được xa nhất” ở chặng đầu này. Ngoài ra, một loạt
các tác giả khác (Nguyễn Khải với tiểu thuyết Cha và con và…(1979), Gặp gỡ
cuối năm (1982), Thời gian của người (1985); Nguyễn Mạnh Tuấn với
Những khoảng cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1982), Cù lao tràm
(1985); Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn
(1985)…) đã cùng đem đến một diện mạo mới mẻ cho văn học nước nhà.
Nhìn chung, văn học thời kì này đã bứt ra khỏi những mô típ đề tài quen
thuộc từ giai đoạn trước, mở ra hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt,
nhất là cái hiện thực đời thường với nhiều vấn đề thế sự nổi cộm, nhức nhối.
Thậm chí, có những vùng phản ánh bị coi là cấm kị trong chiến tranh cũng
được đưa vào trong văn học. Những tác phẩm có ý nghĩa tiên phong ấy đã
giúp văn học xích lại gần hơn với đời sống. Đặc biệt khi chú ý mối quan tâm
tới “cái thường ngày”, các nhà văn tỏ ra rất nhạy cảm trước những chuyển
động sâu xa trong đời sống tâm lí thời bình. Những điều như trên cho thấy,
khuynh hướng thế sự là một vùng khám phá đầy bí ẩn và hấp dẫn của tiểu
thuyết thời kì hậu chiến.

Tuy vậy, quan sát tình hình nghiên cứu văn xuôi giai đoạn 1975- 1985
nói chung và tình hình nghiên cứu tiểu thuyết chặng đường này nói riêng,
chúng tôi nhận thấy tuy đã được nghiên cứu nhưng còn có những vấn đề cần
được tiếp tục sâu hơn. Vì thế, với sự yêu mến tiểu thuyết Việt Nam của mình,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
qua đề tài, tác giả luận văn hy vọng sẽ có cơ hội đi sâu tìm hiểu để thấy được
diện mạo phong phú, mới mẻ của tiểu thuyết giai đoạn này. Từ đó thấy được
quá trình đổi mới và ý nghĩa nhân văn tích cực của nền văn học nước nhà.
Trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về văn học Việt Nam, bằng việc khảo
sát, phân loại, so sánh, phân tích,tổng hợp, đánh giá tiểu thuyết giai đoạn
1975- 1985, chủ yếu là tiểu thuyết của những nhà văn tiêu biểu một cách có
hệ thống, chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm một phương
diện và khẳng định thêm những thành tựu, giá trị của văn học 1975- 1985 nói
chung và của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng.
Hơn nữa, hiện nay, học sinh trung học phổ thông đã tiếp xúc với tác
phẩm chứa đựng những vấn đề thế sự trong văn xuôi thời kì hậu chiến. Việc
nghiên cứu khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 chính
là cơ hội để tác giả luận văn mở rộng diện tư liệu tham khảo, bổ sung kiến
thức làm giàu vốn văn học của bản thân và rèn luyện các thao tác nghiên cứu
khoa học cũng như một số kĩ năng phân tích, thẩm bình tác phẩm…Đó là
những công việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với một giáo viên dạy
Văn sống trong xã hội hiện đại, học sinh luôn được tiếp cận với kiến thức từ
nhiều nguồn phương tiện thông tin đại chúng và nhất là trong cơ chế đổi mới
phương pháp dạy- học văn trong nhà trường như hiện nay.
Với những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khuynh
hướng thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975- 1985” để nghiên

cứu. Tác giả luận văn không kì vọng nhiều chỉ mong muốn góp một phần nhỏ
bé vào công việc nghiên cứu một phương diện trong một giai đoạn văn học
quan trọng của nền văn học nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến có đề cập đến khuynh hướng thế
sự trong văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng.
Mười năm sau chiến tranh, văn xuôi được đánh giá là loại hình văn học
phát triển và có những thành tựu đáng kể ở cả thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
và ký. Chính vì thế, giai đoạn này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình văn học. Chúng tôi nhận thấy có khá nhiều ý kiến, bài
viết nghiên cứu về văn xuôi sau 1975 nói chung, về tiểu thuyết 1975- 1985
nói riêng trong đó có đề cập đến khuynh hướng thế sự. Những bài viết đó tập
trung ở các công trình như: Văn học 1975- 1985, tác phẩm và dư luận (Nxb
Hội nhà văn, 1997), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, những vấn đề lịch sử và lí
luận (Nxb Giáo dục, 2004), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy (Nxb Giáo dục, 2009)
Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam từ sau 1975”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long đã phân loại văn xuôi
thành các khuynh hướng chính là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng
nhận thức lại, khuynh hướng thế sự đời tư và khuynh hướng triết luận.
Đồng thời, tác giả cũng phác họa những nét lớn của sự đổi mới biểu hiện qua
sự mở rộng quan niệm về hiện thực, sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con
người, đổi mới nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ, giọng điệu. Từ đó, nhà
nghiên cứu đã đặt ra vấn đề rất có ý nghĩa là muốn hình dung chính xác và
đầy đủ về diện mạo và đặc điểm của văn xuôi thì còn cần làm rõ hơn các

