Tải bản đầy đủ (.docx) (153 trang)

50 phán quyết trọng tài trong môn luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.09 KB, 153 trang )

PHÁN QUYẾT SỐ 1
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN
TÍNH ĐỘC LẬP CỦA ĐIỀU KHOẢN TRỌNG TÀI
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Đức
Bị đơn : Người mua Rumani
Các vấn đề được đề cập:
 Điều khoản trọng tài
 Ảnh hưởng của điều khoản bảo lưu tới hiệu lực của hợp đồng và của điều khoản trọng tài
Tóm tắt vụ việc:
HỢP TÁC LÀM PHIM
Nguyên đơn và Bị đơn đã ký một Thoả thuận (hợp đồng) trong đó có chứa một điều khoản bảo lưu với nội dung như sau
"Thoả thuận này sẽ có giá trị sau khi thư tín dụng được mở".
Bị đơn, sau khi có được bảo lãnh của Chính phủ để mở thư tín dụng, đã yêu cầu Nguyên đơn giao hàng ngay trước khi thư tín
dụng được mở. Nguyên đơn đã thực hiện việc giao hàng theo yêu cầu này của Bị đơn.
Sau khi đã thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ trong hợp đồng mà chỉ được thanh toán một phần tiền hàng, Nguyên đơn đã khởi
kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn thanh toán nốt số tiền còn lại.
Bị đơn không chấp nhận thẩm quyền của trọng tài với lập luận rằng vì điều khoản bảo lưu (việc mở thư tín dụng) đã không
được thực hiện nên hợp đồng coi như chưa có hiệu lực và điều khoản trọng tài, vì thế, cũng không có hiệu lực.
Phán quyết của trọng tài:
Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong vụ kiện này là khi điều kiện bảo lưu quy định trong hợp đồng chính không được thoả
mãn, hợp đồng trở nên vô hiệu thì sự vô hiệu của hợp đồng có kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài hay không.
Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào
hợp đồng thương mại (như hợp đồng mua bán hàng hoá, mua bán bản quyền, vận chuyển ). Thực tế, điều khoản trọng tài có thể
được hiểu là "một hợp đồng trong một hợp đồng".
Chúng ta không nên lẫn lộn điều khoản trọng tài với hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới. Bởi đây là hai loại thoả thuận có đối
tượng pháp lý hoàn toàn khác nhau: Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp
phát sinh giữa các bên còn Hợp đồng chính quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các bên. Thông thường điều khoản trọng tài có một
mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Điều khoản này không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng chính.
Nói một cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng tới tiến trình tố tụng bằng trọng tài.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hợp đồng chính không có ảnh hưởng gì tới điều khoản trọng tài. Có những lý do vô


hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc sự không có năng lực trong ký kết
hợp đồng của các bên.
Về mặt pháp lý, Điều 343 Luật dân sự của Rumani (luật được chọn để điều chỉnh hợp đồng) có quy định: "Hiệu lực của điều
khoản trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng chứa đựng nó".
Thực tế, vấn đề hợp đồng chính trong vụ việc này có hiệu lực hay không cũng còn phải xem xét lại bởi theo thoả thuận mới
giữa hai bên (Bị đơn yêu cầu và Nguyên đơn chấp nhận yêu cầu đó), việc giao hàng được tiến hành trước khi thư tín dụng được
mở, tức là điều khoản bảo lưu không còn nữa. Tuy nhiên, trong vụ việc này uỷ ban trọng tài chỉ có nhiệm vụ xem xét xem điều
khoản trọng tài trong hợp đồng có hiệu lực hay không. Với lập luận rằng "vì thoả thuận trọng tài là một thoả thuận độc lập nên dù
hợp đồng chính bị tác động bởi điều khoản bảo lưu, thoả thuận này vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi điều khoản bảo lưu nói trên",
trọng tài quyết định mình có thẩm quyền giải quyết và bác yêu cầu của Bị đơn.
PHÁN QUYẾT SỐ 2
TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THIẾT BỊ HPA
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Đông Phi
Bị đơn : Người cung cấp Mỹ
Các vấn đề được đề cập:
 Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp hàng hóa không phù hợp quy cách phẩm chất
 Trách nhiệm hạn chế thiệt hại trong hợp đồng
 Điều khoản giải quyết tranh chấp bằng thương lượng
Tóm tắt vụ việc:
Để phục vụ cho việc vận hành một trạm vệ tinh mặt đất tại Đông Phi, tháng 4 năm 1978, Nguyên đơn, một công ty Đông Phi,
đã ký một hợp đồng mua, vận chuyển và lắp đặt một bộ khuyếch đại sóng cực ngắn (sau đây gọi tắt là "HPA") với Bị đơn, một nhà
cung cấp Mỹ. Hợp đồng quy định luật áp dụng là luật của bang California và mọi tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc tế tại Geneva.
Nguyên đơn ký “Bản Chấp Nhận” đối với hệ thống "HPA" tại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ vào tháng 6 năm 1979, sau đó tại
công trường tại nước Đông Phi.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, hệ thống "HPA" luôn gặp trục trặc và vào tháng 1 năm 1980, ngừng hoạt động. Kể từ đó,
mặc dù hai bên đã vài lần cố gắng sửa chữa tại Đông Phi, hệ thống HPA vẫn không thể hoạt động bình thường.
Nguyên nhân của việc hệ thống HPA liên tục bị hỏng là do việc lắp đặt không đúng thiết bị. Cụ thể, hệ thống cung cấp điện mà
HPA yêu cầu không phù hợp với hệ thống điện sẵn có tại hiện trường.

Cuối cùng vào tháng 4 năm 1981, các bên quyết định gửi hệ thống HPA trở lại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ. Tháng 5 năm 1981
Bị đơn đề nghị được sửa hệ thống HPA nhưng Nguyên đơn không chấp nhận. Hai bên cũng đã tiến hành thương lượng nhiều lần về
việc sửa chữa này nhưng không đạt kết quả. Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Nguyên đơn đã huỷ bỏ “Bản Chấp Nhận” hệ thống HPA
mà mình đã ký trước đây và mua một hệ thống HPA từ một nhà sản xuất khác để thay thế cho hệ thống HPA của Bị đơn.
Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn:
 Hoàn lại số tiền đã thanh toán theo hợp đồng,
 Bồi thường khoản chênh lệch giữa giá mua của hệ thống HPA cũ và hệ thống HPA thay thế,
 Bồi thường những thiệt hại ngẫu nhiên và những thiệt hại nhân quả kéo theo.
Phán quyết của trọng tài:
Vấn đề chủ yếu mà trọng tài cần xác định trong vụ việc này là liệu đây có phải là một trường hợp cung cấp hàng không đúng
phẩm chất, qui cách theo hợp đồng hay không.
Nguyên đơn khiếu nại đòi huỷ bỏ Bản Chấp nhận đối với hệ thống HPA, đối tượng của hợp đồng. Lý do Nguyên đơn (người
mua) nêu ra là tính không phù hợp của hàng hoá được giao với hàng hoá miêu tả trong hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài lập luận như sau:
Theo điều 2608 của Luật Thương Mại California, người mua có thể huỷ bỏ Hợp đồng của mình đối với một lô hàng hoặc một
đơn vị hàng hoá khi lô hàng đó được giao không đúng với quy cách phẩm chất quy định, gây thiệt hại lớn cho người mua trong
những trường hợp sau:
- Sự không phù hợp về quy cách phẩm chất đó có thể được khắc phục nhưng lại không được khắc phục một cách hợp lý.
- Người mua đã chấp nhận hàng hoá được giao mà không biết rằng chất lượng và quy cách hàng hoá không phù hợp với hợp
đồng do lỗi về chất lượng và quy cách này rất khó phát hiện khi nhận hàng giao hoặc do người bán đã có bảo đảm trước về chất
lượng hàng hoá.
Vấn đề cần làm rõ là liệu việc hệ thống HPA không hoạt động được tại hiện trường có được coi là sự không phù hợp của hệ
thống HPA với các quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng hay không. Và ngay cả trong trường hợp không phù hợp với hợp
đồng thì liệu đây có phải là một trường hợp được phép huỷ hợp đồng như qui định tại Điều 2608 hay không.
Theo các quy định của hợp đồng, nghĩa vụ hợp đồng của Bị đơn đối với hệ thống HPA không chỉ đơn thuần là bán và giao
hàng mà còn phải lắp đặt hệ thống HPA tại hiện trường. Mục A của hợp đồng qui định "Người bán có nghĩa vụ giao, lắp đặt và
kiểm tra tại hiện trường bộ khuyếch đại và quản lý, giám sát cũng như đốc thúc công việc cần phải thực hiện".
Uỷ ban trọng tài cho rằng nghĩa vụ lắp đặt tại hiện trường kéo theo trách nhiệm phải bảo đảm rằng hệ thống HPA sẽ được xây
lắp theo đúng quy cách phẩm chất cần thiết phù hợp với điều kiện thực tế tại công trường cho dù điều đó không được quy định cụ
thể trong phần B "Quy cách phẩm chất" của hợp đồng. Bởi vậy, vì không thiết kế được hệ thống HPA với những quy cách phẩm

