Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.94 KB, 19 trang )

z
Tiểu luận triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài:
“CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ”

 Người thực hiện : Trần Thị Mỹ Lai
- Số thứ tự : 81
- Lớp : Cao học Đêm 5
- Khóa :21
 Giảng viên hướng dẫn Ts. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 02 năm 2012
Trang
1
Tiểu luận triết học
MỤC LỤC
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA 3
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI 3
1.1 SƠ LƯỢC VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, KHOA HỌC TRIẾT HỌC
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI 3
1.2 NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA DUY
LÝ TƯ BIỆN 4
1.2.1 Siêu hình học: 4
1.2.1.1Nguyên tắc “ Nghi ngờ phổ biến” . 4
1.2.1.2 “ Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” 6


1.2.1.3 Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người 6
1.2.1.3.1 Về thượng đế 6
1.2.1.3.2 Về giới tự nhiên 6
1.2.1.3.3 Về con người 8
1.2.1.4 Lý luận về linh hồn và nhận thức của con người 8
1.2.1.5 11 nguyên lý của siêu hình học mới 10
1.2.1.6 Hai nội dung của siêu hình học mới 10
1.2.2 Khoa học 11
1.2.2.1 Trong lĩnh vực vật lý học. 11
1.2.2.2 Trong lĩnh vực toán học 12
1.2.2.3 Trong lĩnh vực sinh học 12
Chương II 13
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ 13
TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI 13
2.1 NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY
THỜI CẬN ĐẠI 13
2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG
TÂY THỜI CẬN ĐẠI 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chúng ta có lẽ không ai không biết môn hình học giải tích, một trong
những môn quan trọng giúp chúng ta có thể ngồi trên giảng đường hôm nay. Hình học
giải tích, cũng được gọi là hình học tọa độ hay hình học Descartes, là môn học thuộc
hình học sử dụng những nguyên lý của đại số. Và khi nhắc đến hình học giải tích, thì
người ta nhắc tới Descartes. Ông là nhà toán học đầu tiên phân loại các đường cong
dựa theo tính chất của các phương trình tạo ra chúng. Và ông cũng là người đặt nền
móng cho chủ nghĩa duy lý- tư biện Phương Tây thời cận đại với câu nói “Tôi tư duy
nên tôi tồn tại”. [1,146].
Trang
2

Tiểu luận triết học
Chủ nghĩa duy lý tư biện ra đời đã có vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử.
Hegel, nhà triết học Đức đã đánh giá vai trò triết học của Descartes là “đã tạo ra một
cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học” Tây Âu thời Cận đại. Có nghĩa là
“Ông đã tạo ra một bước rẽ, một bước ngoặt trong hành trình phát triển của triết học
Tây Âu.” Sự ảnh hưởng không nhỏ bởi dòng tư tưởng triết học duy lý của René
Descartes là một thành tựu tư tưởng lớn không chỉ của nước Pháp thế kỷ XVII mà còn
của cả nhân loại, trở thành một phong cách, một lối sống đặc trưng cho xã hội Tây
phương. Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Chủ nghĩa duy lý- tư biện phương Tây thời cận
đại” đế làm bài tiểu luận triết học của mình. Bài nghiên cứu này chủ yếu dựa trên sách
giáo trình “Đại cương về lịch sử triết học (phần I), NXB Đại học kinh tế Tp HCM,
2011” và một số giáo trình tham khảo khác.
Trong bài tiểu luận này sẽ được trình bày theo thứ tự: chương 1: Những tư
tưởng triết học cơ bản của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại và
chương 2: Những giá trị và hạn chế.
Chủ nghĩa duy lý tư biện ra đời đã tạo “một cuộc cách mạng trong lịch sử tư
tưởng triết học”[7]. Nó không chỉ giúp con người nâng cao khả năng tư duy lý luận
của mình mà còn giúp con người dần hiểu hơn về giới tự nhiên, về khoa học. Từ đó
đưa khoa học phục vụ vào đời sống của con người, giúp họ thoát khỏi những cái vô
thần, hư ảo cuộc sống. Tuy nhiên do xuất phát từ tầng lớp tư sản nên các nhà triết gia
cũng chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chưa nhìn nhận thế giới bằng phương
pháp tư duy biện chứng mà vẫn còn mang tính siêu hình phiến diện.
Chương I
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
1.1
1.1
SƠ LƯỢC VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, KHOA HỌC TRIẾT HỌC

SƠ LƯỢC VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI, KHOA HỌC TRIẾT HỌC


DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
Vào thế kỷ XVII, XVIII chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Tây Âu, giai
cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp phong kiến: Cách mạng
tư sản Hà Lan (1560-1570); Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản
Pháp (1789-1794).
Trang
3
Tiểu luận triết học
Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả mọi mặt của đời
sống xã hội. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương
thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kỹ thuật
phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt trình độ cơ sở cổ
điển.
Thời kỳ cận đại nổi bật 4 trường phái triết học tiêu biểu: trường phái duy vật
kinh nghiệm-duy vật, trường phái duy lý –tư biện, trường phái duy tâm-bất khả tri,
triết học khai sáng và chủ nghĩa Pháp. Tuy nhiên bài tiểu luận chỉ trình bày về trường
phái duy lý-tư biện. “Đây là trường phái triết học-siêu hình học đề cao lý tính, cố gắng
hệ thống hóa toàn bộ tri thức mà con người đạt được lúc bấy giờ dựa trên cơ sở
phương thức tư duy lý luận, nhằm giúp con người thoát ra khỏi cách nhìn thiển cận về
thế giới”.[1, 144].
1.2
1.2
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA



DUY LÝ TƯ BIỆN.
DUY LÝ TƯ BIỆN.
Đến cuối thế kỷ XVII, chủ nghĩa Aristote mất dần ảnh hưởng và suy tàn. Lúc
này nhu cầu xem xét lại toàn bộ hệ tư tưởng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết và René
Descartes là người đóng vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng về quan niệm này.
“Chủ nghĩa duy lý-tư biện ra đời dựa trên cơ sở phương thức tư duy lý luận, nhằm
giúp con người thoát cách nhìn thiển cận về thế giới”[1,144]. Descartes đặt nền móng,
xây dựng và đưa chủ nghĩa duy lý Phương Tây lên đỉnh cao. Spinoza và Leibniz phát
triển chúng theo khuynh hướng duy vật và duy tâm khác nhau.
1.2.1 Siêu hình học:
1.2.1 Siêu hình học:
1.2.1.1Nguyên tắc “ Nghi ngờ phổ biến” .
1.2.1.1Nguyên tắc “ Nghi ngờ phổ biến” .
Theo Descartes, để xây dựng triết học và khoa học mới thì phải dựa trên
nguyên tắc nghi ngờ phổ biến. Triết học mới theo ông là “tổng thể tri thức của con
người về các lĩnh vực.” hay còn là “siêu hình học-cơ sở thế giới quan của con
người”[1,145]. Khi nói đến triết học mới thì ông cho rằng nhiệm vụ trước hết là “khắc
phục được chủ nghĩa hoài nghi, xây dựng nguyên tắc để chỉ đạo các ngành khoa học,
giúp khám phá ra các quy luật của tự nhiên, xây dựng các chân lý khoa học”[1,145]
hay triết học mới phải bàn về khả năng và phương pháp để đạt được những tri thức
đúng đắn, triết học mới phải gắn liền với khoa học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao
Trang
4
Tiểu luận triết học
trình độ lý luận của con người. Theo ông toàn bộ thế giới quan khoa học của con
người "tương tự như một cái cây, mà bộ rễ của nó là siêu hình học, thân cây là vật lý
học, còn toàn bộ các khoa học khác có thể quy thành y học, cơ học và đạo đức học thì
như những chiếc cành mọc ra từ thân cây đó".[1,145].Trình độ phát triển của tư duy
triết học là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá mức độ văn minh của con người và
sự ưu việt của dân tộc này so với dân tộc khác. Bởi vì, "chỉ có triết học là phân biệt

chúng ta khác với bọn thổ dân và bọn mọi rợ, và dân tộc nào văn minh hơn, có học
thức hơn thì dân tộc đó có triết lí tốt hơn"[7]. "Triết học là sự thể hiện cơ bản nhất sự
thông thái của con người không chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả trong các công
việc khác."[7]. Descartes cho rằng nhiệm vụ của triết học là:
Thứ nhất, xây dựng nguyên lý, phương pháp luận cơ bản làm cơ sở cho các
khoa học khám phá chân lý, đồng thời hoàn thiện và phát triển chúng.
Thứ hai, giúp con người thống trị và làm chủ được giới tự nhiên trên cơ sở
nhận thức các quy luật của nó.
Muốn vậy, "cần phải thay thế thứ triết học tư biện bằng một thứ triết học thực
tiễn, theo đó nhận biết được sức mạnh tất cả các sự vật xung quanh chúng ta cũng rõ
ràng như chúng ta biết các nghề thủ công khác nhau của những người thợ lành nghề.
Từ đó chúng ta có thể ngang tầm với họ, sử dụng những lực lượng đó trong tất cả mọi
lĩnh vực, và như vậy trở thành chủ nhân và chúa tể giới tự nhiên". Quan niệm trên là
quan niệm mang tính cách mạng. Nó khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của sự
phát triển của khoa học đối với đời sống xã hội, đồng thời là bước tiếp cận ban đầu
cho một quan niệm duy vật về bản chất và nhiệm vụ của triết học.[7].
Descartes cho rằng “mọi chân lý đều bắt nguồn từ lý tính, và nghi ngờ là biện
pháp cần thiết để lý tính không mắc sai lầm trong nhận thức và có niềm tin vững chắc
hơn trong nhận thức”[2,62]. Với nguyên tắc này ta thấy “Descartes đề cao tư duy lý
tính phân tích toàn diện những tri thức do trực giác phát hiện ra hay do suy diễn mang
lại, và coi thường kinh nghiệm, hạ thấp năng lực cảm tính tổng kinh nghiệm mà quan
sát thí nghiệm đem đến hay tri thức do quy nạp mà có”[2,62].
Vì vậy ông đã xây dựng chủ nghĩa duy lý thời cận đại khá thành công. Ông cho
rằng “mọi cái tồn tại chỉ có thể trở thành chân lý khi chúng được đưa ra phán xét dưới
tòa án của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của chính mình”.[2,62].
Trang
5
Tiểu luận triết học
1.2.1.2 “ Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”.
1.2.1.2 “ Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”.

