Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI & NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.49 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY
THỜI CẬN ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ,
HẠN CHẾ CỦA NÓ


Giảng viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Nguyễn Thùy Liên
STT : 86 – Nhóm 9
Lớp : Cao học Đêm 5
Khóa : 21
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI 3
1.1 Siêu hình học 4
1.1.1 Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người 5
1.1.2 Lý luận về linh hồn và nhận thức của con người 6
1.1.3 Các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức 7
1.2 Khoa học 9
1.2.1 Trong lĩnh vực vật lý học 9
1.2.2 Trong lĩnh vực toán học 9
1.2.3 Trong lĩnh vực sinh học 10
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY LÝ
TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI 10


2.1 Những giá trị của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại 10
2.2 Những hạn chế của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại 14
PHẦN KẾT LUẬN 16
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt dòng lịch sử triết học của nhân loại, đặc biệt là nền triết học
phương Tây, người ta khó tìm thấy triết gia nào có một câu nói có thể đi sâu vào
lòng người, như câu nói rất nổi tiếng của triết gia người Pháp René Descartes:
“Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”. Câu nói bất hủ này cũng là nguyên lý chính trong
hệ thống triết học của ông, nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã
hội, nhất là trong lối tư duy lý tính của người phương Tây. Descartes được thừa
nhận là người có một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử triết học. Chính vì
vậy mà khi phê bình R. Descartes, nhà triết học người Đức – Hegel cho rằng “R.
Descartes là người đã sáng lập ra nền triết học cận đại xét về phương diện lấy tư
tưởng làm căn bản. Ảnh hưởng của nhà triết học này trong thời đại của ông và
trong nhưng thời đại mới là hết sức lớn lao. Ông là một bậc anh hùng, có công
xây dựng lại triết học từ đầu và đem lại cho nó một vị thế xứng đáng, làm cho nó
trở về với vị thế ấy sau khi đã lầm lạc hàng nghìn năm đó là vị thế của lý tính
thuần tuý” [6]. Và chính ông là người đã đặt nền móng cho trường phái duy lý –
tư biện. Vì vậy để tìm hiểu những nội dung tư tưởng của trường phái này cũng
như những giá trị và hạn chế của nó, người viết đã chọn đề tài “Chủ nghĩa duy
lý tư biện phương Tây thời cận đại và những giá trị, hạn chế của nó”.
Đề tài được viết chủ yếu dựa vào các tài liệu chính: 1) Bùi Văn Mưa,
Triết học & Bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh , Thành phố Hồ Chí Minh, 2008; 2) Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết
học phần I: Đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, 2010; 3) Đoàn Quang Thọ, Giáo trình Triết học (dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb
Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006; 4) Nguyễn Ước, Đại cương Triết học phương
Tây, Nxb Tri thức, 2009 và tham khảo các trang web sau:

/>PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của các nước Tây Âu trên tất cả
các mặt của đời sống xã hội. Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ
3
nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị ở Tây Âu. Nó đã
tạo ra những cơ hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa
học tự nhiên. Triết học thời kỳ cận đại nổi bật 4 trường phái: trường phái duy vật
kinh nghiệm-duy giác, trường phái duy lý –tư biện, trường phái duy tâm-bất khả
tri, triết học khai sáng và chủ nghĩa Pháp. Descartes là người đã đặt nền móng
cho trường phái duy lý – tư biện. Và sau đó đã được B. Spinoza và G.W. Leibniz
phát triển theo khuynh hướng duy vật và duy tâm khác nhau. Trường phái này là
“Trường phái triết học – siêu hình học đề cao lý tính, cố gắng hệ thống hóa toàn
bộ tri thức mà con người đạt được lúc bấy giờ dựa trên cơ sở phương thức tư duy
lý luận, nhằm giúp con người thoát ra khỏi cách nhìn thiển cận về thế giới” [2,
tr.144]. Có thể chia hệ thống triết học của các triết gia này thành hai bộ phận là
siêu hình học và khoa học.
1.1Siêu hình học
R. Descartes (1596 - 1650) là nhà triết học xuất sắc nhất của Pháp thế kỷ
XVII, ông đã bỏ qua hệ thống triết học kinh viện để bắt đầu với sự hoài nghi mọi
cái, và “Nghi ngờ phổ biến” là nguyên tắc phương pháp luận của triết học R.
Descartes. Ông cho rằng mọi chân lý đều bắt nguồn từ lý tính, và nghi ngờ là
biện pháp cần thiết để lý tính không mắc sai lầm trong nhận thức. Ông khẳng
định phải biết hoài nghi mọi cái mà chúng ta vẫn coi là đúng, nhưng hoài nghi để
tìm ra chân lý và phải coi nó là tiền đề chứ không phải là kết luận cuối cùng. Với
tư tưởng nghi ngờ phổ biến “R. Descartes đề cao tư duy, lý tính và coi thường
kinh nghiệm, cảm tính trong hoạt động nhận thức. Theo ông, mọi cái tồn tại chỉ
có thể trở thành chân lý khi chúng được đưa ra phán xét dưới “tòa án” của lý tính
nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của chính mình” [2, tr.145-146].