chất cần thiết để vận hành được tại hiện trường, Bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Một vấn đề nữa là liệu Nguyên đơn có phải chia sẻ trách nhiệm với Bị đơn hay không, vì trong thời gian đàm phán Nguyên
đơn đã biết rằng hệ thống HPA phải phù hợp với hệ thống phân phối điện tại hiện trường và như thế mới có thể dễ dàng đáp ứng
được mọi quy cách phẩm chất quy định tại phần B của hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài thấy không cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này, vì trên thực tế, vào tháng 12 năm 1978, cụ thể là trong thời
gian thiết kế và xây dựng hệ thống HPA, ngay trước thời điểm chuyển giao, ông B, nhân viên điều hành chịu trách nhiệm về phần
sản xuất hệ thống HPA của Bị đơn, đã nhận được thông báo từ một trong các kỹ sư của mình tại hiện trường là tâm điểm được sử
dụng là tâm điểm khác với tâm điểm được thiết kế cho hệ thống HPA.
Uỷ ban trọng tài kết luận rằng việc hệ thống HPA không thể vận hành trong các điều kiện thực tế tại hiện trường cấu thành lỗi
"không phù hợp" và tạo thành lỗi trong hợp đồng của Bị đơn. Xét trên khía cạnh này, những quy định của điều 2608 của luật
thương mại California đã được đáp ứng. Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng những điều kiện pháp lý nêu tại điều 2608 của luật thương
mại California về huỷ bỏ Chấp nhận cũng được thỏa mãn.
Uỷ ban trọng tài kết luận rằng, Nguyên đơn được quyền huỷ bỏ Chấp nhận hệ thống HPA, được hoàn trả lại tiền đã thanh toán
và bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua một hệ thống HPA khác để thay thế. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên
đơn về các thiệt hại ngẫu nhiên và nhân quả kéo theo do Nguyên đơn đã không đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho các thiệt
hại này.
PHÁN QUYẾT SỐ 3
TRANH CHẤP VỀ TÍNH VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG ĐỔI HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Hai doanh nghiệp Nam Tư
Bị đơn : Một công ty Thụy Sĩ
Các vấn đề được đề cập:
 Luật áp dụng đối với Hợp đồng
 Tính vô hiệu của hợp đồng: do trái với tập quán, vi phạm chính sách chung
 Hậu quả của tính vô hiệu
Tóm tắt vụ việc:
Quan hệ phát sinh từ giao dịch giữa các bên đã được thiết lập thông qua việc đổi hàng hoá xuất khẩu từ Nam Tư để lấy hàng
hoá nhập khẩu khác. Thực chất chỉ Hợp đồng nhập khẩu là có thực, còn Hợp đồng xuất khẩu là không có thực vì mục đích của việc
thiết lập quan hệ này là nhằm thu được nguồn tài chính cần thiết và thực hiện việc quy đổi ngoại tệ để thanh toán hàng hoá nhập
khẩu. Trên thực tế, hàng hoá xuất khẩu đã được giao tại Nam Tư và được thanh toán bằng Franc Thuỵ Sỹ. Các Nguyên đơn (trong

đó có một doanh nghiệp đã phá sản) yêu cầu huỷ bỏ giao dịch và đòi bồi thường thiệt hại.
Phán quyết của trọng tài:
1. Luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên:
Theo Nguyên đơn, luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng, còn Bị đơn cho rằng luật Thuỵ Sỹ sẽ là luật áp dụng.
Theo đoạn 3 và 5, Điều 13 của Quy tắc Trọng tài Quốc tế ICC, các bên được tự do quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh
chấp. Trong trường hợp các bên không có bất kỳ thoả thuận nào về luật áp dụng thì Uỷ ban trọng tài sẽ chỉ định luật áp dụng theo
nguyên tắc mà Uỷ ban trọng tài cho là thích hợp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp Uỷ ban trọng tài phải tính đến các điều khoản
của hợp đồng và các tập quán thương mại.
Qui định này cũng được nêu trong Điều VII của Công ước Geneva về Trọng tài Thương mại Quốc tế ký ngày 21 tháng 4 năm
1961 và trong Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc Trọng tài Quốc tế UNCITRAL.
Về vấn đề này, hầu hết các học thuyết hiện nay về thẩm quyền của trọng tài và các án lệ trọng tài quốc tế đều thừa nhận rằng
trong việc xác định luật áp dụng, Uỷ ban trọng tài có thể bỏ qua các qui tắc luật xung đột và áp dụng trực tiếp các qui tắc luật thực
chất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các trọng tài viên được tự do lựa chọn luật áp dụng, được ưu tiên áp dụng luật này hay
luật khác. Việc lựa chọn luật của các trọng tài viên phải dựa trên các yếu tố khách quan như các điều khoản của hợp đồng liên
quan, các tập quán thương mại.
Ngoài ra, Trọng tài cũng phải căn cứ vào các qui tắc nêu trong bản dự thảo nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc
tế, một công trình nghiên cứu của Uỷ ban Thực tiễn Thương mại Quốc tế của ICC đưa ra tại Hội nghị Stockholm ngày 9 tháng 10
năm 1981.
Theo Điều 3 Công ước về Luật áp dụng đối với Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế ký tại La Haye ngày 15 tháng 6 năm
1955, hợp đồng mua bán được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà người bán có trụ sở thường trú tại thời điểm nhận được
đơn đặt hàng. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà bên mua có trụ sở chính, nếu như
đó là nơi mà người bán nhận đơn đặt hàng.
Các qui định tư pháp quốc tế của Thuỵ Sỹ, Pháp và Nam Tư vào thời điểm này cũng có những quy tắc tương tự trong việc xác
định luật áp dụng cho các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán: Vấn đề đầu tiên là phải xác định những điểm quan trọng nhất
khi thực hiện hợp đồng. Tiếp theo cần xác định lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ nhất với việc thực hiện hợp đồng, hoặc theo như
ý kiến của Toà án liên bang Thuỵ Sỹ, thì phải định ra "trung tâm" của Hợp đồng. Các yếu tố này sẽ là cơ sở chủ yếu để xác định
luật áp dụng đối với hợp đồng. Đây cũng là giải pháp đưa ra trong Công ước Châu Âu về Luật áp dụng đối với Nghĩa vụ hợp đồng
được các nước thành viên ký kết tại Rome, ngày 19 tháng 6 năm 1980.
Uỷ ban trọng tài cho rằng trong vụ việc này Nguyên đơn phải chịu sự điều chỉnh của luật Nam Tư đối với việc quản lý xuất
nhập khẩu. Luật này bao gồm các quy định chung về phạt tiền và thậm chí bị phạt tù theo như văn bản sửa đổi luật này và được áp

dụng cho bất cứ hợp đồng xuất nhập khẩu nào ở Nam Tư.
Ngoài ra, căn cứ vào các điều khoản ghi trong các chứng từ hợp đồng và thực tiễn thực hiện hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cho
rằng luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng là luật Nam Tư.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng xuất khẩu:
Trên thực tế, không hề có bất kỳ thông tin chi tiết nào về Hợp đồng xuất khẩu và các trọng tài viên đã đi đến kết luận rằng hợp
đồng này là không có thực và các bên đã vi phạm qui định về quy đổi ngoại tệ.
Uỷ ban trọng tài cho rằng:
"Về mặt nguyên tắc, những thoả thuận trái với qui định bắt buộc của luật hoặc trái với chính sách chung, trái đạo đức và tập
quán là không hợp lệ và vô hiệu. Điều này được qui định trong Điều 879 Luật Dân sự Áo, được áp dụng tại Croatia và Slovakia
năm 1974, cũng như được qui định trong Luật về Nghĩa vụ hợp đồng có hiệu lực từ năm 1978 của Nam Tư. Nguyên tắc này cũng
được tất cả các nước và các hệ thống pháp luật khác công nhận. Đây có thể coi là một yếu tố của luật hợp đồng được cộng đồng
quốc tế thừa nhận rộng rãi".
Trong vụ việc này, các bên đã ký kết một hợp đồng không có thực, vi phạm luật Nam Tư và thông qua việc dùng nhà xuất
khẩu không có thực để thu được một khoản tín dụng cũng không có thực. Vì vậy, tại thời điểm giao kết hợp đồng đã có vi phạm
luật, cũng như vi phạm đạo đức và trái với tập quán.
Ngoài ra, Điều 7 Hợp đồng xuất nhập khẩu ký kết giữa các bên qui định: "Toàn bộ các điều khoản nêu trên của hợp đồng này
là không thể tách rời và các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo hợp đồng".
Từ các lập luận trên, Uỷ ban trọng tài đi đến kết luận rằng: Hợp đồng xuất khẩu là không hợp lệ và vô hiệu.
Hệ quả của sự vô hiệu nói trên là hai hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cũng không hợp lệ và vô hiệu vì Điều 7 của hợp đồng gốc
qui định về tính thống nhất của các điều khoản trong hợp đồng (tức là sự thống nhất giữa các Hợp đồng nhập khẩu và xuất khẩu).
3. Hậu quả của việc hợp đồng vô hiệu:
Theo luật Nam Tư, Hợp đồng vô hiệu dẫn tới việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của các bên, có nghĩa là mỗi bên phải
hoàn lại những lợi ích mà họ đã nhận được từ hợp đồng, không đền bù thiệt hại, trừ khi có lợi ích bị vi phạm. Kết luận của Uỷ ban
trọng tài là hợp đồng nhập khẩu không hợp lệ và vô hiệu, hậu quả là một trong các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu mà
không có bất cứ bồi thường nào trừ khi lợi ích bị vi phạm.
Vấn đề tiếp theo là việc xác định khoản tiền mà Bị đơn phải hoàn trả.
Bị đơn sẽ phải hoàn trả khoản tiền tín dụng do Nguyên đơn mở là 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ.
Các Nguyên đơn còn thực hiện một số chi phí khác nhưng không mang lại lợi nhuận cho Bị đơn, vì vậy Bị đơn không phải
hoàn trả các chi phí này.
Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền bằng Franc Thuỵ Sỹ. Khoản tiền này trước đây do một trong các Nguyên đơn thanh toán cho

