Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.14 KB, 19 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế
Phòng Quản Lý Đào Tạo Sau Đại Học
CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHẤT PHÁC
HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ
TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
GVHD: TS Bùi Văn Mưa
Học viên: Huỳnh Thị Diễm Hà
Lớp: CHKT – K21 – Đêm 5
TPHCM 2012
MỤC LỤC
M? Đ?U 3
CHƯƠNG 1: NH?NG TƯ TƯ?NG CƠ B?N C?A CH? NGHIA DUY V?T CH?T PHÁC HY L?P C? Đ?I 3
Hoàn c?nh ra đ?i 4
Các tư tư?ng, trư?ng phái cơ b?n ch? nghia duy v?t ch?t phác Hy L?p c? đ?i 4
Khái ni?m 5
Trư?ng phái Milê 5
Trư?ng phái Hêcralit 8
Trư?ng phái đa nguyên Empêđ?c – Anaxago 9
Trư?ng phái nguyên t? lu?n Lơxip – Đêmôcrit 10
CHƯƠNG 2: GIÁ TR? VÀ H?N CH? C?A CH? NGHIA DUY V?T CH?T PHÁC HY L?P C? Đ?I 14
Giá tr? c?a ch? nghia duy v?t ch?t phác Hy L?p c? đ?i 14
H?n ch? c?a ch? nghia duy v?t ch?t phác Hy L?p c? đ?i 15
K?T LU?N 16
TÀI LI?U THAM KH?O 17
2
MỞ ĐẦU
- Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, là
thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy lạp cổ đại không chỉ là một
trung tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Người Hy Lạp đã
xây dựng một nền văn minh vô cùng sáng lạng với những thành tựu rực rỡ
thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nền văn minh


phương tây hiện đại. Vì vậy, Angghen đã nhận xét: “Không có cơ sở văn minh
Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được”
- Thời kì cổ đại ở đây đã tích trữ được một khối lượng tri thức khổng lồ trên
nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thiên văn học, thuỷ văn đặc biệt không thể
không nhắc tới chính là triết học.
- Triết học Hy Lạp cổ đại, cụ thể là chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại
mở đầu cho một chặng đường dài hình thành và phát triển của triết học
phương tây.
- Thời kì này triết học được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức
nổi tiếng : Acsimet, Talet, Hêraclit, Đêmocrit, Platôn, Arixtốt. Chính các đại
biểu này đã tạo nên một nền triết học phát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta
đã được thừa hưởng.
- Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã và đang tác động mạnh mẽ
đến đời sống kinh tế - xã hội, và hẳn ai cũng biết đó là nhờ các lĩnh vực khoa
học cụ thể như: hoá học, vật lý, sinh học nhưng triết học thì sao? chúng ta
cần phải khẳng định rằng không nhiều người trong chúng ta hiểu được vai trò
của triết học đối với cuộc sống của con người, Nhiều người vẫn chưa hiểu triết
học là gì. Vậy triết học là gì? vai trò của nó như thế nào đối với cuộc sống của
chúng ta. Đây chính là nhiệm vụ của những sinh viên. Chúng ta cần phải tìm
hiểu triết học nói chung và trong số đó là chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp
cổ đại.
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
3
I. Hoàn cảnh ra đời:
- Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu
tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
- Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất
liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban Căng và

Tiểu Á.
- Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao
lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều nay góp phần thúc đẩy
việc hình thành tầng lớp trị thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lí
luận để nghiên cứu triết học và khoa học.
- Hy Lạp cổ đại là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy
Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì
không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và
đế quốc La Mã”.
- Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí, nơi thể
hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận , ……nơi đầu tiên để tư duy
triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy
về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người.
- Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy Lạp
cổ đại (mà đỉnh cao là nên dân chủ Aten) và phản ánh lịch sử của đất nước
này.
- Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau: thời kì hình thành, thời
kì cực thịnh và thời kì suy tàn. Cuộc đấu tranh giữa 2 khuynh hướng nhất
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã để lại
dấu ấn trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
- Trong đó chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã để lại dấu ấn sâu
sắc nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại với các trường phái Mile,
Heraclit,…
II. Các tư tưởng, trường phái cơ bản chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp
cổ đại:
4
1. Khái niệm:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại ra đời ở Hy Lạp vào thời kì