Đây được coi là nguyên lý cơ bản của toàn bộ hệ thống siêu hình học duy lý.
Dù dựa trên phương pháp nghi ngờ phổ biến, nhưng “Descartes không đi đến chủ
nghĩa hoài nghi mà là bác bỏ nó và xây dựng nguyên lý cơ bản của toàn bộ hệ thống
siêu hình học duy lý của mình – nguyên lý “ Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”[1,146]. Để
luận chứng cho nguyên lý này, ông suy luận như sau : “dù tôi nghi ngờ về sự tồn tại
của mọi cái nhưng tôi không thể nghi ngờ về sự tồn tại của chính mình, bởi vì , nếu tôi
không tồn tại thì làm sao tôi có thể nghi ngờ được. Mà nghi ngờ là suy nghĩ, là tư duy,
nên tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại. Tôi tồn tại với cương vị là người suy nghĩ, nghĩa là
suy nghĩ của tôi là có thật. Nó có sự tồn tại, và sự tồn tại đó là không thể nghi ngờ và
cũng không thể bác bỏ được”.
[2,62]
Dựa trên nguyên lý cơ bản “ Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”, ông xây dựng hệ
thống siêu hình học của mình. Đối với ông siêu hình học phải là “học thuyết chặt chẽ
về Thượng Đế, về giới tự nhiên và con người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ
đạo hoạt động bản chất của con người – hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính”.
[1,146]. Với quan niệm này ta thấy Descartes vẫn chưa thoát khỏi quan điểm chủ quan
về giới tự nhiên.
1.2.1.3 Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người.
1.2.1.3 Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người.
1.2.1.3.1 Về thượng đế.
1.2.1.3.1 Về thượng đế.
Theo Descartes “thượng đế thật sự tồn tại, bởi vì mọi dân tộc, mọi con người
đều nghĩ về Thượng đế; hơn nữa, sự tồn tại của Thượng đế là cái đảm bảo chắc chắn
cho sự tồn tại của giới tự nhiên cũng như của vạn vật sinh tồn trong nó, đảm bảo cho
sự tồn tại của thể xác và năng lực nhận thức vô tận của con người”.[1,147].
Tuy nhiên, theo Spinoza thượng đế là toàn bộ trật tự giới tự nhiên, ông coi
thượng đế, giới tự nhiên và thực thể là một. “Thượng đế phải là cái độc nhất mà sự
giải thích của nó nằm ở nội tại – ngay bên trong nó, mọi cái hữu hạn đều có thể bị gây
ra bởi cái gì đó ngoại tại nhưng Thượng đế thì không thể như thế vì không có cái gì ở
bên ngoài (ngoại tại) Thượng đế”[1,152]

1.2.1.3.2 Về giới tự nhiên.
1.2.1.3.2 Về giới tự nhiên.
René Descartes cho rằng “vạn vật trong giới tự nhiên chỉ có thể được tạo thành
từ hai thực thể tồn tại độc lập nhau: thực thể tinh thần phi vật chất với thuộc tính biết
Trang
6
Tiểu luận triết học
suy nghĩ, tạo thành mọi ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng,… và các thực thể vật chất phi
tinh thần với quãng tính, tạo thành các sự vật có thể đo được theo các đặc tính không
gian, thời gian”.[1,147].
Còn Spinoza đã đồng nhất thượng đế, giới tự nhiên với thực thể. Thực thể được
ông hiểu như là “nguồn gốc, cơ sở, bản chất chung và duy nhất của mọi sự vật, hiện
tượng dù đó là vật chất hay tinh thần. Thực thể là cái siêu không gian, siêu vận động,
là nguyên nhân của chính nó (đầy đủ, độc lập-tự sản sinh…) Thực thể có thể vô vàn
thuộc tính và biểu hiện thành vô vàn nhận thức.[1,151].
Ông cho rằng “thuộc tính là tính chất cố hữu mà qua đó thực thể biểu hiện ra.
Mỗi thuộc tính chỉ thể hiện cái toàn bộ của thực thể thống nhất dưới giác độ của mình.
Có vô số thuộc tính như thế nhưng chúng ta chỉ biết được hai thuộc tính của thực thể
là tư duy (suy nghĩ) và quãng tính (vật chất)”[1,151]. “Do mọi sự vật đều bắt nguồn từ
Thực thể có tư duy và quãng tính nên chúng đều cấu thành từ vật chất và biết suy
nghĩ”[1,152]. “Thực thể quãng tính thể hiện sự phát triển của Thực thể thông qua sự
phát triển cấu trúc vật chất của sự vật. Thuộc tính tư duy thể hiện sự phát triển của
Thực thể thông qua sự phát triển khả năng tự suy nghĩ của sự vật nói riêng, của thực
thể nói chung về bản thân mình”.[1,152]
“Dạng thức và trạng thái là sự biểu hiện đơn lẻ của thực thể. Thực thể là thế
giới sản sinh. Còn sự vật hiện tượng là thế giới được sản sinh ra, là dạng thức của thực
thể. Dạng thức tồn tại trong không gian, thời gian, luôn vận động và bị chi phối bởi
luật nhân quả. Ngẫu nhiên không tồn tại đích thực mà nó chỉ là kết quả của việc xem
xét dạng thức một cách cô lập. Khi xem xét dạng thức trong tính chỉnh thể toàn vẹn,
đầy đủ (thực thể) thì ngẫu nhiên sẽ mất đi. Thế giới là tât nhiên.”[1,152]

Lý luận về thực thể của Spinoza thể hiện thế giới quan duy vật sâu sắc của ông.
Bởi vì, khi coi Thượng đế, Giới tự nhiên, Thực thể chỉ là một, Spinoza muốn khẳng
định rằng, bản thân Thượng đế cũng chỉ là Giới tự nhiên, vì vậy, Thượng đế cũng
mang tính tự nhiên. Còn bản thân Giới tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại
độc lập, vĩnh viễn, tự nó sản sinh ra nó; vì vậy, muốn tìm hiểu Giới tự nhiên phải xuất
phát từ chính bản thân Giới tự nhiên, xuất phát từ tư duy – một thuộc tính của Thực
thể - Giới tự nhiên để nhận thức Giới tự nhiên như một thực thể.
Trang
7
Tiểu luận triết học
1.2.1.3.3 Về con người.
1.2.1.3.3 Về con người.
Descartes coi con người là “một sự vật đặc biệt được tạo thành từ thực thể tinh
thần phi vật chất và thực thể vật chất phi tinh thần, nó vừa có linh hồn bất tử vừa có cơ
thể khả tử; là một sinh vật chưa hoàn thiện nhưng có khả năng đi đến hoàn thiện, là
bậc thang trung gian giữa Thượng đế và hư vô, nên con người vừa cao siêu, không
mắc sai lầm vừa thấp hèn, có thể mắc sai lầm”.[1,147]
Tuy nhiên, Spinoza coi con người là “dạng thức của thực thể, là sản phẩm của
giới tự nhiên và là mục đích cuối cùng triết học”[1,153]. Spinoza đã đưa ra lý luận
hoàn thiện hơn về con người so với Descartes. Spinoza cho rằng “do con người là một
dạng thức của thực thể, nên nó thể hiện ít nhất hai thuộc tính của thực thể (quãng tính
và tư duy) dưới dạng thể xác và linh hồn. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ giữa
cấu trúc và khả năng, vì vậy chúng tồn tại không thể tách rời nhau, nhưng cũng không
quy định nhau”[1,153].Và vì con người là sản phẩm giới tự nhiên, nên nó hoạt động
hoàn toàn theo quy luật tự nhiên. “Con người là sự thể hiện khả năng của giới tự nhiên
tự nhận thức, tự ý thức về mình. Trong quá trình nhận thức giới tự nhiên, con người
khám phá ra các quy luật của nó, và khi tuân theo quy luật này con người có thể hành
động một cách tự nhiên để giải quyết một cách hiệu quả mọi tệ nạn xã hội, mọi khó
khăn trong cuộc sống của chính mình”.[1,153].
1.2.1.4 Lý luận về linh hồn và nhận thức của con người.