Bị đon tại Thuỵ Sỹ vì vậy các lợi ích bị vi phạm phải được tính theo tỷ giá áp dụng cho lãi suất áp dụng cho thanh toán quá hạn ở
Thuỵ Sỹ, tức là 5% theo Điều 104 Luật nghĩa vụ hợp đồng của Thuỵ Sỹ.
Như vậy các Nguyên đơn được quyền đòi Bị đơn bồi thường khoản lãi trên số tiền đã thanh toán cho Bị đơn tính từ ngày thực
hiện việc thanh toán với lãi suất là 5%.
Phán quyết của Uỷ ban trọng tài như sau:
 Hợp đồng gốc và ba hợp đồng liên quan là không hợp lệ và vô hiệu do vi phạm luật Nam Tư và trái với đạo đức và tập quán.
 Các Nguyên đơn phải tự chịu các chi phí gửi trả lại hàng hoá nhập khẩu mà Bị đơn đã giao cho họ tại nơi đăng ký trụ sở của
Bị đơn.
 Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn khoản tiền ứng trước 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ vào tài khoản theo thư tín dụng tại ngân
hàng X.
 Nguyên đơn có quyền hưởng lãi suất theo tỷ lệ 5% tính từ ngày đã trả tiền cho tới ngày Bị đơn thực hiện việc bồi hoàn.
 Mỗi bên phải thanh toán một nửa thù lao và phí trọng tài do Uỷ ban trọng tài quyết định.
PHÁN QUYẾT SỐ 4
TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG GIAO HÀNG DO BẤT KHẢ KHÁNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GỖ
Các bên:
Nguyên đơn : Bên mua Syri
Bị đơn : Bên bán Ghana
Các vấn đề được đề cập:
 Việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn
 Trường hợp bất khả kháng
 Việc Nguyên đơn từ chối hợp đồng
 Các thiệt hại (giá chênh lệch, mất lợi nhuận, các chi phí ngân hàng)
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 15 tháng 8 năm 1979, Nguyên đơn đã ký hợp đồng mua của Bị đơn 5000 m
3
gỗ dán và 5000 m
3
gỗ khối theo những điều
kiện sau:

a. Chuyến hàng đầu tiên gồm 3000 m
3
gỗ dán và 1000 m
3
gỗ khối sẽ được giao trong vòng hai tháng kể từ ngày mở thư tín
dụng,
b. Chuyến hàng thứ hai gồm 2000 m
3
gỗ dán và 2000 m
3
gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ nhất một tháng,
c. Chuyến hàng thứ ba gồm 2000 m
3
gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ hai một tháng.
 Thanh toán bằng L/C có xác nhận và không huỷ ngang;
 Bảo đảm thực hiện hợp đồng trị giá 5% tổng trị giá hợp đồng do Bị đơn cấp "ngay sau khi L/C tương ứng được mở ";
 Điều khoản về phạt do giao chậm;
 Điều khoản về trọng tài quốc tế ICC;
 Điều khoản về bất khả kháng trong đó nêu rõ:
 Trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên bán có trách nhiệm thông báo với bên mua ngay sau khi sự kiện này xảy
ra,
 Sự biến động của tiền tệ cũng như việc tăng giá sẽ không được coi là bất khả kháng.
Sau khi hợp đồng được ký kết, Bảo đảm thực hiện hợp đồng được Bị đơn gửi tới Nguyên đơn ngày 22 tháng 11 năm 1979.
Tương ứng theo đó, chuyến hàng cuối cùng phải được giao muộn nhất là ngày 22 tháng 3 năm 1980. Ngày 26 tháng 11 năm 1979,
hai thư tín dụng có thời hạn tới ngày 22 tháng 2 năm 1980, một cho lô gỗ dán và một cho lô gỗ khối mà người thụ hưởng là Bị
đơn, đã được xác nhận. Về phần mình, Nguyên đơn cũng đã ký hợp đồng bảo hiểm cho hàng hoá và chỉ định công ty giám định để
kiểm tra chất lượng hàng hoá được giao.
Ngày 14 tháng 12 năm 1979, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex rằng do mưa lớn, thiếu nhiên liệu và một số lý do
khác, họ không thể giao hàng theo đúng lịch định. Ngày 16 tháng 12 năm 1979 chuyến hàng đầu tiên chỉ có 218,671 m
3

gỗ dán và
415,904 m
3
gỗ khối đã rời Ghana đi Syri.
Sau đó, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn hẹn sẽ gửi chuyến hàng thứ hai gồm 2500 m
3
gỗ dán và 1500 m
3
gỗ khối vào cuối
tháng 1 năm 1980. Nguyên đơn đồng ý đề nghị này của Bị đơn. Tuy nhiên trên thực tế điều này đã không được thực hiện. Nguyên
đơn sau đó đã phải nhắc nhở Bị đơn vài lần, đề nghị được thông báo chi tiết về chuyến hàng giao ngày 7 tháng 3 năm 1980, đồng
thời xin gia hạn thư tín dụng cũng như chấp nhận gia hạn thời hạn giao hàng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980.
Bị đơn đã không hề có động thái gì và thực tế đã không tiến hành giao chuyến hàng thứ hai. Ngày 2 tháng 5 năm 1980, hai bên
đã đồng ý gặp nhau để bàn bạc về việc thực hiện hợp đồng. Ngày 7 tháng 5 năm 1980, viện cớ rằng mình đã phải chịu những tổn
thất do giá dầu tăng, Bị đơn đề nghị tăng giá lên 40%. Nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu này. Bị đơn muốn huỷ bỏ hợp đồng
với lý do bất khả kháng và đòi được thanh toán tiền hàng cho chuyến hàng đầu tiên đã giao.
Cho đến thời điểm này Nguyên đơn đã có được lệnh phong toả Bảo đảm thực hiện hợp đồng cùng hai thư tín dụng theo quyết
định của toà sơ thẩm Damascus.
Ngày 25 tháng 8 năm 1981, Nguyên đơn đưa sự việc ra Toà trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). Theo các điều
khoản dẫn chiếu, vụ việc được xét xử tại Paris và áp dụng Luật Trọng tài Quốc tế Pháp.
Nguyên đơn đòi được bồi thường:
 Khoản chênh lệch về giá là 656.070,35 USD
 Một khoản lợi nhuận bị thất thu là 468.301,10 USD
 Chi phí ngân hàng là 620.719 Pounds Syri
 Chi phí bảo hiểm
 Thuế nhập khẩu
 Tỷ lệ lãi suất là 9% cho tổng số tiền này.
Bị đơn kháng cáo đòi:
 Được thanh toán số tiền là 306.988,42 USD cho chuyến hàng đầu tiên với tỷ lệ lãi suất là 15% một năm,
 Tuyên bố Nguyên đơn không có quyền được hưởng số tiền Bảo đảm thực hiện hợp đồng và những thiệt hại phát sinh do việc

huỷ bỏ hợp đồng.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn:
Khi thời hạn giao hàng trong hợp đồng đã hết, Nguyên đơn đã gia hạn thư tín dụng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980 cũng
đồng thời là gia hạn thêm cho việc giao hàng tới ngày đó. Việc làm này đã được cả hai bên thừa nhận.
Mặc dù vậy, Bị đơn vẫn không thực hiện được việc giao hàng trong thời gian được gia hạn này. Bản thân điều này đã cấu
thành lỗi vi phạm hợp đồng của Bị đơn. Những gì xảy ra sau ngày 31 tháng 5 năm 1980 không được tính tới vì các bên không có
một thoả thuận thêm nào về việc gia hạn thời hạn giao hàng.
2. Bất khả kháng:
Sau khi xem xét giải trình của Bị đơn về trường hợp bất khả kháng và điều khoản về Bất khả kháng trong hợp đồng, “Uỷ ban
trọng tài không thể chấp nhận lý do không thực hiện hợp đồng mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng” vì trên thực tế, cho tới ngày 31
tháng 5 năm 1980 (ngày hết hạn của thư tín dụng sau khi đã được gia hạn thêm) Bị đơn đã không hề đề cập một cách cụ thể bằng
Telex về bất khả kháng, vấn đề này chỉ được đưa ra trong cuộc thương thảo cuối tháng 7 cùng năm tại Damascus. Điều này cho
phép Uỷ ban trọng tài kết luận là Bị đơn thực tế đã có khả năng giao hàng song muốn tăng giá lên cao hơn nên đã không thực hiện
nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng.
3. Việc từ chối hợp đồng của Nguyên đơn:
Bị đơn cho rằng chính Nguyên đơn đã từ chối hợp đồng với lý do Nguyên đơn đã:
 Làm cho việc nhận tiền bằng L/C không thực hiện được
 Không thanh toán cho Bị đơn chuyến hàng đầu tiên
 Thực tế đã huỷ bỏ L/C không huỷ ngang
Uỷ ban trọng tài đã xác định như sau:
Bị đơn nói rằng họ đã không được thanh toán do không Nguyên đơn không gửi cho họ bản gốc của giấy chứng nhận kiểm tra
hàng hoá. Trên thực tế, giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá mà các bên cung cấp cho Uỷ ban trọng tài cũng khác nhau.
Uỷ ban trọng tài cho rằng:
Bị đơn chưa bao giờ phàn nàn với Nguyên đơn, dưới bất kỳ hình thức nào, về giấy chứng nhận kiểm tra hàng. Hơn nữa, sau
khi Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ đã chỉ định được công ty giám định, thì Bị đơn có trách nhiệm phải yêu cầu công
ty giám định đó cấp giấy chứng nhận ngay sau khi hàng được kiểm tra. Vì đã không làm được điều này, Bị đơn đã tự gây khó khăn
cho việc nhận tiền bằng L/C.
Hơn nữa, do bản chất của L/C là xác nhận không huỷ ngang nên Nguyên đơn đã không thể huỷ bỏ thư tín dụng. Bị đơn có
nghĩa vụ phải xuất trình đúng hạn đầy đủ bộ chứng từ, nếu thiếu, họ phải tìm mọi cách để có được chứng từ bị thiếu đúng thời hạn