khuynh hướng, các thể tài, các mảng đề tài lớn với cái mới mà nó đem lại cho
văn xuôi ba mươi năm qua [48\22]. Đây là bài viết có ý nghĩa khái quát toàn
cảnh văn học Việt Nam sau 1975, trong đó có tiểu thuyết. Đặc biệt, tác giả bài
viết đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu các khuynh hướng cụ
thể để thấy được diện mạo phong phú của văn học sau 75. Bài viết này chính
là một gợi ý quan trọng để chúng tôi đi đến lựa chọn đề tài này.
Riêng đối với tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985, tác giả Nguyễn Thị Bình
cho rằng giai đoạn 1975- 1985, tiểu thuyết vừa mở rộng đề tài vừa cố cưỡng
lại từ trường của tiểu thuyết sử thi để gia tăng chất đời tư và thế sự [10\50].
Vì thế, bên cạnh cảm hứng ngợi ca, tiểu thuyết giai đoạn này đã xuất hiện
cảm hứng phê phán, góc độ quan sát, đánh giá con người cũng dịch chuyển
dần về phía đạo đức sinh hoạt.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 khá nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ điểm
qua tình hình nghiên cứu một số tiểu thuyết viết theo khuynh hướng thế sự
của một số tác giả tiêu biểu. Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất của
giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma
Văn Kháng…Bởi họ là những người đã đi tiên phong trong công cuộc đổi
mới văn học. Sáng tác của họ đã thể hiện sự bứt phá ngoạn mục trong hoàn
cảnh đất nước có vô vàn những khó khăn chồng chất, trong giai đoạn văn học
cũng đang tìm hướng khám phá cho phù hợp với thời đại mới. Với sự sôi nổi,
xông xáo, không né tránh, không ngại sợ, những cây bút này đã gây được
những tiếng vang trong dư luận và làm sôi nổi đời sống văn học. Vì thế, họ đã
góp phần đáng kể cho việc chuẩn bị công cuộc đổi mới văn học sẽ diễn ra
chính thức vào nửa sau những năm 80.
Tuy nhiên,với Nguyễn Minh Châu- người mở đường tinh anh và tài hoa,

khuynh hướng thế sự đã nhen nhóm trong tiểu thuyết giai đoạn này song lại thể
hiện nổi bật hơn cả ở hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành” và “Bến quê”. Với các tác giả như Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải, Ma
Văn Kháng,…khuynh hướng thế sự biểu hiện rõ rệt trong tiểu thuyết của họ.
Chúng tôi nhận thấy những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất
nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là ý kiến của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các
nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Thiếu
Mai, Hoàng Như Mai, Lã Nguyên, Tôn Phương Lan, Lê Kim Vinh, Huỳnh Như
Phương, Nguyễn Tri Nguyên, Vũ Quần Phương, Trần Đăng Suyền, Trần Cương,
Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Nguyên Ngọc, Vương Trí Nhàn, Đỗ
Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Long, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn
Bích Thu… Sự tiếp cận, đánh giá của các nhà nghiên cứu cũng rất đa dạng. Có ý
kiến khen ở mặt này nhưng chê ở mặt khác. Nhưng các ý kiến đều thừa nhận
sáng tác của những nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma
Văn Kháng… đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lí, báo trước khả năng tự đổi


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ, bất chấp trở
lực ngăn cản [29\343].
Qủa thực, là những người đi tiên phong trong hành trình đổi mới, các tác
giả trên đã có nhiều đóng góp tích cực tạo nên những chuyển biến rõ rệt của văn
học nhưng cũng khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù vậy,
những nỗ lực của họ đã được ghi nhận và không ai có thể phủ nhận công lao
khai phá, mở đường của họ trong một chặng đường mới của văn học nước nhà.
Như vậy, qua các bài nghiên cứu, bài báo, chúng ta có thể thấy văn xuôi
sau 1975 nói chung, tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng có sự xuất hiện khá nổi
bật của khuynh hướng thế sự. Vấn đề là phải đi sâu nghiên cứu làm rõ những