1.2.1.4 Lý luận về linh hồn và nhận thức của con người.
Linh hồn: Descartes cho rằng: “linh hồn của con người bao gồm cả lý trí và ý
chí. Lý trí mang lại khả năng nhận thức sáng suốt, đúng đắn còn ý chí mang lại khả
năng chọn lựa, phán quyết, khả năng tự do giải quyết. Tuy nhiên ý chí cũng có thể dẫn
dắt linh hồn sa vào sai lầm. Nghi ngờ, tức suy nghĩ –tư duy, là hoạt động bản chất của
linh hồn con người”[1,147]. Và ông cho rằng “Do bắt nguồn từ Thượng đế mà trong
linh hồn con người có chứa sẵn một số tư tưởng hoàn thiện mang tính bẩm sinh luôn
đúng đắn, được sản sinh ra cùng lúc với sự sinh ra tôi” [1,147]. Ngoài ra, “trong linh
hồn con người còn có một số tư tương khác không hoàn thiện có thể mắc sai lầm. Đó
là các tư tưởng được linh hồn tự nghĩ ra, hay các tư tưởng được du nhập từ bên ngoài
vào khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh”.[1,148]. Còn Leibniz thì cho rằng:
“linh hồn con người là những “viên đá trắng” có tiềm ẩn vô số đường vân”. [1,159].
Trang
8
Tiểu luận triết học
Nhận thức: xuất phát từ quan niệm coi hoạt động bản chất của linh hồn là nhận
thức, và mọi chân lý đều bắt nguồn từ linh hồn lý tính ( trí tuệ), Descarter cho rằng
“nhận thức là quá trình linh hồn lý tính xâm nhập vào chính mình để khám phá ra tư
tưởng bẩm sinh ( các nguyên lý, quy luật của logic hay của toán học ) chứa đựng
trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận thế giới, giúp các khoa học lý thuyết xây
dựng các định lý, định luật về thế giới xung quanh”[2,62]. “Trực giác – năng lực linh
cảm của linh hồn lý tính mang lại những ý niệm rõ ràng, rành mạch, hiển nhiên là hình
thức nhận thức tối cao khám phá ra các tư tưởng bẩm sinh đó. Ông coi lý trí khúc chiết
chỉ nhận thức được chân lý khi nó dựa vào trực giác như là điểm khởi đầu và là hình
thức hoạt động trí tuệ cao nhất của mình để suy nghĩ một cách rõ ràng, rành mạch
những tư tưởng trong nó và do nó tự sinh ra, hay nắm lấy tư tưởng về các sự vật có thể
khẳng định hay phủ định. Bản thân lý trí khúc chiết tự nó không khẳng định hay phủ
định điều gì cả, nên nó không bao giờ mắc sai lầm”.[1,148].
Theo Descartes, một linh hồn vĩ đại cũng có thể sản sinh ra những điều nhảm
nhí, nếu nó không biết dựa vào một phương pháp luận đáng tin cậy. Vì vậy, nhiệm vụ

của siêu hình học là xây dựng các nguyên tắc mang tính phương pháp luận nhằm chỉ
đạo hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính, giúp hoàn thiện trí tuệ- năng lực tư duy,
đồng thời cũng là để giúp cho các ngành khoa học khám phá ra các chân lý. Theo ông,
có 4 nguyên tắc phương pháp luận nhận thức: một là, chỉ coi chân lý là những gì rõ
ràng, rành mạch, không gợn một chút nghi ngờ nào cả (nhờ vào trực giác). Hai là, phải
chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn giản cấu thành để tiện lợi trong việc
nghiên cứu. Ba là, quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng
nhất, dần dần đến những điều phức tạp hơn. Bốn là, phải xem xét toàn diện mọi dữ
kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì trong quá trình nhận thức.
Như vậy, theo Descartes, quá trình nhận thức đúng đắn phải dựa vào năng lực
trực giác của linh hồn lý tính để khám phá ra những tri thức bẩm sinh chứa sẵn trong
nó. Sau đó, linh hồn lý tính sử dụng hiệu quả tư duy phân tich một cách toàn diện và
phép suy diễn hợp lý ( diễn dịch toán học) để xây dựng mọi tri thức khoa học lý
thuyết; đồng thời, qua đó mà hoàn chỉnh lý trí khúc chiết để phát triển chủ nghĩa duy
lý.
Trang
9
Tiểu luận triết học
Spinoza coi nhận thức là “hoạt động mang bản chất của con người, nhận thức
bao gồm nhận thức cảm tính và lý tính. Nhận thức cảm tính cho phép cảm thụ được
tính đa dạng và sinh động của sự vật đơn lẻ, nhận thức lý tính cho phép nắm bắt
những đặc tính tổng quát và căn bản của sự vật”[1,154]. Và cũng giống Descartes, ông
cho rằng “trực giác không chỉ là năng lực nhận thức cao nhất của lý tính khám phá ra
bản chất của thực thể mà còn là tiêu chuẩn của chân lý”[1,154]. Spinoza đề cao nhận
thức lý tính, coi thường nhận thức cảm tính, cũng quy cho cảm tính trách nhiệm gây ra
sai lầm trong nhận thức.
Leibniz thì cho rằng “nhận thức là một quá trình tương đối đi từ những hiểu
biết mơ hồ đến hiểu biết chính xác chứ không phải là hành động trực giác”[1,159],
như Descates đã thừa nhận. Ông không thừa nhận sự tồn tại tư tưởng bẩm sinh, mà chỉ
thừa nhận sự tồn tại những khả năng bẩm sinh của con người. “Nhận thức là quá trình