song thực tế họ đã không làm được điều đó. Và dù giả thiết rằng bộ chứng từ đã được xuất trình đầy đủ và đúng hạn mà ngân hàng
vẫn từ chối thanh toán thì đó lại là vấn đề nội bộ giữa Ngân hàng mở thư tín dụng và Ngân hàng xác nhận.
Cuối cùng, từ tất cả các chứng từ mà hai bên đưa ra đã cho thấy, Bị đơn đã chỉ đưa ra đề nghị “thanh toán trực tiếp” lần đầu
tiên tại cuộc họp cuối tháng 7 năm 1980 tại Damascus. Trước đó Bị đơn gần như đã hoàn toàn im lặng cho tới ngày 7 tháng 5 năm
1980 và sau đó chỉ quan tâm tới việc nâng giá hợp đồng. Trong suốt thời gian đó họ không hề chứng minh được việc Nguyên đơn
đã từ chối hợp đồng.
Từ các căn cứ trên, Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn.
2. Thiệt hại:
a. Phần chênh lệch giá cả:
Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường khoản tiền chênh lệch là 656.070,35 USD do giá tăng. Uỷ ban trọng tài cho rằng theo
thông lệ quốc tế, trong trường hợp hàng hoá không được giao thì tổn thất được tính là số chênh lệch giữa giá trong hợp đồng và giá
thị trường tại thời điểm hàng hoá lẽ ra phải được giao tại nơi có nhu cầu về mặt hàng đó.
Trong trường hợp cụ thể này, thời hạn giao hàng đã được gia hạn đến ngày 31 tháng 5 năm 1980 nên giá thị trường cũng sẽ
được tính tại thời điểm đó.
Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài bác bỏ yêu cầu của Nguyên đơn đòi được thanh toán phần chênh lệch giá do:
 Nguyên đơn đã không chứng minh được sự tăng giá vào ngày 31 tháng 5 năm 1980,
 Qua xem xét Uỷ ban trọng tài được biết rằng giá gỗ dán và gỗ khối tại thời điểm ngày 31 tháng 5 năm 1980 thực tế thấp hơn
giá hợp đồng.
(vì vây, giả sử vì không mua được hàng của Bị đơn mà Nguyên đơn phải mua hàng khác để thay thế thì việc này cũng không
gây ra thiệt hại gì cho Nguyên đơn)
b. Lợi nhuận bị thất thu:
Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về khoản lợi nhuận bị mất dự tính là 10% tổng giá trị 468.301,10 USD hàng hoá
không được giao. Theo luật thương mại thông thường, để đánh giá thiệt hại của việc không giao hàng, người ta lấy sự chênh lệch
giữa giá hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm mà lẽ ra hàng hoá phải được giao. Thông lệ này được dựa trên một giả thiết rằng
vì hàng hoá không được giao, người mua có thể giảm bớt thiệt hại bằng cách mua một lượng hàng hoá thay thế trên thị trường chợ
đen. Nếu vì không mua hàng hoá chợ đen để thay thế, người mua phải chịu thêm những tổn thất khác (như mất lợi nhuận ) thì
người bán sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại này.
“Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn đã không mua, hay ít nhất cũng không chứng tỏ được việc mình đã mua gỗ thay thế
trong ngày giao hàng. Nếu đã mua thì họ đã có thể bán lại gỗ cho "các tổ chức thương mại nội địa Siri" và bảo toàn 10% lợi
nhuận của mình. Do vậy, bản thân phía Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về việc đã không làm như vậy”.

Hơn nữa, Nguyên đơn với tư cách là một thương nhân, họ có thể thu được lãi hoặc chịu lỗ khi bán lại hàng hoá, không phải
bao giờ cũng lãi cả. 10% lợi nhuận ở đây chỉ là lợi nhuận “vẽ” ra chứ không phản ánh đúng việc xác định giá cả thương mại dựa
trên cung cầu trên thị trường. Bởi vậy, yêu cầu bồi thường này bị bác bỏ.
c. Các phí ngân hàng, bảo hiểm của Nguyên đơn, thuế:
Về khoản phí ngân hàng trị giá 618.013,44 Pound Syri, Uỷ ban trọng tài phán xử như sau:
 Phí ngân hàng : Do Bị đơn đã vi phạm hợp đồng, Nguyên đơn có quyền được hoàn trả khoản phí ngân hàng kể từ ngày ký hợp
đồng cho tới ngày xảy ra vi phạm.
 Phí bảo hiểm: Do Bị đơn không phản bác lại gì về số tiền bảo hiểm, Nguyên đơn có quyền được bồi hoàn lại chi phí này.
 Bảo hiểm phụ: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác bỏ do Nguyên đơn không đưa ra được bằng chứng nào về việc tàu chở
hàng thuộc loại đặc biệt và hãng bảo hiểm có đòi một khoản phí phụ này.
 Thuế nhập khẩu: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác. Ở hầu hết các nước, trong đó có Anh, có một qui tắc được đặt ra là
nếu hàng hoá không được nhập khẩu thì không phải trả thuế và nếu như thuế nhập khẩu phải trả trước, thì chúng sẽ được hoàn lại
cho người đã nộp nếu như sau này hàng hoá không nhập khẩu. Như vậy, Bị đơn không thể biết trước được rằng liệu có đúng là
thuế nhập khẩu đã không được hoàn lại cho Nguyên đơn như họ viện dẫn hay không.
PHÁN QUYẾT SỐ 5
TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA
CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Thuỵ Sỹ
Bị đơn : Người mua Hà Lan
Các vấn đề được đề cập:
 Huỷ hợp đồng
 Các tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất hàng hoá khác nhau
 Hậu quả của việc hiểu nhầm
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn và Bị đơn đã đồng ý ký ba hợp đồng bán cùng một loại hàng hoá với các quy cách phẩm chất đã được quy định
chi tiết.
Hàng được gửi đi từ một công ty Canađa và được giao theo điều kiện C.I.F cảng Rotterdam. Cả ba hợp đồng được lập bằng
tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt nhau, loại trừ điều khoản về số lượng. Điều khoản trọng tài quy định rằng tranh chấp sẽ
được giải quyết theo Quy tắc trọng tài của Phòng Thương Mại Quốc tế. Tuy nhiên chỉ có hai hợp đồng đầu tiên được ký và thực

hiện, hợp đồng thứ ba vẫn chưa được ký và trước khi hàng được gửi đi từ Canađa, Bị đơn đã huỷ hợp đồng với lý do hàng được
giao theo hai hợp đồng đầu không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.
Nhà máy ở Canađa đã gửi một kỹ sư sang Hà Lan để kiểm tra mẫu hàng trong một phòng thí nghiệm độc lập. Kết quả kiểm tra
gây ra nhiều tranh cãi: khi tiến hành phân tích theo phương pháp của Bắc Mỹ thì mẫu hàng được kiểm tra hoàn toàn phù hợp với
những quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, nhưng khi tiến hành theo phương pháp của Châu Âu thì lại không phù hợp.
Các bên đã kiện ra trọng tài theo đó:
 Nguyên đơn yêu cầu được bồi thường 55.000 USD (bao gồm cả 37.000 USD trả cho nhà máy ở Canađa) đối với việc huỷ hợp
đồng thứ ba.
 Bị đơn khiếu nại đòi 181.645 florins Hà Lan cho những thiệt hại liên quan tới hai hợp đồng ban đầu.
Phán quyết của trọng tài:
Trong vụ kiện này có rất nhiều tranh chấp được nêu ra như về thẩm quyền của trọng tài, luật áp dụng đối với hợp đồng, vai trò
của người kỹ sư được nhà máy ở Canađa cử sang tiến hành phân tích hàng hoá… Tuy nhiên, ở đây có ba vấn đề cần xem xét:
 Thứ nhất, liệu người mua có mặc nhiên được quyền huỷ một hợp đồng khi phỏng đoán rằng hàng được giao theo hợp đồng thứ
ba có thể sẽ không phù hợp với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng hay không?
 Thứ hai, quyền được thông tin và nghĩa vụ phải tìm hiểu thông tin (về phương pháp kiểm tra chất lượng hàng hoá) một cách
đầy đủ của các bên trước khi tiến hành ký hợp đồng được hiểu và áp dụng như thế nào?
 Thứ ba, việc hiểu không rõ về tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của hàng hoá dẫn tới hậu quả là hàng giao không đúng như
người mua nghĩ và trông đợi có cho phép người mua được quyền đòi bồi thường về lô hàng đó hay không?
1. Về quyền đơn phương huỷ hợp đồng của Bị đơn:
Theo quan điểm của Uỷ ban trọng tài, đây là một trường hợp liên quan đến một nhóm hợp đồng thương mại và do đó, nếu kết
luận cuối cùng là hàng hoá được giao theo hai hợp đồng đầu không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, và
nếu Bị đơn tin chắc rằng hàng hoá theo hợp đồng thứ ba sẽ có phẩm chất y như số hàng đã được giao theo hai hợp đồng trước đó,
thì Bị đơn sẽ có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.
Theo Điều 48 của Luật thống nhất về Mua bán Hàng động sản Quốc tế, người mua có thể áp dụng quyền được huỷ hợp đồng
thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho việc giao hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hoá được giao sẽ không phù hợp
với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Theo luật Thuỵ Sỹ, nếu mọi bằng chứng đều cho thấy là hàng hoá sẽ bị hư
hỏng tại thời điểm giao hàng, người mua không được phép đợi tới lúc đó mới tiến hành các thủ tục pháp lý để từ chối nhận hàng.
Trong trường hợp cụ thể này, Bị đơn đã tuyên bố rằng họ sẽ không tiếp tục nhận hàng hoá trừ khi số hàng này có quy cách
phẩm chất phù hợp với phương pháp đánh giá do Bị đơn đưa ra. Tuy nhiên Nguyên đơn và nhà cung cấp (nhà máy ở Canađa) hiện
đang sử dụng phương pháp của Bắc Mỹ, đã không chấp nhận điều kiện này. Như vậy, nếu giả thiết về sự không phù hợp của hàng