mà xã hội xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhìn chung nó mang
tính duy vật tự phát. Ngay khi mới ra đời, nó đã tìm cách giải thích thế
giới như một chỉnh thể thống nhât trong đó các sự vật vận động và biến
đổi không ngừng. Đề cao vai trò trí tuệ, vai trò của tư duy lý tính thể hiện
trình độ tư duy trừu tượng hết sức cao.
- Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm
của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì
chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu
dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là
những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm
về thế giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính
của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó
phụ thuộc vào vật chất.
- Anghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời
cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite:
mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi
đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình
xuất hiện và biến đi”.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thời cổ đại, mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác, chưa
dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó
chưa phát triển. Tuy còn hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời
cổ đại về cơ bản là đúng vì đã lấy giới tự nhiên để giải thích tự nhiên,
không sử dụng đến thần linh hay thượng đế khi nói về vũ trụ.
- Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển, đặc biệt
thiên văn, toán học, y học… Triết học duy vật nhờ đó phát triển rực rỡ,
chứa đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó. Sau đây ta sẽ xem xét
một số trường phái tiêu biểu.
2. Trường phái Milê:

5
- Trường phái Milê tự phát đầu tiên trong triết học Hi Lạp cổ đại vào thế
kỉ 6 trước công nguyên. Thời ấy, Milê là một trung tâm thương mại,
hàng hải lớn, điều này tạo điều kiện mở rộng tầm nhìn của con người,
kích thích sự phát triển khoa học và văn hoá (thiên văn, toán học, địa lí,
nghệ thuật tạo hình, triết học).
- Những nhà triết học ở Milê (tiêu biểu là Thalet, Anaximanđrôt,
Anaximênêt) không tin vào thần thoại truyền thống (coi các thần linh là
nguyên nhân tạo ra thế giới).
- Họ cho rằng bản chất duy nhất, bản nguyên của thế giới là một vật thể
xác định (theo Thalet đó là nước, theo Anaximanđrôt đó là một thực thể
vô định và vô hạn, theo Anaximênêt đó là không khí.) hoặc là một chất
không xác định, vô hình, vô thuỷ vô chung, gọi là apeiron, vĩnh viễn vận
động, tự tách ra những mặt đối lập đấu tranh với nhau (nóng và lạnh), kết
hợp lại hoặc phân rã ra tạo thành thế giới muôn hình vạn trạng.
 Thalet:
+ Thalet xuất thân từ một gia đình thương nhân giàu có, ông có điều
kiện đi du lịch ở nhiều nước, quen biết nhiều nhà triết học phương
Đông, qua đó tiếp thu được nhiều kiến thức mới mẻ và công lao của
ông là nâng tri thức đó lên trình độ khoa học .
+ Thalet đã làm cho hình học trở thành môn khoa học. Từ những kinh
nghiệm chiêm tinh, phỏng đoán thiên văn học Babilon,…. Hiện tượng
động đất được ông giải thích là sự đụng chạm giữa trái đất và sóng
biển trong bão tố. Đó là cách giải thích ngây thơ chưa có cơ sở khoa
học, nhưng ở thời bấy giờ, nó có ý nghĩa về thế giới quan duy vật.
+ Thành tựu nổi bật của Thalet là quan niệm triết học duy vật. Ông cho
rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới.
Mọi vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo
Thalet, vật chất (nước) tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì
biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một

chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nước
là nền tảng .
6
+ Những quan niệm triết học duy vật của ông giải thích giới tự nhiên
tuy còn mộc mạc thô sơ, nhưng có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới
quan tôn giáo đương thời và chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng tự
phát .
 Anaximanđrôt:
+ Ông là người sáng tạo ra đồng hồ mặt trời , vẽ bản đồ địa lý về bề mặt
trái đất về biển Hy Lạp, làm ra quả địa cầu giúp cho ông việc xác định
phương hướng trong các cuộc hành trình. Ông người theo thuyết địa
tâm, coi quả đất là trung tâm của vũ trụ. Sự vận động xoay tròn của
quả đất là nguyên nhân sinh ra nóng lạnh.
+ Ông cho rằng: cơ sở của sự hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một
dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn – Đó là
Apeiron.
+ Apeiron không chỉ là nguồn gốc sinh ra vạn vật mà đồng thời là cơ sở
vận động của vạn vật, nhờ Apeiron nảy ra những mặt đối lập nhau
như: nóng - lạnh, khô – ướt, sinh ra – chết đi … Như vậy ông đã bác
bỏ quan niệm về sự đồng nhất tuyệt đối, không có khác biệt của sự
vật.
+ Ông cho rằng , tổng thể vật chất thì không thể chuyển thành một tổng
thể vật chất nào khác nó, còn các dạng vật chất cụ thể thì thường
xuyên biến đổi, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
 Anaximênêt:
+ Đứng trên quan điểm duy vật chất phác, ông nghiên cứu thiên văn học
và triết học.
+ Theo ông, không khí là nguồn gốc, là bản chất của mọi vật và là bản
nguyên của thế giới vì nó giữ vai trò quan trọng trong đời sống tự
nhiên và con người: ngay cả các vị thần thánh cũng đều sinh ra từ

không khí .
+ Ông cho rằng, hơi thở chính là không khí. Không khí là cái vô định
hình, mà bản thân Apeiron cũng chỉ là một tính chất của không khí
7
- Ý nghĩa lớn của trường phái Mile trong lịch sử là tìm cách giải thích thế
giới một cách hợp lí từ bản thân thế giới tự nhiên chứ không phải là từ
bên ngoài nó, đồng thời cũng đề ra những quan niệm biện chứng ngây
thơ (đấu tranh giữa các mặt đối lập, lượng chuyển hoá thành chất, tính tất
yếu,…).
3. Trường phái Hêcralit:
- Theo Mác – Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép biện chứng,
hơn nữa ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Phép biện chứng của Hêraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ
thống các luận điểm khoa học, nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu danh ngôn
mang tính thi ca và triết lý.
- Hêcraclit đã nêu lên tư tưởng về sự vận động vĩnh viễn của vật chất.
Theo Hêraclit không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt
đối, mà trái lại, tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành
cái khác và ngược lại.
- Ông cho rằng thế giới muôn vật không do thần thánh nào tạo nên, cũng
không phải con người tạo ra mà là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen
nhóm lên. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hoá
qua lại. Ông nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi
"người ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". "Mặt trời luôn luôn đổi
mới và vĩnh viễn đổi mới".
- Sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do quy luật khách
quan (mà ông gọi là logos ) quy định. Logos khách quan là trật tự khách
quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ,
học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù

hợp với logos khách quan, nhưng nó biểu hiện ở từng người có khác
nhau. Người nào càng tiếp cận được nhiều logos khách quan bao nhiêu
thì càng thông thái bấy nhiêu.
- Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật. Mọi vật đều nảy nở trong quá
8
trình đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục của sự vật tuân theo
các yếu tố khách quan, qui luật quyết định.
- Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh hiện
tượng khách quan. Ông chia quá trình nhận thức ra làm 2 giai đoạn cảm
tính và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể
chỉ có một giai đoạn tồn tại độc lập.
- Lý luận nhận thức của Hêraclit mang tính chất duy vật và biện chứng
sơ khai. Nhưng cơ bản là đúng đắn.
- Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn vật. Mọi
vật trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự biến hoá của sự vật
dựa trên sự chuyển hoá của chúng thành những dạng vật chất đối lập với
bản thân chúng. "Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ
cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
4. Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago:
- Để lý giải tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật,
Empêđốc và Anaxago đã cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sơ khai của
trường phái Milê và Hêcralit, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất
của thế giới vật chất đa dạng.
 Empêđốc:
+ Xuất phát điểm của ông là thừa nhận bốn nguyên tố chính khởi
nguyên của vạn vật: lửa, nước, không khí và đất, chúng chịu sự tác
động của 2 loại lực là tình yêu và hận thù.
+ Mỗi nguyên tố này tồn tại độc lập bất biến do đó chúng mang tính
thần thánh. Dưới sự tác dụng của lực tình yêu, đất, nước, không khí,

lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật, nhưng dưới tác dụng của lực hận thù,
chúng bị chia tách ra làm vạn vật biến mất.
+ Empêđốc đi từ việc thần thánh hóa các nguyên tố đến nhân cách hóa
các sự vật, ông gán cho chúng những thuộc tính của con người.
+ Ông cho rằng vũ trụ luôn vận động trải qua chu trình phát triển gồm 4
giai đoạn:
• Giai đoạn 1: tình yêu chiến thắng và ở trung tâm vụ trụ, hận thù
bị thất bại và bị đẩy ra ngoài biên. Vũ trụ như 1 quả cầu duy nhất,
đồng nhất, thống nhất và không phân chia.
9
• Giai đoạn 2: hận thù tiến dần vào tâm vũ trụ, tình yêu bị đẩy khỏi
tâm, vũ trụ bắt đầu phân hóa.
• Giai đoạn 3: hận thù chiến thắng, tình yêu thất bại, vũ trụ bị phân
hóa thành 4 yếu yếu tố, đất, nước, không khí, lửa.
• Giai đoạn 4: tình yêu tiến dần vào tâm vũ trụ, hận thù bị đẩy ra
khỏi tâm. Dưới sự tác dụng của lực tình yêu, đất, nước, không
khí, lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật, hay tách ra khỏi nhau dưới
tác dụng của hận thù.
 Anaxago:
+ Tiếp nối quan điểm đa nguyên nhưng Anaxago không cho rằng vạn
vật là sự kết hợp của đất nước, không khí và lửa, mà ông cho rằng vạn
vật là phải được sinh ra từ những cái tương tự như chúng, ông gọi đó
là các hạt giống – cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng
loại.
+ Hạt giống cực nhỏ và có khả năng phân chia đến vô tận. Do vạn vật
có vô số nên tồn tại vô số hạt giống.
+ Sự biến hóa về chất của vạn vật là kết quả thay thế phần lớn các hạt
giống trong chúng. Để hạt giống sinh sôi, nảy nở hay thay thế nhau
cần phải có 1 động lực. Đó là Nus – trí tuệ thuần túy hay linh hồn của
thế giới.

+ Theo Anaxago, mầm nào sẽ sinh ra giống nấy, nhưng do mỗi hạt
giống có thể được phân chia đến vô cùng và bản thân nó không đồng
nhất, nghĩa là nó chứa tất cả các hạt giống khác ở liều lượng nhỏ hơn,
cho nên, mỗi cái chứa mọi cái. Đây là 1 ý tưởng biện chứng khá độc
đáo.
5. Trường phái nguyên tử luận Lơxip – Đêmôcrit:
- Đây là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại trong giai đoạn cực
thịnh với các đại biết Lơxip và Đêmôcrit. Trong đó Lơxip là người đầu
tiên nêu lên các quan niệm về nguyên tử. Đêmôcrit là người phát triển
các quan niệm này thành 1 hệ thống chặt chẽ có sức thuyết phục.
- Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng với những thảnh tựu đạt được,
Đêmôcrit đã nâng chủ nghĩa duy vật Hy Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ
10
sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh hàng lúc bấy
giờ.
 Lơxip:
+ Lơxip là người đầu tiên ở Hy lạp cổ đại nêu lên học thuyết nguyên
tử. Các tác phẩm trình bày học thuyết của ông không được lưu giữ ,
người ta biết ông qua Đêmôcrit hoặc qua các nhà triết học khác.
+ Lơxip cho rằng, mọi sự vật đều được cấu thành từ những nguyên tử.
Đó là những vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn
về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể
thẩm thấu được, không có chất lượng, các nguyên tử khác nhau về
kích thước và hình thức, sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có
hình thức sắp xếp khác nhau của các nguyên tử.
+ Lơxip đã đề cập đến tính nhân quả tất yếu trên quan điểm quyết định
luận duy vật, chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm. Ông
khẳng định “Không một sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất
cả đều phát sinh trên một căn cứ nào đấy, và do tính tất nhiên”.
 Đêmôcrit:

+ Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là
người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo
đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển quan
điểm của Lơxip.
+ Đêmôcrit xây dựng học thuyết nguyên tử luận về thế giới. Theo ông
khởi nguyên của thế giới không phải là một sự vật cụ thể nào đó như
nhiều học thuyết trước đó đã quan niệm mà là các nguyên tử (theo
tiếng Hy Lạp cổ: nguyên tử – atoma – nghĩa là các phần tử nhỏ nhất,
đơn vị) tức tồn tại và khoảng không, tức cái không – tồn tại. Nếu như
các nhà triết học phái E lê phủ nhận các không – tồn tại , thì
Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận – theo nhận xét của Aritốt –
thậm chí còn cho rằng “cái tồn tại có thực không hơn gì cái không –
tồn tại, bởi vì sự vật tồn tại không mảy may hơn gì khoảng không, và
cả hai đều là nguyên nhân vật chất”. Cái không – tồn tại chính là
11
khoảng không trống rỗng , nó không ảnh hưởng gì tới các sự vật
( tức là tồn tại) trong nó cả.
+ Giữa tồn tại (tức là các nguyên tử) và cái không tồn tại (tức khoảng
không) có nhiều đặc tính khác nhau. Các nguyên tử thì đậm đặc hoàn
toàn, còn khoảng không thì hoàn toàn trống rỗng. Các nguyên tử thì
rất đa dạng trong khi khoảng không thì thuần nhất. Các nguyên tử
bao giờ cũng có kích thước, hình dạng nhất định, nhưng khoảng
không lại vô tận và không có hình dạng nào cả.
+ Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm
thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng
khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tử là
vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi
những nguyên tử do sự kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự
và thế nhất định. Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp
xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không

thay đổi.
+ Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt
chẽ giữa vật chất và vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử
chứ không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được
nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong
chân không của các nguyên tử.
+ Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn
nhau theo quy luật nhân quả tính khách quan trong tính tất yếu của
sự vật, hiện tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit
vào triết học duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi
ngẫu nhiên là một hiện tượng không có nguyên nhân.
+ Đêmôcrit bác bỏ quan niệm về sự sản sinh ra sự sống và con người
của thần thánh. Theo ông, sự sống là kết quả của quá trình biến đổi
dần đần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên sống ở dưới
nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông
coi cái chết là sự phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của
12
những nguyên tử cấu tạo lên linh hồn chứ không phải linh hồn rời
khởi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc
song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm
duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người.
+ Vũ trụ nói chung, theo Đêmôcrit, là khoảng không vô cùng tận trong
đó chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu thành từ vô vàn các
loại nguyên tử. Không bàn đến các vấn đề nguồn gốc của các nguyên
tử và vũ trụ nói chung, Đêmôcrit tìm cách giải thích sự hình thành
các thế giới khác nhau trong vũ trụ. Theo ông , các thế giới này sinh
ra đều có căn nguyên của chúng. Vì mức độ phân bố các nguyên tử
trong khoảng không đều không đều nhau, nên ở khoảng không nào
chứa nhiều nguyên tử thì chúng thường xuyên va chạm vào nhau, tạo
thành các luồng gió xoáy tròn, đẩy các nguyên tử nặng và to quy tụ