khai thác những tri thức tiềm ẩn – đường vân có trong linh hồn con người”[1,159] ông
đã coi cả hai nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có vai trò quan trọng như nhau.
“Nhận thức cảm tính mang lại những chân lý sự kiện, nói về dáng vẻ bên ngoài cũa
những sự vật đơn lẻ” và “nhận thức lý tính mang lại những chân lý vĩnh hằng, nói về
bản chất bên trong của sự vật”. [1,159].
1.2.1.5 11 nguyên lý của siêu hình học mới.
1.2.1.5 11 nguyên lý của siêu hình học mới.
Leibniz đã thấy được những hạn chế của Descartes và Spinoza, ông ra sức xây
dựng một hệ thống triết học mới đóng vai trò nền tảng cho mọi khoa học và cho hoạt
động của con người. Vì vậy ông đã dựa trên 11 nguyên lý sau để xây dựng hai nội
dung cơ bản của siêu hình học mới:
Nguyên lý về sự khác nhau phổ biến, về sự đồng nhất, tính liên tục, tính gián
đoạn, tính toàn vẹn, tính hoàn thiện, mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực, tính cần
thiết tư duy lôgích, cơ sở đầy đủ, mối liên hệ phổ biến, tính thống nhất giữa cực đại và
cực tiểu để xây dựng hai nội dung cơ bản của Siêu hình học mới: [1, 156-157].
1.2.1.6 Hai nội dung của siêu hình học mới.
1.2.1.6 Hai nội dung của siêu hình học mới.
Đơn tử luận: Leibniz cho rằng trong thế giới giữa vật chất và tinh thần có tính
đa dạng và thống nhất nhau;còn sự vật đơn nhất thì có tính năng động . Từ đó, ông
đưa ra khái niệm về đơn tử-thực thể như là những điểm của Siêu hình học. “Đơn tử là
những đơn vị nhỏ nhất của tinh thần thể hiện trong lớp vỏ vật chất; chúng vừa cấu
Trang
10
Tiểu luận triết học
thành sự vật vừa làm cho sự vật sống động; nhưng chúng không có bộ phận, không
được sinh ra hay bị diệt vong, không phụ thuộc vào thế giới bên ngoài; chúng vừa độc
lập vừa liên hệ với nhau tạo thành một chuỗi vô tận kết nối các sự vật trên thế giới lại
với nhau thành một khối thống nhất tựa như một cơ thể sống động”. [1,157]. Và “đơn
tử không chỉ có năng lực hoạt động mà còn có khả năng nhận thức. Ứng với từng cấp
độ phát triển của thế giới có từng nhóm đơn tử với một mức độ năng động và khả

năng nhận thức riêng”. [1,157]. “Quá trình phát triển của các đơn tử từ thấp đến cao,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện luôn tuân theo nguyên tắc hài hòa tiền định, nghĩa là
theo sự sắp đặt cùa Thượng đế”. [1, 157].
Thần học: Ông cho rằng “Thượng đế vừa là đơn tử vừa là đấng sáng tạo ra các
đơn tử khác, là đơn tử của mọi đơn tử, là lý tính siêu thế giới. Giới tự nhiên, con người
chỉ là kết quả sáng tạo của Thượng đế”. [1, 158].
1.2.2 Khoa học.
1.2.2 Khoa học.
1.2.2.1 Trong lĩnh vực vật lý học.
1.2.2.1 Trong lĩnh vực vật lý học.
Descartes xây dựng lý luận về vật chất và vận động. Vật chất bao gồm các hạt
nhỏ, mịn có thể được phân chia đền vô cùng tận. Bản chất của vật chất là quãng tính;
hay quãng tính là thuộc tính của thực thể vật chất. Không gian, thời gian và vận động
là những thuộc tính gắn liền với những vật thể vật chất. Không có không gian trống
rỗng. Vận động của vật thể có nguồn gốc sâu xa từ cái hích ban đầu của Thượng đế;
sau đó, vận động của các vật thể không thể được sinh ra, không thể bị tiêu diệt ( bảo
toàn). Vận động của vật thể là vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật thể
thể trong không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học. Dựa
theo quan điểm này, Descarter xây dựng mô hình vũ trụ. Nhờ vào cái hích đầu tiên của
Thượng đế, thế giới có được một xung lượng ban đầu. Xung lượng này đưa vật chất
đồng nhất nguyên thủy – ete vào trạng thái chuyển động xoáy, dẫn tới sự hình thành
các hạt vật chất lớn dần. Đó là những hạt lửa bao trùm toàn bộ vũ trụ, những hạt
không khí rồi những hạt đất to nhất tạo thành các hành tinh và các vật cứng khác.
Xung lượng này luôn được bảo toàn trong quá trình vận động của vũ trụ”[1,149-150].
Tuy nhiên Leibniz cho là “giới tự nhiên là một hệ thống chỉnh thể liên kết vạn
vật tồn tại trong tính đa dạng của mình. Vạn vật trong giới tự nhiên đều được cấu
Trang
11
Tiểu luận triết học
thành từ các đơn tử -bản chất của vạn vật”. Ông đưa ra quan niệm về không gian