hoá được chứng minh, Bị đơn có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.
2. Về việc hiểu lầm:
Thực chất, cả hai bên đều đã hết sức thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp giữa họ. Về phần mình, Nguyên đơn đã ngay
lập tức tuyên bố sẵn sàng gửi mẫu do hai bên cùng lấy tới kiểm tra tại một phòng thí nghiệm độc lập do hai bên cùng lựa chọn và
sẽ chấp nhận việc huỷ hợp đồng thứ ba nếu những phân tích này cho thấy rằng những lý do mà Bị đơn đưa ra là có cơ sở. Nguyên
đơn cũng đã ngay lập tức thông báo về những vấn đề về phẩm chất và gửi mẫu cho nhà máy ở Canađa, đồng thời yêu cầu nhà máy
cử đến một kỹ sư.
Như thế có thể thấy nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp trên là sự hiểu lầm.
"Theo kết luận chính của kỹ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi không phải là hàng mà người mua Hà Lan
nghĩ rằng mình đã mua". Đó là do khi chào hàng người bán Thuỵ Sỹ đã không hề đề cập tới phương pháp phân tích phẩm chất còn
người mua Hà Lan thì lại cho rằng, vì hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được
áp dụng. Tuy nhiên, Nguyên đơn lập luận rằng "Từ trước tới nay, phương pháp được áp dụng để phân tích là phương pháp của
nước xuất xứ hàng hoá hoặc phương pháp được toàn thế giới công nhận, như phương pháp của Bắc Mỹ chẳng hạn”.
Sự khác biệt cơ bản giữa phương pháp Bắc Mỹ và phương pháp Châu Âu là ở cách biểu thị độ hoà tan của bột bằng số (chỉ số
hoà tan) mà tranh chấp chủ yếu của hợp đồng này là về độ hoà tan của bột (đối tượng của hợp đồng). Chính bởi vậy phương pháp
phân tích cần phải được xác định rõ để có thể xác định được độ hoà tan của bột.
Tuy nhiên chỉ mãi tới khi Bị đơn khiếu nại về phẩm chất của hàng thì mâu thuẫn về phương pháp sử dụng để phân tích chất
lượng hàng hoá mới phát sinh. Và cũng chỉ tới khi đó, người bán mới thông báo về phương pháp kiểm tra mà theo họ đã được quốc
tế công nhận, đó là phương pháp Bắc Mỹ.
Nhà máy tại Canađa đã đồng ý cử kỹ sư sang Hà Lan với điều kiện là các bên phải thống nhất về phương pháp kiểm tra. Trên
thực tế, nếu sử dụng phương pháp Bắc Mỹ để kiểm tra thì hàng hoá giao theo hai hợp đồng đầu tiên có chất lượng hoàn toàn phù
hợp với miêu tả chất lượng trong hợp đồng. Tuy nhiên nếu sử dụng phương pháp Châu Âu thì hàng đã giao không đáp ứng được
các tiêu chuẩn chất lượng theo thoả thuận.
Nguyên đơn lẽ ra đã phải biết rằng việc hiểu lầm trong việc miêu tả hàng hóa hoàn toàn có thể xảy ra trên thị trường Châu Âu.
Thực tế, người bán Thụy Sỹ và người mua Hà Lan chưa hề có một thoả thuận nào về phương pháp Bắc Mỹ cả. Người bán, tức
Nguyên đơn, lẽ ra phải nêu rõ là những miêu tả về hàng hoá trong hợp đồng phải được hiểu theo phương pháp Bắc Mỹ như người
cung cấp Canađa đã nêu rất rõ điều này trong hợp đồng ký với Người bán. Về phần mình, Bị đơn cũng đã biết rất rõ rằng hàng có
xuất xứ từ Canađa vì họ đã từng liên hệ với nguời cung cấp, nhà máy ở Canađa. Vì vậy, việc hiều lầm này cũng có nguyên nhân
một phần từ sự cẩu thả của Bị đơn vì lẽ ra Bị đơn đã phải hỏi rõ về những chỉ số được sử dụng để miêu tả bột.
Mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp đủ thông tin và nghĩa vụ phải tự hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn đề

cơ bản của tranh chấp này.
Xét cho cùng, Bị đơn và Nguyên đơn cùng phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả do lỗi cẩu thả gây nên. Tuy nhiên xét vì
phương pháp Bắc Mỹ được sử dụng rộng rãi hơn so với những phương pháp khác nên lỗi do cẩu thả trong việc cung cấp thông tin
của Nguyên đơn được xét nhẹ hơn so với Bị đơn.
Theo luật Thuỵ Sỹ, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi lỗi đó là do sự cẩu thả mà mình gây ra. Lỗi
của một (các) bên trong hợp đồng sẽ được coi là nghiêm trọng khi nó dẫn đến nhầm lẫn cơ bản về phẩm chất khiến hàng hoá thuộc
hẳn về một loại khác của hàng hoá đó. Trong trường hợp đang xét, cách đo độ hoà tan của bột có thể dẫn tới hậu quả là hàng hoá
được giao là một loại khác so với loại hàng hoá mà Bị đơn muốn mua.
Bên có lỗi có thể yêu cầu huỷ hợp đồng với điều kiện phải trả tiền bồi thường. Trách nhiệm này được đặt ra với giả định trước
là lỗi phát sinh từ chính sự cẩu thả của bên đó, trong trường hợp cụ thể này, lỗi của người mua là đã không hỏi đầy đủ thông tin về
hàng hoá. Còn lối của người bán là đã không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá.
Về mặt nguyên tắc, luật Thuỵ Sỹ quy định rằng bên có lỗi không phải bồi thường cho bên đối tác của mình nếu như đối tác
này đã biết về lỗi trên. Tuy nhiên những án lệ trước đó có xét đến việc giảm bồi thường trong trường hợp hai bên cùng có lỗi. Xét
lỗi riêng của từng bên trong vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng số tiền bồi thường sẽ được chia làm 5 phần, Bị đơn
chịu 3/5 về lỗi hiểu nhầm và Nguyên đơn chịu 2/5.
3. Về đơn kiện lại của Bị đơn yêu cầu được bồi thưòng thiệt hại do sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng
trước:
Theo Uỷ ban trọng tài, hai hợp đồng ban đầu không thể được coi là vô hiệu nữa vì chúng đã được xác nhận và việc thanh toán
cũng đã được thực hiện sau khi lỗi được phát hiện, hơn nữa không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng hai bên đã có những thương
lượng về vấn đề này. Do đó đơn kiện lại của Bị đơn là không có cơ sở.
Uỷ ban trọng tài kết luận:
 Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn một khoản tiền bồi thường trị giá 37.000 USD (trong tổng số 55.000 USD mà Nguyên
đơn yêu cầu) cho việc huỷ hợp đồng thứ ba.
 Bác khiếu nại đòi bồi thường của Bị đơn về sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước.
 Nguyên đơn phải trả 2/5 và Bị đơn trả 3/5 phí trọng tài.
Bình luận và lưu ý:
Trong thực tế kinh doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng không phải lúc nào cũng thực
hiện được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực hiện một thương vụ, các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức
văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật ) qua Telex, Fax, thư tín hoặc thậm chí có trường hợp không có
văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát

sinh thì những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó lường. Chính bởi vậy, trước khi tiến
hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt chẽ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, những phụ lục kèm theo như tài
liệu kỹ thuật hay miêu tả về hàng hoá phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần phải được làm sáng tỏ ngay để
tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như chúng ta đã thấy qua ví dụ nêu trên.
PHÁN QUYẾT SỐ 6
TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG KHÔNG ĐÚNG CHẤT LƯỢNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIẦY NỮ
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Bỉ
Bị đơn : Người bán Bỉ
Các vấn đề được đề cập:
 Bất khả kháng
 Nghĩa vụ làm giảm nhẹ thiệt hại
 Thiệt hại do mất uy tín
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng bán hàng theo đó Bị đơn sẽ cung cấp cho Nguyên đơn 150.000 đôi giầy phụ nữ trong
thời hạn bốn tháng. Cùng ngày hôm đó, Bị đơn ký một hợp đồng với các điều khoản y hệt (trừ điều khoản về giá) với một công ty
thương mại quốc doanh của Rumani (sau đây gọi là bên C) qua đó C cam kết sẽ cung cấp cùng một số lượng giầy cho Bị đơn.
Sau đó, Nguyên đơn đã không nhận được hàng đúng quy cách phẩm chất và đúng thời hạn như quy định trong hợp đồng, do
đó đã tiến hành khởi kiện ra trọng tài yêu cầu được bồi thường thiệt hại. Về phần mình, Bị đơn khiếu nại lại người cung cấp của
mình là bên C, do lỗi giao hàng chậm.
Phán quyết của trọng tài:
Trong thương mại quốc tế có rất nhiều lý do khiến cho một trong các bên ký kết hợp đồng không thể thực hiện được đầy đủ
những nghĩa vụ của mình, một trong những lý do mà các bên thường viện dẫn nhằm giảm nhẹ lỗi của mình là "bất khả kháng". Tuy
nhiên để xác định liệu lý do mà các bên đưa ra có thuộc vào trường hợp bất khả kháng hay không hoàn toàn không đơn giản. Trong
vụ kiện cụ thể này, Bị đơn coi việc không thể giao hàng đúng qui cách và đúng thời hạn do lỗi của nhà cung cấp của mình (bên C)
là sự kiện bất khả kháng.
Một vấn đề khác được đề cập trong vụ việc này là nghĩa vụ làm giảm thiệt hại của các bên khi có một sự cố xảy ra ảnh hưởng
tới việc thực hiện hợp đồng.
Việc không thể thực hiện đúng hợp đồng kéo theo rất nhiều hậu quả. Thiệt hại ở đây có thể là vật chất và cũng có thể là phi vật