vào thành tâm. Các nguyên tử nhẹ và nhỏ hơn thì bị đẩy ra vùng
ngoại biên. Nhờ đó, các hành tinh, kể cả trái đất được tạo nên. Lửa,
không khí, ánh sáng, nhờ những luồng gió xoáy – do chuyển động
của các nguyên tử theo hình xoáy tròn – đã tạo ra bầu trời. Các hành
tinh cũng thuộc về thế giới chúng ta. Mỗi thế giới tựa như một hình
cầu được khép kín bởi các nguyên tử hình cong. Các thế giới cũng
nằm trong quá trình biến đổi, vận động không ngừng.
+ Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải
quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của
cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận
thức thế giới.
+ Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung
quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng nhận thức vào
con người nên con người mới nhận thức được.
+ Đêmôcrit phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức
chân lý. Nhận thức mờ tối do các giác quan đem lại còn nhận thức
chân lý là do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản chất bên
trong của nó.
13
+ Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng trong chủ
nghĩa vô thần. Ông cho rằng sự tồn tại của thần chẳng qua là sự cách
hoá những hiện tượng của tự nhiên hay những thuộc tính của con
người chẳng hạn thần Dớt là sự nhân cách hoá mặt trời, thần ATêna
là sự nhân cách hoá thuộc tính của con người.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CHẤT PHÁC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Giá trị của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề căn
bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học sẽ từng bước giải
quyết theo nội dung của thời đại mình.

- Chính trong thời Hy Lạp cổ đại chủ nghĩa duy vật thô sơ mộc mạc đã ra
đời, chính nó đã là tiền đề cho các chủ nghĩa duy vật sau này. Chủ nghĩa
duy vật cổ đại ra đời từ nhu cầu hình thành các tri thức khoa học và từ cuộc
đấu tranh của bộ phận giai cấp chủ nô dân chủ tiến bộ chống giai cấp chủ
nô quý tộc bảo thủ. Mặc dù chủ nghĩa duy vật cổ đại chưa có cơ sở khoa
học, chưa đứng vững trước sự tấn công của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo,
nhưng đó là bước đầu, tạo điều kiện cho các học thuyết duy vật sau này
phát triển, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Giá trị của phép biện chứng chất phác thể hiện ở ý nghĩa vô thần, chống lại
những quan điểm duy tâm, tôn giáo. Khẳng định sự tồn tại khách quan, vĩnh
viễn và vô tận của thế giới vật chất. Nó đã thể hiện được mối liên hệ và tính
thống nhất của vật chất trong thế giới tự nhiên. Góp phần thúc đẩy hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển, nó góp
phần củng cố sức mạnh tinh thần cho lực lượng chính trị tiến bộ trong xã
hội.
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan. Nhằm
đi đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu. Khẳng
định khả năng nhận thức thế giới của con người. Đối tượng của nhận thức
là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối
tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được.
14
- Thấy được sự tồn tại thống nhất và đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau của các
mặt đối lập. Mọi vật đều nảy nở trong quá trình đấu tranh và sự vận động,
phát triển liên tục của sự vật tuân theo các yếu tố khách quan, qui luật quyết
định.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã mở đầu cho những tư tưởng
sơ khai về một số cặp phạm trù ”tất nhiên - ngẫu nhiên”; ”cái riêng - cái
chung”; ”nguyên nhân - kết quả” ;
- Triết học duy vật cổ đại chứa đựng nội dung cơ bản các ngành khoa học của
Hy Lạp như thiên văn, toán học, y học… Nó giải thích sự sống là kết quả

của quá trình biến đổi dần đần từ thấp đến cao của tự nhiên.
- Những thành quả quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp
cổ đại là thuyết nguyên tử đã đặt cơ sở cho sự phát triển của khoa học tự
nhiên, phép biện chứng chất phác và Logic học hình thức của Xôcrat.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã để lại những triết lý mang
giá trị vượt thời gian "người ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông", "Mặt
trời luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới",…
- Nó thể hiện sự tiến bộ về mặt đạo đức xã hội khi đề đạt mô hình nhà nước
pháp trị, dân chủ với mục đích đem lại hạnh phúc, tự do cho con người, phê
phán những bất công, trục lợi bất lương
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại không chỉ đóng góp những lý
luận giải quyết những vấn đề cho xã hội đương thời mà các nhà triết học
duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại đã đặt ra những vấn đề mà triết học và
khoa học đời sau phải giải đáp.
- Ngoài ra, chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại mà cụ thể là Đêmôcrít
đã có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm
"Bàn về lôgíc học" (Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết
về nó một cách gián tiếp qua lời của Arixtốt, Platôn). Theo đó thì ông đã
nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so
sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật.
Arixtốt đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên
nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp.
II. Hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại:
15
- Do hạn chế nhất định về trình độ khoa học nên thế giới quan duy vật chất
phác thường đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể là sự kết hợp của trực
quan và phỏng đoán mà thiếu những chứng cứ dựa trên kết quả nghiên cứu
khoa học. Nó vẫn còn mang tính tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
- Thế giới quan duy vật chất phác không triệt để, vì nó không lí giải được bản