biểu hiện của khuynh hướng này để có một cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn
về văn học chặng đường tiền trạm của thời kì đổi mới.
2.2. Những luận án, luận văn có đề cập đến khuynh hướng thế sự trong
văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết 1975- 1985 nói riêng.
Bên cạnh các cuốn sách, bài báo, có một số luận án, luận văn, công trình
khoa học khi nghiên cứu về văn xuôi sau 75 hoặc một số tác giả tiêu biểu của
giai đoạn này đã đề cập đến khuynh hướng thế sự. Tiêu biểu là: Luận án
“Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975- Khảo sát trên
nét lớn” (tác giả Nguyễn Thị Bình, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1996), luận văn
“Bước đầu tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn” (tác giả Nguyễn Quốc
Khánh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 198?), công trình khoa học “Đặc điểm văn
xuôi nghệ thuật Việt Nam thời kì hậu chiến 1975- 1985” (tác giả Ngô Thu
Thuỷ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2011)…
Tìm hiểu luận án “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau
1975- Khảo sát trên nét lớn” của tác giả Nguyễn Thị Bình (Đại học Sư phạm
Hà Nội, 1996), chúng tôi nhận thấy tác giả đã chỉ ra những đổi mới của văn
xuôi nghệ thuật trên các phương diện. Theo tác giả, văn xuôi sau 75 đã
chuyển từ quan niệm con người theo kiểu sử thi sang quan niệm về con người


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
kiểu thế sự, đời tư, con người cá nhân phức tạp và bí ẩn. Thể loại văn học thời
kì này có xu hướng nhạt dần chất sử thi, tăng dần chất tiểu thuyết, ngôn ngữ
gần với hiện thực đời thường Có thể nói, luận án đã góp một tiếng nói có
căn cứ thực tiễn vào cuộc đối thoại dân chủ về văn học sau 1975, bổ sung
thêm vốn tư liệu quý báu về văn học giai đoạn này và góp phần tìm hiểu để đi
tới xác lập những tiêu chí phù hợp với sự phát triển của văn học trong giai
đoạn cách mạng mới.

Ở phạm vi hẹp hơn, trong luận văn “Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm
tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn” (Đại học Sư phạm Hà Nội, 198?), tác giả
Nguyễn Quốc Khánh đã giúp chúng ta nhận thấy những đổi mới cơ bản của
tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn so với tiểu thuyết giai đoạn trước. Đó là tác
giả đã đi thẳng vào những vấn đề thời sự nóng bỏng của đời sống. Ngôn ngữ
tiểu thuyết của ông thì đơn giản, dễ hiểu nhưng cũng giàu tính chất triết
luận…Đây chính là những biểu hiện của tiểu thuyết sáng tác theo khuynh
hướng thế sự. Sự nghiên cứu về một tác giả như thế chính là một minh chứng
cụ thể nhất cho thấy rõ sự chuyển biến sâu sắc của văn học giai đoạn này.
Có thể nói, những luận án, luận văn, công trình khoa học của những
người đi trước bước đầu đã hé mở cho thấy sự chuyển biến của văn học từ
khuynh hướng sử thi sang khuynh hướng thế sự. Những nghiên cứu này chính
là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi đi sâu nghiên cứu làm rõ hơn những
biểu hiện và những thành tựu của khuynh hướng thế sự trong chặng đường
đầu của văn học thời kì đổi mới qua một thể loại tiêu biểu.
Như vậy, qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn
sách, các bài báo, các ý kiến trong cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo
và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi nhận thấy nhìn chung việc nghiên
cứu tiểu thuyết 1975- 1985 đã lật xới lên được nhiều vấn đề, đặc biệt các bài
viết đã có đề cập đến sự xuất hiện của vấn đề thế sự trong tiểu thuyết giai
đoạn 1975- 1985 nói chung và trong các tác phẩm cụ thể của một số tác giả


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
tiêu biểu nói riêng. Tuy nhiên, các ý kiến khi nhắc đến khuynh hướng thế sự
trong tiểu thuyết mới chỉ dừng lại ở mức điểm báo hoặc những phác thảo sơ
bộ. Có thể nói, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc
khuynh hướng thế sự trong tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985.

Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi
trước, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Khuynh hướng thế sự trong
tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi
đặt trọng tâm nghiên cứu những đặc điểm, các dạng thức nghệ thuật cũng như
những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết sáng tác theo khuynh hướng thế sự
qua một số tác giả tiêu biểu. Bên cạnh đó, chúng tôi có so sánh với giai đoạn
trước để làm nổi bật hơn những biểu hiện đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn
này trong tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại.
3. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu các đặc điểm, những dạng thức nghệ thuật cũng
như những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết thuộc khuynh hướng thế sự
giai đoạn 1975- 1985. Từ đó thấy được sự vận động của tiểu thuyết sau chiến
tranh trong bức tranh chung của tiểu thuyết hiện đại.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát các tiểu thuyết trong giai đoạn từ 1975- 1985.
Nhưng số lượng tiểu thuyết trong khoảng mười năm này khá nhiều, luận văn sẽ
không thể bao quát hết được. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn
thống kê, nghiên cứu những tiểu thuyết giai đoạn 1975- 1985 của một số tác
giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho văn xuôi cũng như tiểu thuyết
sáng tác theo khuynh hướng thế sự như: Nguyễn Minh Châu, nhất là Nguyễn
Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng…Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự
khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào một
đặc điểm của tiểu thuyết trong giai đoạn khá phong phú và phức tạp này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Đóng góp của luận văn
Với những phát hiện, nghiên cứu này, người viết hy vọng kết quả của đề
tài sẽ góp phần thuận lợi cho việc tìm hiểu khuynh hướng thế sự trong tiểu
thuyết giai đoạn 1975- 1985 đối với giới giáo viên phổ thông, sinh viên, học
sinh và phần nào gợi ý cho người đọc yêu thích tiểu thuyết Việt Nam hiểu
hơn một giai đoạn của tiểu thuyết nước nhà. Hy vọng rằng, luận văn này sẽ
trở thành một tư liệu hữu ích cho tất cả những ai quan tâm đến tiểu thuyết
Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 nói riêng, tiểu thuyết Việt Nam nói chung.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương:
Chương 1: Tiền đề lịch sử thẩm mĩ nảy sinh khuynh hướng thế sự.
Chương 2: Đặc điểm và những dạng thức nghệ thuật của khuynh hướng
thế sự.
Chương 3: Những thành tựu nghệ thuật tiêu biểu.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ THẨM MỸ NẢY SINH KHUYNH HƢỚNG
THẾ SỰ
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội.
1.1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh.

Với đại thắng mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
oanh liệt của dân tộc ta đã giành được thắng lợi rực rỡ. Từ đây, đất nước
thống nhất, bắt đầu bước vào thời kì khôi phục và phát triển. Nhưng ngay sau
niềm vui chiến thắng, dân tộc ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử
thách do hai cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài trong lịch sử dân tộc để lại.
Ở cả hai miền Nam- Bắc, hậu quả của chiến tranh để lại rất nặng nề và
kéo dài. Chiến tranh đã tàn phá hầu như tất cả các thành phố, đô thị và hàng
nghìn làng xóm, các tuyến đường giao thông, bến cảng ở miền Bắc. Nhiều
vùng rộng lớn ở miền Nam, nhất là những nơi diễn ra các chiến dịch quân sự
cũng bị hủy hoại nghiêm trọng trở thành những miền đất cháy, đất chết. Hơn
nữa, quân xâm lược tàn ác còn thả xuống hàng triệu tấn bom đạn và những
chất khai quang, diệt cỏ có chứa một lượng lớn chất độc điôxin xuống đất
nước ta. Điều đó đã để lại di chứng nặng nề cho các thế hệ sau.
Bên cạnh đó, chiến tranh kéo dài làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã lạc
hậu, thấp kém lại càng kiệt quệ và tụt hậu trong khu vực. Nước ta rơi vào tình
trạng những nước có bình quân thu nhập theo đầu người thấp nhất thế giới.
Cơ chế quản lý kinh tế thì ngày càng bộc lộ rõ hơn những bất cập. Quan hệ
sản xuất ngày càng khủng hoảng. Thêm vào đó là hậu quả của những chính
sách kinh tế nặng nề về duy ý chí, chủ quan nóng vội.
Mặt khác, chúng ta còn phải đối mặt với hàng loạt các khó khăn khác
như thiên tai, dịch bệnh, các tệ nạn xã hội do chế độ thức dân mới của Mĩ để
lại… Ngoài ra, tình trạng mù chữ và nạn thất nghiệp đã trở thành vấn nạn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
trong xã hội. Ở Sài Gòn, số người mù chữ chiếm tỉ lệ lớn trong cư dân, đội
ngũ thất nghiệp có lúc lên đến 1.500.000 người. Cùng với những khó khăn
của thời kì hậu chiến, chúng ta lại phải đối mặt với chính sách cấm vận, cô lập