“Mặc dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ phổ biến, nhưng R. Descartes
không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà là bác bỏ nó và xây dựng nguyên lý cơ bản
của toàn bộ hệ thống siêu hình học duy lý của mình – nguyên lý “Tôi suy nghĩ,
vậy tôi tồn tại” [2, tr.146]. Ông lý luận rằng, dù ông nghi ngờ về sự tồn tại của
mọi cái nhưng không thể nghi ngờ về sự tồn tại của chính ông. Mà nghi ngờ là
suy nghĩ, là tư duy nên ông suy nghĩ, vậy ông tồn tại. Dựa vào nguyên lý này,
4
“Ông đã xây dựng hệ thống siêu hình học về Thượng đế, về giới tự nhiên và con
người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động bản chất của con
người – hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính” [2, tr.146-147].
1.1.1 Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên và con người
Về triết học, Descartes là nhà triết học nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực
thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều
phục tùng nguyên thể thứ ba - nguyên thể tối cao là thần linh. Theo R. Descartes
thì Thượng đế tồn tại thực sự, nhờ có Thượng đế mà thế giới mới tồn tại và phát
triển. Theo ông “Thực thể là một thế giới hoàn toàn độc lập, không cần và không
liên quan đến cái khác, tự nó có thể tồn tại và phát triển được. Tuy nhiên, cả hai
thực thể này lại phụ thuộc vào Thượng đế, do Thượng đế sinh ra” [8].
Nếu Descartes quan niệm quãng tính và tư duy là những thuộc tính của hai
thực thể khác nhau - thực thể vật chất và thực thể tinh thần - thì đối với Spinoza,
hai thuộc tính này cùng là một thực thể thống nhất. Theo Spinoza, thực thể là
nguyên nhân đầu tiên của mọi cái đang tồn tại. Vì thực thể đồng nghĩa với bản
chất vô tận cho nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận. Thực thể đồng nhất với
tự nhiên không chỉ ở quãng tính mà còn ở tư duy. Như vậy, học thuyết của
Spinoza về thực thể đã bác bỏ quan niệm nhị nguyên luận của Descartes, đồng
thời còn chống lại quan niệm cổ truyền của mọi tôn giáo cho rằng Thượng đế là
đấng sáng tạo ra tự nhiên và con người. Ông coi Thượng đế, Giới tự nhiên, Thực
thể chỉ là một. “Lý luận về thực thể của B. Spinoza thể hiện thế giới quan duy vật
sâu sắc của ông. Bởi vì ông muốn khẳng định rằng, bản thân Thượng đế cũng chỉ
là Giới tự nhiên, vì vậy, Thượng đế cũng mang tính tự nhiên. Còn bản thân Giới

tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại độc lập, vĩnh viễn, tự nó sản sinh ra
nó” [2, tr.152-153].
Descartes xem con người là một sự vật đặc biệt vừa có linh hồn bất tử (tạo
thành từ thực thể tự nhiên) vừa có tinh thần khả tử (tạo thành từ thực thể vật
chất); “Là bậc trung gian giữa Thượng đề và Hư vô, nên con người vừa cao siêu,
không mắc sai lầm; vừa thấp hèn, có thể mắc sai lầm” [2, tr.147]. Ông cho rằng
con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. Còn trong quan niệm của
5
Spinoza thì con người chính là dạng thức của thực thể, là sản phẩm của Giới tự
nhiên vì thế hoạt động của nó phải tuân theo tự nhiên. Vì là một dạng của thực
thể nên con người có thể xác và linh hồn, mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn là
mối quan hệ hữu cơ nên chúng không tách khỏi nhau và con người cũng nằm
trong quá trình phát triển hay diệt vong vì nó chỉ là một dạng thức của thực thể.
1.1.2 Lý luận về linh hồn và nhận thức của con người.
 Lý luận về linh hồn.
Theo R. Descartes thì linh hồn của con người bắt nguồn từ Thượng đế và
bao gồm hai phần là lý trí và ý chí. Lý trí mang lại khả năng nhận thức sáng suốt,
đúng đắn (lý tính). Còn ý chí mang lại khả năng tự do chọn lựa, phán quyết, là
cội nguồn dẫn dắt linh hồn sa vào sai lầm, nhầm lẫn (từ cảm tính). Linh hồn chứa
hai loại tư tưởng. Đó là tư tưởng bẩm sinh luôn đúng đắn (hoàn thiện) và tư
tưởng phái sinh có thể sai lầm (không hoàn thiện) do linh hồn tự nghĩ ra hay đưa
từ bên ngoài vào khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh.
Khác với quan điểm của R. Descartes, Leibniz không thừa nhận sự tồn tại
của tư tưởng bẩm sinh, mà chỉ thừa nhận sự tồn tại những khả năng bẩm sinh của
con người. “Leibniz không coi linh hồn con người là “tấm bảng trắng” mà là “
viên đá trắng” có tiềm ẩn vô số đường vân” [2, tr.159].
 Quan niệm về nhận thức
R. Descartes, B. Spinoza, G.W. Leibniz và một số người khác theo chủ
nghĩa duy lý cho rằng “Kinh nghiệm dựa trên cảm giác con người không thể trở
thành cơ sở phương pháp chung cho mọi khoa học được. Tri giác và cảm giác là