tương đối và thời gian tương đối. [1, 158].
1.2.2.2 Trong lĩnh vực toán học.
1.2.2.2 Trong lĩnh vực toán học.
Descartes có những tư tưởng biện chứng vượt trước thời đại. “Ông đã sửa đổi
lại đại số, dùng hình chỉ số; dùng chữ để chỉ những đại lượng biến thiên ( x, y, z ),
và đưa các đại lượng biến thiên vào trong toán học bên cạnh những đại lượng không
đổi ( a, b, c ). Từ đó, xuất hiện hình học giải tích, hàm số và phương pháp đồ thị
“[1,150].Với ý tưởng biện chứng này, Descartes đã đặt nền móng cho toán học hiện
đại. Đối với ông, “toán học là khoa học chính xác, rõ ràng, rành mạch nhất. Phương
pháp diễn dịch toán học là phương pháp chung để thu được tri thức đúng đắn; bởi vì
nó là phương pháp thể hiện rõ bốn nguyên tắc phương pháp luận nhận thức mà trí tuệ
phải tuân theo để đạt chân lý”.[1,150-151].
1.2.2.3 Trong lĩnh vực sinh học.
1.2.2.3 Trong lĩnh vực sinh học.
Lý luận về động vật, thực vật: Descartes phát triển tư duy duy vật máy móc về
sự phụ thuộc của tinh thần ( tâm lý) vào cơ cấu vật chất, trạng thái của các cơ quan
trong cơ thể. Từ đó, ông khẳng định “sự hình thành và phát triển của giới thực vật và
giới động vật là quá trình hoàn toàn tự nhiên, không có sự can thiệp của Thượng
đế”[1,150]. “Ông là người khám phá ra cơ chế phản xạ, coi mọi cơ thể sinh vật đều là
các cỗ máy có lắp đặt một cơ chế phản xạ, và coi mọi cơ thể sinh vật đều là các cỗ
máy có lắp đặt một cơ chế phản xạ. Sự hoạt động của cỗ máy này sinh ra linh hồn thực
vật và linh hồn động vật khả tử”[1,150]. Ông coi con người chỉ là một cỗ máy, là một
hệ thống có gắn liền với linh hồn lý tính, bất tử và con người có cấu trúc hoàn thiện cơ
thể động vật thông thường. Ông đã coi cơ thể con người là “khí quan vật chất, còn linh
hồn là chức năng hoạt động của cơ thể con người”[1,150]. Với quan điểm duy vật và
khoa học này, Descartes rất kỳ vọng vào y học trong việc cải tạo thể xác và đời sống
tinh thần của con người.
Trong nhân bản học: Leibniz coi con người là “sự thống nhất giữa linh hồn và
thể xác. Thể xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, linh hồn là cái bản chất tiềm ẩn bên trong.
Ông cũng xem con người là cái máy tự nhiên có tính tổ chức cao do Thượng đế tạo

ra”. [1,158].
Trang
12
Tiểu luận triết học
Chương II
Chương II
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ
TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
2.1 NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG
2.1 NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG


TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
Chủ nghĩa duy lý ra đời đã có ý nghĩa rất to lớn đối với thời đại, nó đã chống
lại những đạo lý kinh viện của tôn giáo, góp phần đưa con người thoát khỏi những
niềm tin không có căn cứ của giáo lý. Các nhà triết gia trong thời kỳ này đã hoàn
thành xứ mạng của mình là đặt nền móng cho khoa học lý thuyết phát triển sau này.
Giá trị thứ 1: Đề cao vai trò của lý trí trong lý luận về nhận thức để chống lại
những đạo lý kinh viện của tôn giáo, chống lại lòng tin vô căn cứ. Descartes đã đề cao
vai trò của lý trí trong tư duy “ Tôi tư duy nên tôi tồn tại”. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên
lý trên là ở chỗ nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối những gì mà người ta
mê tín. Descartes phê phán chủ nghĩa kinh viện đã tạo ra một tri thức ít ỏi. Ông khẳng
định về bản chất hệ thống triết học của ông là “khác với các nhà thần học; tôi với tư
cách là nhà triết học đã trình bày một triết thuyết không hề tuân thủ một tôn giáo
nào Và do vậy có thể được tiếp nhận khắp nơi ” [8].Thật vậy, vì triết học của ông
không tuân thủ một tôn giáo nào nên nó thoát ra tất cả những giáo điều mà các tôn
giáo đã áp đặt. Chính vì nó thoát ra khỏi tôn giáo cho nên được nhân loại chấp nhận

một cách khách quan.
Còn Spinoza cho rằng “Ý chí là sức mạnh của ý tưởng nên giá trị luân lý của
các ước vọng tùy vào giá trị của chân lý, của ý tưởng mà chúng ta gán cho đối tượng
được ước muốn”[5]. Đây được coi là một thành tích vượt bậc của các triết gia thời đại.
Bởi sau thời Trung cổ, ở Tây Âu trí tuệ vẫn tiếp tục phải chịu ảnh hưởng của hai thiên
kiến đó là: sự ấn định của nhà thờ thông qua những tín niệm trở thành những chân lý
bất di bất dịch và sự thống trị của Aristote về mặt học thuật. Đến thời cận đại, con
người biết dùng lý trí để nhận thức một cách đúng đắn về thế giới. Ngoài ra, từ những
nguyên lý siêu hình học của mình các triết gia đã đặt nền móng vững chắc cho khoa
học lý tuyết.
Trang
13
Tiểu luận triết học
Giá trị thứ 2: Các nhà triết học có những cống hiến to lớn về khoa học, tạo nền
tảng cho sự phát triển của triết học, khoa học và kĩ thuật sau này.
Trong lĩnh vực vật lý học, Descarter xây dựng “lý luận về vật chất và vận động.
Vận động của vật thể là vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật thể thể
trong không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học. Dựa theo
quan điểm này, Descarter xây dựng mô hình vũ trụ”.[1,149]. “Descartes thừa nhận tính
vĩnh cửu của vật chất. Vận động cơ học được ông xem như là một biểu hiện sức sống của vật
chất. Vận động được chuyển từ vật này đến vật khác và không bao giờ bị tiêu diệt. Luận
điểm của Descartes về tính không bị tiêu diệt của vận động được Ph.Ăngnhen đánh giá như
một thành tựu khoa học vĩ đại”.[6,18].
Trong lĩnh vực toán học, “với tác phẩm “ Luận về phương pháp” (1637), R.
Descartes đưa ra phép diễn dịch toán học dành cho khoa học lý thuyết. Dù mang tính
siêu hình nhưng phương pháp này đã thay thế phương pháp kinh viện của học phái
Aristote để giải quyết những nhiệm vụ khoa học do thời đại đặt ra”[2,67]. “Ông chủ
trương xây dựng môn "logic dạy cách vận dụng lý tính một cách tốt nhất nhằm nhận
thức những chân lý" mà con người còn chưa tìm ra”[9]. “Descartes sáng tạo ra hình
học giải tích, cho phép ông mô tả bằng phương trình các hình hình học như hình tròn