chất. Trong vụ kiện này, ngoài thiệt hại thực tế có thể tính toán do lỗi của Bị đơn (bên bán), Nguyên đơn còn đòi bồi thường thiệt
hại về uy tín thương mại của mình.
1. Về bất khả kháng:
Bị đơn cho rằng, vì hợp đồng ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn quy định rằng giầy phải đúng là loại giầy do công ty C cung cấp
nên việc C đã không thể giao hàng đúng quy cách và thời hạn quy định trong hợp đồng là một trở ngại không thể vượt qua đối với
Bị đơn (thực chất là Bị đơn muốn xếp nguyên nhân này vào trường hợp Bất khả kháng), và bởi vậy cho phép Bị đơn được miễn
mọi trách nhiệm của mình đối với Nguyên đơn.
Về vấn đề này, Nguyên đơn cho rằng, xét trên cơ sở trách nhiệm của người uỷ thác (trong trường hợp này là trách nhiệm đối
với hành vi của người được uỷ thác), Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi của người cung cấp của mình (công ty C). Mặt khác,
Nguyên đơn lập luận thêm rằng theo thông lệ, lỗi của người cung cấp không thể được coi là một yếu tố bất khả kháng đối với
người bán hàng.
Xét lập luận này của Nguyên đơn, Uỷ ban trọng tài cho rằng nguyên tắc về trách nhiệm của bên uỷ thác (Bị đơn) theo hợp
đồng đối với hành động của bên được uỷ thác (Bên C) không có liên quan gì tới trường hợp này vì tuân thủ theo hợp đồng ký giữa
Nguyên đơn và Bị đơn, Bị đơn đã không chọn bất cứ nhà cung cấp nào khác để thay thế C. Hơn nữa, sẽ là cứng nhắc và không
chính xác nếu cho rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào lỗi của người cung cấp cũng không thể được coi là trường hợp bất khả kháng
đối với người bán hàng.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, Bị đơn đã không chứng minh được rằng lỗi của người cung cấp (Bên C) là không thể lường
trước được và không thể khắc phục được. Bị đơn đã không đưa ra được bằng chứng rằng việc giao hàng chậm của nhà máy C là
không thể lường trước được vì trên thực tế việc giao hàng muộn của một nhà cung cấp là một biến cố bất ngờ có thể dự đoán được.
Hơn nữa, Bị đơn cũng không chứng minh được là lẽ ra họ cũng đã phải lường trước hoặc tìm cách làm giảm bớt những hậu
quả do việc giao hàng chậm từ phía C gây ra. Nghĩa vụ của Bị đơn trong trường hợp này là nghĩa vụ về kết quả
1
(tức là nghĩa vụ
đảm bảo mang lại kết quả mà các bên đã thoả thuận - cụ thể trong trường hợp này là việc giao hàng, khác với nghĩa vụ về phương
thức
2
- tức nghĩa vụ đảm bảo sử dụng mọi khả năng, mọi phương thức, phương tiện có thể và hợp lý để hướng tới việc đạt được kết
quả nhưng không phải đảm bảo sẽ mang lại kết quả như mong muốn) và nghĩa vụ này buộc Bị đơn phải có trách nhiệm giao hàng
cho Nguyên đơn trừ trường hợp Nguyên đơn đã huỷ bỏ đơn đặt hàng mà không có lý do.
Tóm lại, việc không giao hàng đúng quy cách và đúng thời hạn của C không được coi là sự kiện bất khả kháng đối với Bị đơn

và bởi vậy, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi trên đối với Nguyên đơn.
2. Về nghĩa vụ phải hạn chế thiệt hại:
Bị đơn lập luận rằng, xét đến nghĩa vụ thực hiện mọi biện pháp có thể để hạn chế và giảm bớt thiệt hại của các bên, lẽ ra
Nguyên đơn đã có đủ thời gian để dàn xếp sao cho có thể giao cho khách hàng của mình hàng hoá tương tự như đối tượng hợp
đồng được ký giữa hai bên .
Trên thực tế, loại giầy là đối tượng của hợp đồng có tính thời vụ và chỉ có thể được bán và giao cho khách hàng của Nguyên
đơn muộn nhất là vào đầu mùa đông. Trong khi đó cho tới thời điểm giữa tháng 9, Bị đơn vẫn làm cho Nguyên đơn tin rằng Bị đơn
có khả năng giao hàng cho Nguyên đơn, mặc dù có muộn hơn so với thoả thuận nhưng trước thời hạn cuối cùng cho phép. Việc
không thể thực hiện được cam kết này được biết khi đã quá muộn để có thể mua được hàng thay thế từ các nguồn khác. Thực tế
cho thấy, xét tới tính chất thay đổi thời trang, các nhà cung cấp thường giữ rất ít loại giầy này trong kho dự trữ. Hơn nữa Bị đơn đã
không hề để cho Nguyên đơn biết những nguồn mà Nguyên đơn có thể, vào cuối tháng 9 năm đó, mua bổ sung được hàng tương tự
với loại được miêu tả trong hợp đồng.
Vì vậy, trong trường hợp này sẽ là không thoả đáng nếu miễn cho Bị đơn tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
3. Về thiệt hại do mất uy tín:
Xét tới thực tế là trong số 127.000 đôi giày được Nguyên đơn đặt mua của Bị đơn, có tới 45.509 đôi, nghĩa là khoảng 38% đã
không được giao đúng quy cách và thời hạn quy định, chúng ta có thể thấy rằng Nguyên đơn khó có thể chấp nhận số phần trăm
hàng lớn như vậy không được thực hiện đúng hợp đồng. Mặt khác xét tới tính chất thời vụ của loại hàng hoá này, Nguyên đơn
cũng chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng của mình trong một chừng mực nhất định bằng cách lấy hàng từ những
nguồn khác.
Nếu coi rằng uy tín thương mại của một thương nhân sẽ bị ảnh hưởng khi họ không thể thoả mãn được phần lớn các đơn hàng
đã ký với khách hàng và xem xét toàn bộ các khía cạnh của vụ việc này, đặc biệt là sự suy giảm về lợi nhuận và số liệu kinh doanh
của Nguyên đơn với những khách hàng đã từng có đơn đặt hàng với Nguyên đơn về loại giầy phụ nữ nói trên trong hai năm từ
1980 đến 1982 so với những năm trước đó, Uỷ ban trọng tài thấy rằng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về uy tín của Nguyên đơn là
1 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de rêsultat
2 Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de moyen
hoàn toàn có căn cứ. Do đó, Uỷ ban trọng tài đã quyết định là Nguyên đơn phải được bồi thường cho thiệt hại về uy tín thương
mại.
PHÁN QUYẾT SỐ 7
TRANH CHẤP TRONG 3 HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
Các bên:

Nguyên đơn : Người Bán
Bị đơn : Người Mua
Các vấn đề được đề cập:
 Luật áp dụng
 Điều 13(3) và (5) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (I.C.C)
 Công ước Hague 1955 về luật áp dụng cho buôn bán hàng hoá quốc tế
 Tập quán trong thương mại quốc tế
Tóm tắt vụ việc:
Bị đơn ký ba hợp đồng với Nguyên đơn mua cùng một loại sản phẩm theo những quy cách phẩm chất đã quy định trong hợp
đồng. Theo hợp đồng, Bị đơn đã thanh toán 90% giá trị mỗi hợp đồng khi nhận được đầy đủ bộ chứng từ gửi hàng.
Hàng được giao theo hợp đồng thứ nhất và thứ ba đạt đúng với quy cách phẩm chất quy định, tuy nhiên các bên đã có tranh cãi
về phẩm chất hàng giao theo hợp đồng thứ hai trước khi hàng được giao lên tàu. Khi tiến hành giám định lô hàng lần thứ hai tại
cảng đến, người ta phát hiện rằng hàng không đạt quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Cuối cùng sau khi đã gia công lại
để hàng dễ bán hơn, Bị đơn đã phải bán lại lô hàng trên cho bên thứ ba với một khoản lỗ khá lớn.
Lấy lý do lô hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đạt quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng, Bị đơn từ chối thanh toán
10% trị giá còn lại của các hợp đồng. Nguyên đơn đã khởi kiện trước trọng tài đòi được thanh toán số tiền 10% trên. Về phần
mình, Bị đơn kiện lại yêu cầu khoản 10% đó phải được dùng để thay thế vào khoản tiền lẽ ra Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị
đơn cho khoản tiền lỗ trực tiếp, chi phí tài chính, thất thu lợi nhuận và lãi suất do lô hàng thứ hai được giao không đúng chất
lượng.
Phán quyết của trọng tài:
Trong giao dịch thương mại, việc hàng hoá được giao không đúng quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng xảy ra khá
thường xuyên và điều đó thường kéo theo những thiệt hại không nhỏ cho người mua hàng. Về mặt pháp lý, người mua có quyền
yêu cầu người bán bồi thường cho mình những thiệt hại phát sinh từ việc giao hàng không đúng như quy cách trong hợp đồng. Tuy
nhiên, một vấn đề đặt ra là liệu người mua có quyền bảo vệ quyền lợi chính đáng đó của mình bằng cách tự khấu trừ một phần trên
giá trị hợp đồng hay không.
Một vấn đề khác liên quan đến điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng. Các bên khi ký kết hợp đồng thường rất hay bỏ
qua điều khoản tưởng như không quan trọng này. Thế nhưng khi tranh chấp phát sinh, điều khoản này lại là vấn đề được đem ra
xem xét trước tiên và nó có một ảnh hưởng khá lớn tới kết quả của việc giải quyết tranh chấp.
1. Về luật áp dụng:
Hợp đồng được ký giữa các bên không có điều khoản về luật áp dụng. Tuy nhiên, theo hợp đồng này thì luật áp dụng sẽ được