Việt Nam và sự chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cuộc
chiến tranh giải phóng đã kết thúc nhưng tiếng súng vẫn nổ ra ở biên giới phía
Bắc và Tây Nam của Tổ quốc. Chiến trường Campuchia vẫn còn những cuộc
tàn sát đẫm máu.
Những khó khăn chồng chất đó đã đẩy nước ta rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế- xã hội nặng nề, nhất là ở nửa đầu những năm 80. Đến giữa
thập kỉ đó thì sự khủng hoảng ngày càng trở nên trầm trọng. Nhà văn Nguyễn
Khải nhận xét hiện trạng xã hội lúc này là: ngổn ngang, bề bộn bóng tối và
ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động bất ngờ [38/70].
Có thể nói, cuộc chiến tranh đã khép lại nhưng một chiến trường mới lập
tức mở ra trên chiến trường cũ. Nhiệm vụ của dân tộc ta lúc này là hết sức
nặng nề như nhà văn Nguyễn Minh Châu phát biểu: Bước ra khỏi một cuộc
chiến tranh cũng cần thiết phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào
một cuộc chiến tranh [13\120]. Toàn Đảng, toàn dân ta đã xác định cần phải
nỗ lực chung sức chung lòng đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách để
xây dựng, gìn giữ và bảo vệ đất nước.
1.1.2. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, hoàn thành
thống nhất về mặt nhà nước, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh đã đi qua nhưng mất mát, đau thương thì vẫn còn ở lại. Việc
khắc phục hậu quả của hai cuộc chiến tranh, khôi phục kinh tế, hơn nữa cần
hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
hoàn cảnh muôn vàn khó khăn như nước ta không phải là một công việc đơn
giản. Nhưng đó là yêu cầu cấp bách để nhân dân ta gìn giữ nền độc lập và xây
dựng, phát triển đất nước của mình.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách của thời hậu chiến và
những yếu tố khác như thời tiết thất thường, thiên tai dồn dập…nhưng miền


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng: nhiều xí nghiệp, công trình, nhà
máy được xây dựng và mở rộng thêm, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng
nhanh qua các năm, diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp được mở
rộng, đội ngũ cán bộ và công nhân kĩ thuật ngày càng đông đảo…
Ở miền Nam, công việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến
hành khẩn trương và đạt kết quả tốt. Đồng thời,chính quyền đã làm tốt công
tác ổn định cuộc sống, giải quyết công ăn việc làm, khôi phục sản xuất…để
đáp ứng nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của nhân dân. Các hoạt động
văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Những biểu
hiện của văn hóa phản động, đồi trụy, những tệ nạn xã hội…bị nghiêm cấm
và bị bài trừ. Các hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh và lan rộng.
Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng. Các công tác vệ sinh phòng bệnh và
hoạt động thể dục thể thao được phát động rộng rãi trong quần chúng.
Ngoài việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, nhiệm vụ
quan trọng của đất nước ta lúc này là cần hoàn thành việc thống nhất đất nước
về mặt nhà nước. Chúng ta đã giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt. Nhưng về mặt thể chế chính trị,
chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Nhận thức được điều đó, vào
tháng 9- 1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động
Việt Nam đã nhấn mạnh thống nhất đất nước là nguyện vọng tha thiết của
nhân dân cả nước, đồng thời hợp với quy luật khách quan của sự phát triển
cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì thế, ngày 25-4-1976,
cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước. Cuối
tháng 6 đầu tháng 7-1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được gọi
là Quốc hội khóa VI đã họp kì đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định
nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kì đổi mới. Với kết quả của
kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà
nước đã hoàn thành. Từ đây việc tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện
những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước.
Tiếp đó, các Đại hội toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong các năm 1976, 1982 đã vạch ra những đường lối để đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc thực hiện các kế hoạch Nhà nước 5
năm 1976- 1980 và 1981- 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đã đạt
được những thành tựu nhất định ở nhiều mặt tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều
hạn chế, bất cập. Vì thế, cuộc sống sau chiến tranh vẫn vận hành một cách khó
nhọc, đầy khó khăn, phức tạp. Kinh tế vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đời
sống của nhân dân vẫn còn bộn bề những khó khăn. Nhiều lao động chưa có
việc làm. Mặt khác, trong xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Một số
cán bộ có hành vi lộng quyền, tham nhũng nhưng chưa bị trừng trị nghiêm
khắc, kịp thời. Công bằng xã hội bị vi phạm. Tất cả những điều ấy đã tác động
sâu sắc và làm lay động dữ dội suy nghĩ và và niềm tin của mọi tầng lớp nhân
dân. Quả thực, Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của
nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những
gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong
chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do
và độc lập [53/14].
Tất cả những thực tế gian nan của thời hậu chiến đã đè nặng lên cuộc
sống của nhân dân ta. Nhưng với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân
tộc đã có mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta vẫn kiên trì và
từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách để phát triển.
1.1.3. Đấu tranh bảo toàn lãnh thổ Tổ quốc.
Ba mươi năm chìm trong khói lửa chiến tranh ác liệt, đất nước vừa được
độc lập tự do, nhân dân ta chưa được tận hưởng niềm vui chiến thắng lại phải