hay hình tam giác. Ông là nhà toán học đầu tiên phân loại các đường cong dựa theo
tính chất của các phương trình tạo nên chúng. Ông cũng có những đóng góp vào lý
thuyết về các đẳng thức. Descartes cũng là người đầu tiên dùng các chữ cái cuối cùng
của bảng chữ cái để chỉ các ẩn số và dùng các chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái để chỉ
các giá trị đã biết. Ông cũng đã sáng tạo ra hệ thống ký hiệu để mô tả lũy thừa của các
số (chẳng hạn trong biểu thức x²). Mặc khác, chính ông đã thiết lập ra phương pháp,
gọi là phương pháp dấu hiệu Descartes, để tìm số nghiệm âm, dương của bất cứ
phương trình đại số nào.”[8].
Trong lĩnh vực sinh lý học, Descartes giữ quan điểm rằng “máu là một chất
lỏng tinh tế mà ông gọi là hồn của động vật. Ông tin rằng hồn động vật tiếp xúc với
chất suy nghĩ ở trong não và chảy dọc theo các dây thần kinh để điều khiển cơ bắp và
các phần khác của cơ thể”.[8]. Nhưng tới khi Leibniz thì ông đã coi “con người là sự
thống nhất giữa linh hồn và thể xác.”[1,158].
Trang
14
Tiểu luận triết học
Về quang học, Descartes đã “khám phá ra định luật cơ bản của sự phản xạ: góc
tới bằng góc phản xạ. Tiểu luận của ông là văn bản đầu tiên trình bày đề cập đến định
luật này. Việc Descartes xem ánh sáng như một thứ áp lực trên môi trường chất rắn đã
dẫn đường cho lý thuyết sóng của ánh sáng”.[8].
Giá trị thứ 3: Lý luận về con người: hướng tới sự hoàn thiện và phát triển khả
năng trí tuệ của con người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển. Descartes cho rằng
một ai đó "dù đi rất chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng, vẫn có thể vượt xa so với
những ai mặc dù chạy nhưng lai không đi theo con đường thẳng ấy"[9]. “Luận điểm
"Cogito, ergo sum" của Descartes có ý nghĩa tích cực: nó chống lại quan niệm giáo
điều, giáo lý nhà thờ, đồng thời nó đề cao vai trò đặc biệt của lý tính, của trí tuệ con
người, coi đó là chuẩn mực đánh giá suy nghĩ và hành động của con người.”[7].
Leibniz coi con người là “sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác. Trong đó, thể xác là
cái vỏ bên ngoài, linh hồn là cái bản chất tiềm ẩn bên trong”.[1,158-159].
Giá trị thứ 4: Chủ nghĩa nhân đạo mang sắc thái mới-chủ nghĩa dân chủ,

mang lại hạnh phúc, tự do cho con người từ khả năng chinh phục tự nhiên, chứ không
dừng lại ở lý tưởng như thời kỳ phục hưng. “Spinoza là người sáng lập chế độ dân chủ
và thúc giục giáo hội phải lệ thuộc vào quốc gia. Ông bảo vệ quyền tự do, bày tỏ ý
kiến và trên tất cả tìm cách giải phóng con người khỏi sự sợ hãi” [5,374].
2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN
2.2 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN


PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
Hạn chế thứ 1: Chỉ thấy một mặt của quá trình nhận thức-mặt lý tính, do đó
cơ sở phương pháp luận này cũng mang tính siêu hình, phiếm diện -phương pháp siêu
hình tư biện. Spinoza “đề cao nhận thức lý tính, coi thường nhận thức cảm tính và quy
cho cảm tính (đặc biệt là những cảm xúc tiêu cực) trách nhiệm gây ra những sai lầm
trong nhận thức.” còn Descartes thì cho rằng “ Tôi tư duy nên tôi tồn tại” với câu nói
trên ta thấy Descartes đã đề cao vai trò của lý tính trong nhận thức mà quên đi cái thực
nghiệm của các thí nghiệm thực tế. Ông cho rằng “ nhiệm vụ của thí nghiệm không phải
là phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳng định những tri thức, những quy luật mà
lý trí phát hiện ra”[3,18] .Ông cho rằng chân lý ở ngay trực giác của con người “sự tồn
tại của suy nghĩ là chân lý”, “trực giác là con đường chắc chắn nhất dẫn đến tri thức
Trang
15
Tiểu luận triết học
mà người ta có thể sử dụng thoải mái hoàn toàn không sợ bị ảo giác”[6,45]. Ông đã
thừa nhận một cách sai lầm rằng, những nguyên tắc cơ bản của logic học và toán học là
những cái “bẩm sinh”, không phụ thuộc vào kinh nghiệm. Descartes đã không nhìn thấy rằng
không thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản
thân đời sống thực tiễn xã hội. Leibniz thì cho rằng “đơn tử không chỉ có năng lực hoạt
động mà còn có khả năng nhận thức”[1,159].
Hạn chế thứ 2: Có những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội,

nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích vấn đề
xã hội và lịch sử. Descartes cho rằng “cái vật chất đã vượt ra ngoài phạm vi của cái
tâm lý. Song, vì chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chưa dám và cũng không
thể bác bỏ những giáo lý trong Kinh thánh để nói rằng cái vật chất có ảnh hưởng đến
cái tinh thần, quyết định cái tinh thần, nên ông chỉ mới phân biệt linh hồn với thể xác.
ông cho rằng thế giới vật chất là một thế giới riêng biệt và nó chỉ tuân theo những luật
của vật chất, và do vậy, nhưng ai muốn nghiên cứu vũ trụ thì cần phải rời bỏ hết
những thành kiến của linh hồn”[9]. Leibniz cũng cho rằng Thượng đế tạo ra con
người. “Con người là sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác” tuy nhiên “ông cũng
xem con người là cái máy tự nhiên có tính tổ chức cao do thượng đế tạo ra”[1,158-
159]. “Đơn tử không chỉ có năng lực hoạt động mà còn có khả năng nhận thức. Ứng
với từng cấp độ phát triển của thế giới có từng nhóm đơn tử với một mức độ năng
động và khả năng nhận thức riêng”[1,159]
Hạn chế thứ 3: Chịu ảnh hưởng của các quan niệm cơ học, cơ giới nên quan
điểm về thế giới mang tính duy vật siêu hình, máy móc. Spinoza cho rằng “vật chất
chỉ là một trong vô vàn thuộc tính của thực thể- thượng đế- giới tự nhiên, chứ không
phải là nguồn gốc duy nhất của mọi sự vật” và “ không chỉ có con người mà mọi sự
vật trong giới tự nhiên đều biết tư duy”.[1,152]
Hạn chế thứ 4: Không vạch ra mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng và không
xác định đúng đắn nguyên nhân của sự vận động và phát triển. “Descartes thừa nhận sự
xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá trình vận động. Nhưng ông chưa thấy sự
khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống là một cỗ máy phức tạp. Ông cho
rằng, sự khác biệt giữa con người và con vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật
Trang
16
Tiểu luận triết học
chất mà còn là một thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông không phụ thuộc vào qúa trình
vật chất”[3,18].
PHẦN KẾT LUẬN
“Chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại” ra đời không những có vai

trò to lớn trong việc đưa tư duy biện chứng lên đỉnh cao ở thế kỷ XVII-XVIII, mà còn
đáp ứng được đơn đặt hàng của lịch sử đặt ra, đó là giúp giải phóng con người thoát
khỏi thống trị của Thiên chúa giáo. Do sự thống trị của Thiên chúa giáo nên con người
đã tin những giáo điều vô căn cứ, không những không giải thoát con người vào những
tư duy vô thần mà còn khiến con người hiểu sai về thế giới, về giới tự nhiên.
Chủ nghĩa duy lý tư biện ra đời đã dặt nền móng vững chắc cho khoa học tự
nhiên phát triển, với những đóng góp của các triết gia về mặt khoa học như: toán học,
vật lý, sinh học và đặc biệt trong phương pháp tư duy suy luận của con người. Nó
được Descatres đặt nền móng, Spinoza và Leibniz xây dựng hoàn thiện hơn. Triết gia
Descartes qua câu nói bất hủ “Tôi tư duy nên tôi tồn tại” đã giúp cho nền triết học của
Trang
17
Tiểu luận triết học
phương Tây nói riêng mà còn cho cả thế giới nói chung phát triển một cách mạnh mẻ.
Chính vì sự nghi ngờ mà con người không an phận với những hiện trong tự nhiên,
chấp nhận những gì thiên nhiên đã tạo. Con người không chấp nhận mình phụ thuộc
vào thiên nhiên và những thế lực siêu nhiên chi phối. Con người không chỉ tin vào khả
năng của mình mà bắt thiên nhiên phải phục vụ cho mình qua tư duy sáng tạo.
Bên cạnh những đóng góp to lớn về nền triết học, khoa học cho phương Tây
sau này nhưng chủ nghĩa duy lý vẫn còn nhiều mặt hạn chế: do sự thống trị lâu dài của
thiên chúa giáo thời trung cổ, nên mặt dù có những tư tưởng tiến bộ vượt bậc về giới
tự nhiên, về xã hội nhưng Descartes, Leibniz chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo,
vẫn coi thượng đế sinh ra vạn vật, kể cả con người. Đây là những tư tưởng siêu hình
máy móc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS.Bùi Văn Mưa, Đại cương về lịch sử triết học, phần 1,Nxb đại học kinh tế Tp HCM,
Tp HCM, 2011.
2. TS.Bùi Văn Mưa, Triết học & Bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học quốc gia
Tp Hồ Chí Minh, Tp HCM, 2008.

3. Th.S Trịnh Đình Thanh,Triết học phương Tây.
4. Nguyễn Ước, Đại cương triết học phương Tây, Nxb Tri Thức, 2009.
5. Hoàng xuân Việt, Lịch sử triết học phương Tây, Nxb tổng hợp Tp HCM, Tp HCM,
2004.
6. Samuel enoch stumpf & Donald C.abel, Nhập môn triết học phương Tây, Lưu Văn Hy
biên dịch, Nxb tổng hợp Tp HCM, 2004.
7.
Itemid=265&id=376&option=com_content&task=view
Trang
18
Tiểu luận triết học
8.
option=ban_tin&view=ban_tin_chitiet&cd_id=28&post_id=3804&lang=vn.
9.
Trang
19

×