xác định theo quyết định của các trọng tài viên phù hợp với Điều 13(3) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế
(ICC). Theo Điều này, các trọng tài viên sẽ áp dụng hệ thống luật thực chất được xác định theo qui phạm luật xung đột mà họ cho
là phù hợp để giải quyết tranh chấp.
Hợp đồng được ký kết giữa các bên thuộc các quốc tịch khác nhau dưới dạng F.O.B nên rủi ro được chuyển cho Người mua
trên lãnh thổ của Người bán. Do đó nước của Người bán được coi là nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng.
Quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều đã phê chuẩn Công ước Hague ngày 11 tháng 6 năm 1955 về Luật áp dụng cho Mua
bán hàng hoá quốc tế, Điều 3 Công ước này quy định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh là luật của nước nơi Người
Bán có trụ sở hiện tại. Mặt khác, xu hướng chung khi có xung đột về luật áp dụng thì luật của quốc gia nơi đặt trụ sở của người có
nghĩa vụ chính phát sinh từ hợp đồng sẽ được chọn. Người có quyền trong hợp đồng mua bán hàng hoá này là người bán hàng.
Căn cứ vào các cơ sở trên, Uỷ ban trọng tài xét thấy luật của nước Nguyên đơn là luật thích hợp nhất để điều chỉnh hợp đồng
giữa Nguyên đơn và Bị đơn.
Ngoài ra, Điều 13 Công ước Hague cũng quy định thêm rằng "Trong mọi trường hợp, Uỷ ban trọng tài phải xem xét tới các
quy định trong hợp đồng và những tập quán thương mại có liên quan". Vậy căn cứ pháp lý để Uỷ ban trọng tài xét xử tranh chấp
này sẽ là luật của nước Nguyên đơn và các tập quán thương mại có liên quan tới nội dung tranh chấp của Hợp đồng.
2. Về đơn kiện lại của Bị đơn:
Trên cơ sở luật của nước của người bán và các tập quán thương mại quốc tế sử dụng rộng rãi trong mua bán hàng hoá quốc tế,
Uỷ ban trọng tài cho rằng nguồn tập quán thương mại tốt nhất chính là các điều khoản của Công ước của Liên Hợp Quốc về buôn
bán hàng hoá quốc tế ngày 11 tháng 4 năm 1980, sau này thường được gọi tắt là "Công ước Viên", cho dù cả quốc gia của Nguyên
đơn và Bị đơn đều chưa là thành viên của Công ước này. Nếu giả thiết rằng các bên đã là thành viên của Công ước này thì Công
ước sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng với tư cách là luật chứ không phải là tập quán thương mại.
Công ước Viên tại thời điểm đó có hiệu lực đối với 17 nước, hoàn toàn có thể phản ánh những tập quán thương mại được thừa
nhận rộng rãi, liên quan tới vấn đề không phù hợp của hàng hoá trong buôn bán hàng hoá quốc tế. Điều 38(1) của Công ước quy
định rằng "Người Mua có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá hoặc cho kiểm tra hàng hoá một cách nhanh chóng". Sau đó Người Mua
phải thông báo cho Người Bán về việc không phù hợp của hàng hoá trong một thời hạn hợp lý kể từ khi phát hiện ra hư hỏng. Nếu
không làm như vậy, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về việc không phù hợp nói trên. Điều 39(1) quy định cụ thể về vấn
đề này như sau:
"Trong mọi trường hợp, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về hàng giao không phù hợp với quy cách phẩm chất quy
định trong hợp đồng nếu Người Mua không gửi thông báo về việc này cho Người Bán trong một thời hạn là hai năm kể từ ngày
hàng được giao cho Người Mua, trừ khi hàng hoá được bảo hành trong thời gian dài hơn hai năm."
Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn (Người bán) đã cho kiểm tra hàng hoá trong một thời hạn hợp lý (hàng được kiểm tra

thậm chí trước khi đến cảng), Bị đơn (Người mua) cũng đã gửi thông báo về việc hư hỏng trong một thời gian hợp lý, nghĩa là tám
ngày kể từ khi báo cáo kiểm tra hàng của chuyên gia giám định được lập. Uỷ ban trọng tài thấy rằng, Bị đơn đã tuân thủ đúng
những yêu cầu nêu trên của Công ước Viên. Về điểm này, Uỷ ban trọng tài không căn cứ vào luật của nước Nguyên đơn vì luật này
quy định một thời gian quá ngắn cho việc thông báo tổn thất của Người mua đến Người bán, công bằng mà xét thì qui định của luật
này là một ngoại lệ so với tập quán thương mại được thừa nhận rộng rãi.
Trong trường hợp này, việc áp dụng tập quán thương mại hoặc luật quốc gia là do Uỷ ban trọng tài quyết định. Và Uỷ ban đã
quyết định áp dụng Công ước Viên với tư cách là một tập quán thương mại.
Về phần Người Bán, trong mọi trường hợp, Người Bán cũng bị coi là bị mất quyền khiếu nại về các vi phạm đối với các yêu
cầu nêu tại Điều 38 và 39 Công ước Viên vì điều 40 có quy định rằng "Người Bán không thể căn cứ vào Điều 38 và 39 nếu việc
không phù hợp của hàng hoá có liên quan tới những thực tế mà Người Bán đã biết hoặc không thể không biết và đã không nêu ra ".
Thực tế, từ tất cả những chứng cứ và tài liệu của vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài thấy rằng Nguyên đơn đã biết và không thể không
biết về việc hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.
Theo qui định tại ĐIều 70 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp, uỷ ban trọng tài chỉ không chấp nhận xét đơn kiện lại của Bị
đơn cùng lúc với đơn kiện của Nguyên đơn khi việc xem xét giải quyết đơn kiện lại làm cho tố tụng giải quyết đơn kiện chính kéo
dài quá lâu. Trong trường hợp này, uỷ ban trong tài thấy rằng việc xem xét giải quyết đơn kiện và đơn kiện lại cùng lúc là hợp lý.
Uỷ ban trọng tài chấp nhận đồng thời các yêu cầu của Nguyên đơn và đơn kiện lại của Bị đơn. Do đó hai khoản tiền này bù
cho nhau, Bị đơn không phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền mà Nguyên đơn yêu cầu còn Nguyên đơn cũng không phải bồi
thường cho Bị đơn những chi phí mà Bị đơn đã phải gánh chịu.
PHÁN QUYẾT SỐ 8
TRANH CHẤP VỀ VIỆC TỪ CHỐI NHẬN HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG BÁN NGUYÊN LIỆU
Các bên:
Nguyên đơn : Một doanh nghiệp Nhà nước của một quốc gia đang
phát triển (doanh nghiệp X)
Bị đơn : Công ty nước ngoài Y
Các vấn đề được đề cập:
 Việc giải thể của Bị đơn trong quá trình tố tụng
 Bất khả kháng
 Tính toán thiệt hại (theo thông lệ)
Tóm tắt vụ việc:

Để phản ứng lại biện pháp của chính phủ một quốc gia đang phát triển quốc hữu hoá các công ty nước ngoài khai thác các
nguyên liệu thô trên lãnh thổ quốc gia đó và giao các tài sản của các công ty này cho một doanh nghiệp nhà nước có chức năng
chuyên kinh doanh các sản phẩm cùng loại, các công ty nước ngoài nói trên tuyên bố rằng họ sẽ tịch thu các nguyên liệu thô đó
trong trường hợp chúng được bán trên thị trường thế giới.
Sau khi biện pháp quốc hữu hoá được áp dụng, doanh nghiệp nhà nước có chức năng khai thác và kinh doanh các nguyên liệu
tự nhiên đã ký kết một số hợp đồng mua bán hàng hoá với các bạn hàng từ nhiều quốc gia trên thế giới. Một vài trong số các bạn
hàng này đã từ chối thực hiện nghĩa vụ nhận hàng này với lý do là lời đe doạ tịch thu của các công ty có tài sản bị quốc hữu hoá
nói trên đã tạo nên một sự kiện bất khả kháng giải phóng họ khỏi nghĩa vụ nhận hàng.
Căn cứ vào điều khoản trọng tài trong các hợp đồng mua bán hàng hoá, doanh nghiệp nhà nước đã kiện các đối tác này ra
trước Toà trọng tài ICC đòi được bồi thường cho những thiệt hại đã phải chịu. Các trọng tài viên của ICC đưa ra các phán quyết
cho doanh nghiệp nhà nước thắng kiện sau khi bác bỏ lý do bất khả kháng mà các Bị đơn đưa ra.
Dưới đây là một phán quyết của các trọng tài đưa ra cụ thể cho một trong các Bị đơn là công ty Y. Đối với công ty Y, trước khi
có thể đưa ra các phán quyết, các trọng tài viên phải giải quyết một khó khăn về thủ tục tố tụng không kém phần quan trọng là việc
công ty Y bị giải thể.
Thông thường, khi một pháp nhân giải thể thì cũng có nghĩa là pháp nhân đó không còn tồn tại trên thực tế và do đó không
phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào trong tương lai. Theo tinh thần nêu trên, nếu như một pháp nhân là Bị đơn trong quá trình tố
tụng thì khi pháp nhân đó giải thể thì họ cũng không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào mà trong tương lai do các phán quyết
của các cơ quan tài phán, nếu vậy thì ở đây là Bị đơn có thể lợi dụng điểm này để trốn tránh trách nhiệm trong quá trình tố tụng.
Vì vậy, phần lớn pháp luật quốc gia và các án lệ của các toà trọng tài ICC đều chỉ ra rằng: Trong trường hợp Bị đơn là một pháp
nhân tuyên bố giải thể, thì không có nghĩa rằng họ sẽ được giải phóng khỏi toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động trong quá
khứ và từ các phán quyết của cơ quan tài phán trong tương lai, mà thay vào đó họ vẫn phải duy trì tư cách tố tụng của mình cho
đến khi quá trình tố tụng thực sự chấm dứt, đại diện cho Bị đơn trong trường hợp này sẽ là người có trách nhiệm thanh lý doanh
nghiệp. Như vậy, việc phá sản hoặc giải thể một công ty không ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty này còn đủ tư cách pháp nhân
để trở thành bị đơn hoặc nguyên đơn trong một vụ kiện khi mà vụ kiện này đã bắt đầu từ trước khi việc phá sản hoặc giải thể xảy
ra.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ nhận hàng của Bên mua thường sẽ gây ra những thiệt
hại không nhỏ cho Bên bán, vì Bên bán sẽ phải chịu thêm những chi phí phát sinh như: chi phí kho bãi, bốc dỡ hàng, trả lãi ngân
hàng Ngoài ra Bên mua thường nại ra những lý do có tính chất "Bất khả kháng" nhằm né tránh các trách nhiệm sẽ phát sinh từ
việc không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ nghĩa vụ nhận hàng - trong trường hợp này cần đi sâu vào những dấu hiệu mà một
sự kiện Bất khả kháng cần phải có, đó là hai dấu hiệu: Không thể dự liệu trước rằng sự kiện đó sẽ xảy ra trong tương lai và hậu