đối mặt với những cuộc xâm lược mới.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Do có âm mưu từ trước, từ tháng 5-1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng
Xari, đại diện cho phái “Khơ me đỏ” ở Campuchia đã đổ bộ xâm lược nhiều
vùng lãnh thổ Việt Nam. Từ những cuộc xung đột vũ trang lẻ tẻ, chúng dần
thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây- Nam nước ta. Với
thiện chí hòa bình, chúng ta đã chủ động đưa ra những đề nghị để thương lượng
nhưng chúng vẫn tiếp tục tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thực hiện quyền tự vệ
chính đáng của mình, quân và dân ta đã tổ chức những cuộc phản công và tiến
công mạnh, tiêu diệt toàn bộ quân xâm lược. Cuộc tiến công quy mô lớn của tập
đoàn Pôn Pốt hoàn toàn bị đập tan. Đến năm 1978, hòa bình đã lập lại trên biên
giới Tây- Nam của Tổ quốc. Không những thế, chiến thắng của quân và dân ta
còn tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi ròn rã.
Tiếp đó, ở biên giới phía Bắc, chúng ta lại phải đối mặt với những hành
động phá vỡ quan hệ giữa hai nước của Trung Quốc như: cho quân khiêu khích
quân sự dọc biên giới nước ta, cắt viện trợ, rút chuyên gia. Nghiêm trọng hơn,
vào ngày 17-2-1979, Trung Quốc đã đã mở cuộc tiến công nước ta dọc biên
giới phía Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu). Để bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía
Bắc đã chiến đấu quyết liệt buộc Trung Quốc phải rút quân về nước.
Kết thúc hai cuộc chiến tranh biên giới, nước ta đã được bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ. Nhưng chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác với những âm mưu, thủ
đoạn và những hành động chống phá cách mạng của kẻ thù.
Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước mười năm sau chiến tranh
chứa đựng rất nhiều những phức tạp. Sự phức tạp ấy đã tác động sâu sắc tới
đời sống của văn học nước nhà, đòi hỏi văn học phải có sự vận động, thay đổi

cho phù hợp với thời đại mới.
1.2. Bối cảnh văn học.
Dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước ta. Rời bỏ
cuộc sống bất bình thường của chiến tranh, chúng ta trở lại cuộc sống bình


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
thường của thời bình với bao mới mẻ, bỡ ngỡ. Hòa chung vào không khí của
cả dân tộc, văn học cũng đã có sự vận động, biến đổi để theo sát những vấn đề
nóng bỏng của đời sống.
Thời chiến tranh, do yêu cầu của lịch sử, văn học chủ yếu mang khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bởi lẽ, là con đẻ của cách mạng và
những cuộc chiến tranh lớn, văn học trước 1975 không thể không mang
những đặc điểm của văn học thời chiến. Chiến tranh và cách mạng bao giờ
cũng có nhu cầu đặt lên trên hết vấn đề chúng ta và chúng nó, vấn đề cộng
đồng dân tộc và lịch sử [29/340].
Khuynh hướng sử thi đã chi phối hầu hết các sáng tác thuộc đủ mọi thể
loại văn học. Nó không chỉ thể hiện trong tiểu thuyết mà còn ở truyện ngắn và
kí. Nó cũng thấm sâu vào thơ trữ tình, vào kịch bản sân khấu. Khuynh hướng
sử thi chi phối tới việc lựa chọn đề tài, chủ đề, xây dựng hình tượng nhân vật
và thậm chí chi phối cả đặc điểm kết cấu tác phẩm, nghệ thuật trần thuật trong
văn xuôi và cái tôi trữ tình trong thơ.
Đấy là thời kì văn học của những vấn đề, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử,
của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng. Vận mệnh của Tổ quốc đang
đứng trước những thử thách gay gắt. Cả dân tộc muôn người như một sát cánh
bên nhau trong cuộc chiến đấu vì lí tưởng chung của cả dân tộc. Vì thế, nền văn
học của giai đoạn lịch sử ấy không thể là tiếng nói của những số phận cá nhân
mà phải là tiếng nói của cả cộng đồng dân tộc và nhân dân. Những chủ đề bao

trùm trong văn học thời kì ấy phải là những vấn đề về vận mệnh của cộng đồng.
Hiện thực mà văn học phản ánh phải là hiện thực lịch sử của cả dân tộc.
Sau 1975, đất nước bước sang một thời kì mới. Nhưng nền văn học về
cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật , những cảm hứng chủ đạo
trong chiến tranh. Sự chạy theo quán tính này của văn học đã dẫn đến tình
trạng người đọc quay lưng lại với sáng tác hiện tại. Mối quan hệ máu thịt vốn
rất thắm thiết giữa văn học và công chúng lạnh nhạt và hụt hẫng hẳn. Nhà văn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Nguyên Ngọc có lúc đã thừa nhận rằng, càng viết tay nghề càng cao nhưng
những trang văn của ông thì ngày càng mất độc giả. Quả thực, đúng như nhà
văn Nguyên Ngọc đánh giá, đây chính là khoảng chân không trong văn học.
Đến những năm đầu thập kỉ 80, tình hình kinh tế xã hội đất nước đứng
trước những khó khăn chồng chất và ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Điều
đó đã tác động sâu sắc tới đời sống văn học. Lúc này, nền văn học chững lại
và không ít người rơi vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng
sáng tác. Nguyên nhân dần dần được làm sáng tỏ: Ý thức nghệ thuật của số
đông người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp thời so với sự thay đổi
lớn lao của thực tiễn đất nước. Những cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc
trong thời kì trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người
đọc. Bởi trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, con người tạm quên đi
cuộc sống cá nhân, riêng tư của mình để chiến đấu cho lí tưởng chung của cả
dân tộc thì hòa bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường với
biết bao phồn tạp, muôn vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài…Ý thức cá nhân
với mọi nhu cầu của con người như một cá thể, một thực thể sống đã được
thức tỉnh trở lại. Cuộc sống, con người đã đổi thay nhưng văn học lại vẫn giữ
nguyên trên mình bộ quần áo cũ. Vì thế, văn học cần có một sự đổi mới để