tính của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa tinh thần và
cái vật chất. Nó mới chỉ giải thích thế giới chứ chưa thực sự cải tạo thế giới.
- Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố
thần linh. Nó đại vẫn còn những khái niệm mang ảnh hưởng của chủ nghĩa
duy tâm, tôn giáo như “linh hồn”, “tình yêu”, “hận thù”.
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại vẫn chưa thấy được hết khả
năng của con người trong việc cải tạo biến đổi thế giới. Cũng như chưa lý
giải được nguồn gốc vận động của thế giới vật chất và chưa giải thích được
các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật
chất.
- Nó còn chịu ảnh hưởng của giai cấp chủ nô thống trị nên vẫn bảo vệ lợi ích
giai cấp, chưa thấy được tính tất yếu của việc giải phóng con người hoàn
toàn tự do khỏi chế độ nô lệ.
- Chính phép biện chứng còn ngây thơ chất phác nên sau giai đoạn phát triển
rực rỡ đã không đứng vững và bị phép siêu hình xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ
XV thay thế.
KẾT LUẬN
- Chủ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại trong lịch sử là những kho tàng
quý giá để lại cho thế giới loài người mà sau này Mác và Ăng ghen là những
người kế tục hoàn hảo nhất. Hai ông nhiều lần nói rằng, trong sự phát triển của
16
mình, hai ông chịu ơn nhiều nhà triết học Đức và là học trò của triết học Hy
Lạp cổ đại.
- Tuy trong từng thời kỳ các tư tưởng duy vật còn có những hạn chế riêng song
đã đóng góp tích cực vào kho tàng nhận thức của nhân loại. Lịch sử tư tưởng
và thực tiễn cho thấy chỉ khi nào đứng trên quan điểm duy vật, chúng ta mới
có thể nhận thức được các sự vật, một cách khoa học, bản chất và giải quyết
các mối quan hệ một cách đúng đắn, mới có thể cải tạo tự nhiên biến đổi xã
hội theo hướng phát triển. Ngược lại các quan điểm duy tâm duy ý chí siêu
hình sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết điểm gây tổn thất cho quá trình phát triển của

xã hội.
- Vì vậy học tập nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật là
hết sức cần thiết. Nó giúp ta nắm vững phép biện chứng duy vật, thấu suốt
những phương pháp luận đồng thời nắm được nguồn gốc ra đời, hình thành,
phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt với chủ nghĩa duy tâm và các quan
điểm siêu hình để khẳng định được vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải
tạo thế giới.
- Hiện nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc
nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa duy vật là nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy.
Nghiên cứu từ lịch sử của nó cũng là một phương pháp biện chứng trong
nghiên cứu triết học. Đảng ta khẳng định nguyên tắc là phải trung thành với
Mác - Lênin, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không che giấu sai lầm
và phải vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng Mác Xít để khắc phục
những sai lầm xây dựng thành công nhà nước xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Triết hoc (phần 1: đại cương về lịch sử triết hoc) – khoa Lý Luận
Chính Trị - Tiểu ban Triết hoc – Trường ĐH Kinh tế TPHCM
2. Triết học Phương Tây – Hoàng Xuân Việt.
3. Triết học Hy- Lạp giản yếu- Hào Nguyên Nguyễn Hoá- Nhà xuất bàn
Thanh niên
17
4. />option=com_content&task=view&id=394&Itemid=265
5. />phai-triet-hoc-hi-lap-co-dai.html
18

×