quả mà nó gây ra là không thể tránh được.
Một vấn đề khác có liên quan là việc tính toán tổng số thiệt hại phải bồi thường trong trường hợp không có một điều khoản
nào trong Hợp đồng đang có tranh chấp đề cập tới việc ấn định mức độ thiệt hại xảy ra, giải pháp phổ biến ở đây là dựa vào
những phương pháp tính toán đã trở thành thông lệ quốc tế để xác định thiệt hại hoặc những phương pháp đã được chấp nhận
trong những hợp đồng tương tự.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về việc Bị đơn giải thể:
Trước khi các trọng tài viên tiến hành phiên họp xét xử thì Bị đơn tuyên bố giải thể và sau đó bị xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh
doanh, do vậy vấn đề ở đây là các trọng tài viên phải xác định xem liệu Bị đơn có còn được xem là một bên trong quá trình tố tụng
hay không. Các trọng tài viên đã đưa ra phán quyết khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn với các lập luận như sau:
- Quá trình tố tụng trọng tài đã được bắt đầu tiến hành trước khi có sự xoá tên chính thức của công ty X khỏi sổ Đăng ký kinh
doanh, do vậy địa vị pháp lý hiện tại của Bị đơn không ảnh hưởng gì tới hiệu lực của quá trình tố tụng đang được tiến hành trước
Toà trọng tài ICC; do vậy không có thay đổi gì đối với địa vị tố tụng của các bên trên thực tế.
- Bị đơn đã nộp Bản Giải trình biện hộ của mình trước khi chính thức xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, nên Bản giải trình
này cần được coi là có hiệu lực và cần phải xem xét.
- Sau khi xảy ra sự kiện xoá tên Bị đơn khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, văn bản công nhận thẩm quyền của trọng tài đã được
người chịu trách nhiệm thanh lý công ty Bị đơn ký.
2. Về sự kiện bất khả kháng:
Sau khi khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn, các trọng tài viên ICC tiến hành xem xét giải quyết những nội dung chính của vụ
kiện. Về sự kiện bất khả kháng mà Bị đơn viện dẫn, các trọng tài viên đã bác bỏ vì những lý do sau:
Một sự kiện bất khả kháng, theo nghĩa hẹp, là một sự kiện được xác định bởi hai yếu tố: Không thể lường trước (có nghĩa là
trước khi sự kiện đó xảy ra đã không có bất cứ lý do đặc biệt nào để cho rằng sự kiện đó sẽ xảy ra) và không thể tránh được (có
nghĩa là sự kiện đó làm cho Bị đơn hoàn toàn không thể khắc phục được để có thể thực hiện hợp đồng).
Trong trường hợp cụ thể này, hợp đồng được ký kết vào ngày ( ) và tại thời điểm đó các rắc rối xảy ra sau khi có việc quốc
hữu hoá nói trên đã bắt đầu xuất hiện, do vậy sự kiện bất khả kháng được viện dẫn bởi Bị đơn không bao gồm yếu tố “ không thể
thấy trước” mà pháp luật đòi hỏi.
Hơn nữa Nguyên đơn đã chứng minh thông qua việc đệ trình trước toà những hợp đồng được đề cập khác của Nguyên đơn
tương tự như hợp đồng mà Nguyên đơn đã ký với Bị đơn, trong đó chứng tỏ rằng vào cùng một giai đoạn này, những người mua
khác đã thực hiện nghĩa vụ nhận hàng hoá mà họ đã mua như thường lệ.
Do vậy, Bị đơn không thể viện dẫn rằng đã xảy ra một sự kiện bất khả kháng làm cho Bị đơn không thể thực hiện hợp đồng đã

ký.
3. Về tính toán thiệt hại:
Hợp đồng không qui định cụ thể cách thức tính thiệt hại trong trường hợp có vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, Nguyên đơn cũng
không cung cấp những chứng cứ chính xác về tổng số thiệt hại xảy ra, mà chỉ đánh giá thiệt hại trên cơ sở những phương pháp
đánh giá mang tính chủ quan.
Trên cơ sở những thông tin có được từ những tài liệu do Nguyên đơn đưa ra trọng tài đã cho rằng khoản tiền phạt ( ) USD
cho một đơn vị hàng hoá là nguyên liệu thô không được cung cấp hoặc tiếp nhận là phù hợp với thông lệ trong những trường hợp
tương tự.
Theo các Điều 3 và 8 của hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký ngày ( ), số lượng hàng hoá giao nhận hàng tháng là ( ) tấn cho
một năm hoặc ( ) tấn cho một tháng.
Trên cơ sở tổ chức và tầm quan trọng quốc tế của Nguyên đơn (doanh nghiệp nhà nước), uỷ ban trọng tài cho rằng sẽ là công
bằng nếu như giới hạn số lượng hàng hoá phải được giao nhận là ( ) tấn và Bị đơn sẽ phải gánh chịu một khoản tiền phạt theo
thông lệ là ( ) USD cho một đơn vị hàng hoá của nguyên liệu tự nhiên.
PHÁN QUYẾT SỐ 9
TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Ai Cập
Bị đơn : Người bán Nam Tư
Các vấn đề được đề cập:
 Luật áp dụng cho Hợp đồng;
 Giá hàng trên thị trường có thay đổi;
 Mua hàng thay thế;
 Tính toán lãi suất.
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 20 tháng 8 năm 1987, các bên đã ký kết bản hợp đồng mua bán 80.000 tấn thép thanh với giá trung bình là 190,00
USD/tấn. Hàng được giao theo hợp đồng trong vòng ngày 15 tháng 12 năm 1987 đến ngày 15 tháng 12 năm 1988 tại cảng Nam
Tư.
Nguyên đơn có “Quyền mua đặc biệt”, quyền này cho phép Nguyên đơn tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000 tấn với cùng
giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15 tháng 12 năm 1987 và mở L/C cho

chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm 1987.
Ngày 26 tháng 11 năm 1987, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ sẽ thực hiện “Quyền mua đặc biệt” này và sẽ mở
L/C trong khoản từ 15 đến 31 tháng 12 năm 1987. Do việc tăng giá thép trên thị trường thế giới, ngày 9 tháng 12 năm 1987, Bị đơn
đề nghị tổ chức một cuộc họp vào tháng đó để thảo luận về mức giá áp dụng cho số lượng hàng mua thêm. Tại cuộc họp ngày 28
tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị mức giá 215USD/tấn cho số lượng hàng bổ sung, nhưng Nguyên đơn không chấp nhận và
cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.
Trong văn thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1987, Nguyên đơn nhấn mạnh rằng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đến ngày
6 tháng 1 năm 1988 Bị đơn vẫn không chấp thuận, thì Nguyên đơn sẽ buộc Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại
bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã được Nguyên đơn kéo dài tới ngày 25 tháng 1 năm 1988.
Ngày 26 tháng 1 năm 1988, Nguyên đơn đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216
USD/tấn. Nguyên đơn viện cớ rằng chi phí vận chuyển đường biển từ Rumani tới Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ
Nam Tư tới Ai Cập.
Nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris -
Pháp) đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá.
Phán quyết của trọng tài:
1. Luật áp dụng:
Uỷ ban trọng tài quyết định rằng luật Nam Tư là luật áp dụng cho hợp đồng vì các lý do sau:
Vấn đề đầu tiên và đồng thời cũng là vấn đề trung tâm cần phải giải quyết trong vụ việc này là việc xác định luật nào được áp
dụng để xem xét hợp đồng. Trong trường hợp này, trọng tài xác định rằng Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế (ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở Ai Cập, Nam Tư, cũng
như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước
có hiệu lực (ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào ngày 20 tháng 8 năm 1987.
Việc xác định luật áp dụng cần phải được xem xét trên cơ sở các qui định của luật tư pháp quốc tế.
Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp
dụng là luật của nước nơi ký kết hợp đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).
Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ
(hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.
Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm
1955). Điều 3(2) của Công ước này qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc
gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn đặt hàng.

Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở
Nam Tư nên theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng.
2. Trở ngại của Hợp đồng:
Đoạn 1 và 2 của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978 trích như sau:
(1) Trong trường hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký kết hợp đồng mà những biến cố này làm cho việc thực hiện hợp đồng
của một trong các bên gặp khó khăn hoặc mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong
muốn của các bên cũng như việc tiếp tục giữ nguyên hợp đồng sẽ là không công bằng thì bên gặp khó khăn trong việc thực hiện
hợp đồng hoặc không đạt được mục đích của hợp đồng do có thay đổi hoàn cảnh (do có biến cố) có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.
(2) Không thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng nếu bên viện dẫn biến cố (sự thay đổi hoàn cảnh) đã lường trước được biến cố này tại
thời điểm ký kết hợp đồng hoặc đã có thể vượt qua hoặc khắc phục nó.
Bên cạnh Điều 133 của Luật nghĩa vụ, Qui tắc số 56 (hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành tại Nam Tư) liệt kê "các sự kiện kinh
tế, chẳng hạn như sự đột biến, và sự tăng hoặc giảm mạnh về giá cả" là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp
đồng.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu việc giá thép tăng từ 190 USD lên 215 USD/tấn có phải là tăng đột biến giá hay
không và nếu vậy, liệu Bị đơn có tính đến tình huống này tại thời điểm hợp đồng được ký kết không.
Theo kinh nghiệm cho thấy, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, mà đặc biệt là thép, luôn biến động. Tại thời điểm ký hợp
đồng, giá thép đã bắt đầu tăng nhẹ và có xu hướng tiếp tục tăng trong khoảng thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện
"quyền mua đặc biệt", thậm chí có thể tăng hơn nữa vào cuối năm 1988.
Trong trường hợp này, giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá
của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với
mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.
Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể
tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Việc xem
xét liệu Bị đơn - người bán có hợp lý không khi chấp thuận "quyền mua đặc biệt" với cùng một mức giá trong thời gian tương đối
dài như vậy không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Về mặt nguyên tắc, Bị đơn - người bán vẫn có thể khuyến khích người
mua khi họ ký hợp đồng đầu tiên bằng cách đưa là điều khoản "quyền mua đặc biệt" mà vẫn bảo lưu quyền được viện dẫn Điều
133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Trên thực tế, Bị đơn đã không đưa ra bảo lưu này và vì vậy không thể viện dẫn lý
do tăng giá thép để từ chối "quyền mua đặc biệt" của Nguyên đơn.
3. Mua hàng thay thế và tính toán lãi suất:

×