phù hợp với xu hướng mới của thời đại.
Trong bối cảnh ấy, văn học đã trải qua những trăn trở vật vã, tìm tòi
thầm lặng cho một cuộc chuyển mình. Sự chuyển đổi ấy còn xuất phát từ yêu
cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở
một trình độ mới để tạo cho văn học một diện mạo mới.
Sự vận động của văn học giai đoạn này thể hiện trên nhiều phương diện
nhưng trước tiên phải kể đến là sự chuyển đổi về khuynh hướng sáng tác.
Khuynh hướng sử thi tiếp tục mạch chảy của nó trong một số sáng tác, tuy
nhiên càng về sau, khuynh hướng này càng có xu hướng thu hẹp lại nhường
chỗ cho sự phát triển của khuynh hướng thế sự. Đến đầu những năm 80,
khuynh hướng thế sự dần trở thành khuynh hướng chính trong văn học.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Ngay sau ngày giải phóng, một số nhà văn, nhà thơ đã quan tâm đến
các vấn đề thế sự. Nhà văn Thái Bá Lợi là một ví dụ. Với Hai người trở lại
trung đoàn (1976), Thái Bá Lợi chính là người mở đường báo hiệu cuộc đấu
tranh phức tạp chống lại sự xói mòn đạo đức của con người. Nhà văn Nguyên
Ngọc nhận xét tác phẩm này đã báo hiệu tuy còn mơ hồ về một cái gì như là
mầm mống, một thứ tiền thân của một kiểu người cơ hội chủ nghĩa, một trong
những kiểu người vừa khó nhận dạng vừa rất nguy hiểm, và cũng có ý nghĩa
báo hiệu cuộc đấu tranh phức tạp chống các loại tiêu cực đó. Đây không phải
là sự thất tín trừu tượng mà là sự khô chết của tâm hồn trước cám dỗ của
quyền lực và vật chất, là sự thờ ơ trước số phận của bạn hữu [52]. Nhưng
người “mở đường tinh anh và tài năng” đã đi được xa nhất ở chặng đầu này
phải kể đến là Nguyễn Minh Châu. Hai cuốn tiểu thuyết Miền cháy và Lửa từ
những ngôi nhà cùng xuất bản năm 1977 của Nguyễn Minh Châu đã mang
đến một sắc diện mới trong sáng tác của nhà văn. Hai cuốn tiểu thuyết này có

thể coi là những cố gắng đầu tiên của Nguyễn Minh Châu để chuyển hướng
ngòi bút của mình và tạo một bước đà quan trọng để nhà văn có những bứt
phá ngoạn mục qua một loạt những truyện ngắn hướng vào các vấn đề thế sự-
đạo đức trong những năm sau đó. Ngoài ra, góp phần tạo nên chuyển động
theo hướng mới của văn học những năm này còn phải kể đến những sáng tác
văn xuôi của các tác giả như Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn
Kháng, Dương Thu Hương; thơ của Nguyễn Duy, Ý Nhi; trường ca của
Thanh Thảo; kịch của Lưu Quang Vũ, Xuân Trình…Những tác giả này đã có
sự tìm tòi, đổi mới và gặt hái được những thành tựu quan trọng. Thành công
bước đầu ấy đã mở ra cho văn học những hướng tiếp cận mới với hiện thực
nhiều mặt, nhất là cái hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức- thế sự
đang nổi cộm đòi hỏi văn học phải nhận thức, khám phá.
Có thể nói, những cây bút trên với bản lĩnh và trách nhiệm của mình đã
đi tiên phong trong quá trình đổi mới văn học. Sáng tác của họ đã rút dần


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
khoảng cách khá xa giữa văn học và đời sống, giữa tác phẩm và công chúng,
đồng thời chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến của văn học khi bước vào
thời kì đổi mới.
1.3. Nhu cầu nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực văn học.
Văn học Việt Nam từ 1945- 1975 đã hoàn thành sứ mệnh của một nền
văn học cách mạng hướng về đại chúng nhân dân, cổ vũ chiến đấu. Đó là nền
văn học theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nền văn học sử thi
của ba mươi năm ấy là một giai đoạn có tính đặc thù và đã đóng góp được
những thành tựu to lớn cho sự phát triển nền văn học dân tộc.
Nhưng từ sau 1975, cuộc sống mới đặt ra nhiều vấn đề phức tạp của thời
hậu chiến đòi hỏi nhà văn nói riêng và người nghệ sỹ nói riêng phải nhạy bén,

nắm bắt, khám phá và phản ánh kịp thời. Vấn đề cấp bách đặt ra lúc này là
văn học phải vận động, chuyển mình để phù hợp với thời đại.
Vào cuối những năm 70 đã xuất hiện nhu cầu nhìn lại giai đoạn văn học
trước đó, chỉ ra những giới hạn của nó và đã manh nha hình thành những
bước đi mới. Trước hết, đề tài chiến tranh vẫn thu hút sự chú ý của giới cầm
bút và công chúng bạn đọc nhưng các tác giả đã có những tìm tòi hướng khai
thác mới. Chẳng hạn, trong bộ tiểu thuyết hai tập Đất trắng (1979), Nguyễn
Trọng Oánh đã gây được sự chú ý trong dư luận khi một mặt tái hiện được
một giai đoạn đầy khó khăn, gian khổ của thời kì sau cuộc Tổng tiến công
năm Mậu Thân (1968), mặt khác, quan trọng hơn, tác giả đã chú ý diễn tả
những tác động nhiều mặt của hoàn cảnh chiến tranh đến tính cách và con
đường đi của các nhân vật, kể cả những tác động tiêu cực. Quan sát văn học
viết về đề tài chiến tranh sau 75 chúng tôi nhận thấy, nhu cầu nhìn lại nền văn
học thời chiến tranh để đánh giá đúng những thành công và nhất là chỉ ra
những hạn chế của nó để vượt qua đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà
văn, nhà lí luận phê bình văn học. Nhu cầu đổi mới văn học đã dần trở thành
đòi hỏi chung của cả giới sáng tác, lí luận và cả công chúng yêu văn học.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Bằng những tìm tòi, thể nghiệm trên cả sáng tác và hoạt động lí luận, phê
bình, văn học đã hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới, trên cơ sở
đổi mới toàn diện các quan niệm về văn chương, về công chúng văn học.
Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của quan niệm văn học trước đó vốn xem là
những chân lí hiển nhiên thì bây giờ cũng đòi hỏi phải được xem xét lại.
Nhiều vấn đề đã trở thành đề tài tranh cãi, bàn thảo khá sôi nổi cả trong và
ngoài giới văn học như: Văn học và hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa…

Mặt khác, tình hình đất nước sau chiến tranh đã thay đổi. Vì thế, nhu cầu
khám phá, phản ánh hiện thực đời sống xã hội sau 1975 đòi hỏi văn học cần
phải có sự thay đổi cách nhìn nhận, khám phá và phản ánh hiện thực phù hợp
với yêu cầu mới của đời sống và công chúng tiếp nhận. Bởi lẽ, mỗi nền văn
học, mỗi giai đoạn văn học đều có những hiện thực lớn, bao trùm, thu hút sự
quan tâm của xã hội nói chung và của nhà văn nói riêng.
Trước 1975, hiện thực lớn nhất, bao trùm văn học chính là đời sống chính
trị- xã hội. Trong đó, cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội là những mảng hiện thực tập hợp những sự kiện, những diễn
biến quan trọng nhất của đời sống xã hội, thể hiện những nét bản chất nhất của
thời kì lịch sử đó. Trong hiện thực bao trùm đó, mỗi nhà văn tùy theo vốn sống
và sở trường của mình lại xây dựng cho mình một “vùng hiện thực”, một mảnh
đất riêng để khai thác, phản ánh. Nguyễn Khải, Chu Văn, Đào Vũ, Nguyễn
Kiên, Vũ Thị Thường…gắn bó với đề tài cuộc sống lao động xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc (đặc biệt là ở nông thôn). Nguyễn Thi, Anh Đức,
Phan Tứ, Nguyễn Minh Châu…lại say mê khai thác đề tài chiến tranh cách
mạng. Đó được coi là nguồn hiện thực phong phú, những „mảnh đất hứa hẹn”
“dâng sẵn, đón chờ” mỗi người nghệ sĩ. Dù ở đề tài nào, người đọc cũng đều
thấy tầm vóc vĩ đại của con người Việt Nam, đều thấy vẻ đẹp của một dân tộc
anh hùng, kiên cường, bất khuất. Như vậy, có thể thấy, trước 1975, hiện thực

×