ảo. Những kinh nghiệm cho trước cũng như các kết quả thực nghiệm bao giờ
cũng bị nghi vấn, chưa được khẳng định” [3, tr.122]
Theo R. Descartes, nhận thức là hoạt động bản chất của linh hồn. Nhận
thức là nghi ngờ, là tư duy (dấu hiệu không hoàn thiện vươn tới sự hoàn thiện).
Với ông “Nhận thức là quá trình lý tính thông qua năng lực trực giác của mình
xâm nhập vào chính mình để khám phá ra tri thức bẩm sinh chứa đựng trong
mình, và sử dụng những tri thức này tiếp cận thế giới, giúp các khoa học lý
thuyết xây dựng các định lý, định luật về thế giới xung quanh” [1, tr.62]. Theo
6
ông trực giác là hình thức nhận thức tối cao của linh hồn lý tính. Trực giác mang
lại những tư tưởng rõ ràng, rành mạch, hiển nhiên (bẩm sinh).
Theo B. Spinoza “Nhận thức là hoạt động mang tính bản chất của con
người, có nhiệm vụ phát hiện ra các nguyên nhân khách quan của sự tồn tại và
quy luật tự nhiên chi phối sự thay đổi của dạng thức của Thực thể (sự vật đơn
lẻ)” [2, tr.154]. Ông cho rằng khả năng nhận thức của con người là vô hạn và quá
trình nhận thức tuân theo các quy luật tự nhiên, bao gồm nhận thức cảm tính (cho
phép cảm thụ được tính đa dạng và sinh động của sự vật đơn lẻ - dạng thức của
thực thể) và nhận thức lý tính (cho phép nắm bắt những đặt tính tổng quát và căn
bản của sự vật – khám phá ra thuộc tính, bản chất của Thực thể). Theo ông, trực
giác là năng lực nhận thức cao nhất của lý tính, nó có khả năng vừa khám phá
chân lý vừa là chuẩn mực chân lý. Vì vậy ông phủ nhận sự tồn tại tư tưởng bẩm
sinh. Nhưng cũng như quan điểm của R. Descartes; B. Spinoza đề cao nhận thức
lý tính và coi thường nhận thức cảm tính (đặc biệt là những cảm xúc tiêu cực -
nguyên nhân gây ra những sai lầm trong nhận thức).
G.W. Leibniz coi “Nhận thức là quá trình khai thác những tri thức tiềm ẩn
có trong linh hồn con người, là một quá trình tương đối đi từ những hiểu biết mơ
hồ đến hiểu biết chính xác chứ không phải là hành động trực giác như Descartes
đa thừa nhận” [2, tr.159]. Theo ông nhận thức bao gồm nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính nói về dáng vẻ bên ngoài của những sự vật
đơn lẻ, mang lại những chân lý sự kiện. Còn nhận thức lý tính nói về bản chất

bên trong của những sự vật đơn lẻ, mang lại những chân lý vĩnh hằng.
1.1.3 Các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức.
Theo Descartes, một linh hồn vĩ đại cũng có thể sản sinh ra những điều
nhảm nhí, nếu nó không biết dựa vào một phương pháp luận đáng tin cậy. Vì vậy
Siêu hình học đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo lý trí trong hoạt động nhận thức
nhằm khám phá ra chân lý. Theo ông, có 4 nguyên tắc phương pháp luận nhận
thức: “Một là: chỉ coi chân lý là những gì rõ ràng, rành mạch, không gợn một
chút nghi ngờ nào cả (nhờ vào trực giác). Hai là: phải chia đối tượng phức tạp
thành các bộ phận đơn giản cấu thành để tiện lợi trong việc nghiên cứu. Ba là:
7
quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất, dần dần
đến những điều phức tạp hơn. Bốn là: phải xem xét toàn diện mọi dữ kiện, tài
liệu để không bỏ sót một cái gì trong quá trình nhận thức” [2, tr.148-149]. Trên
lập trường duy lý, Descartes đặc biệt đề cao vai trò của phương pháp diễn dịch
trong việc xây dựng mọi tri thức khoa học lý thuyết.
Cũng như R. Descartes và B. Spinoza; G.W. Leibniz tích cự bảo vệ truyền
thống siêu hình học nhưng ông lại không hài lòng về các hệ thống siêu hình học
trước đó (kể cả hệ thống siêu hình học của R. Descartes và B. Spinoza), nên ông
đã xây dựng một hệ thống siêu hình học mới đóng vai trò nền tảng cho mọi khoa
học và hoạt động của con người. Theo ông “Hệ thống siêu hình học mới phải
khắc phục được cả chủ nghĩa nhị nguyên của Siêu hình học Descartes, lẫn chủ
nghĩa nhất nguyên cứng nhắc, nghèo nàn của Siêu hình học Spinoza và tiếp tục
khẳng định vai trò của tư duy lý luận” [2, tr.155]. Ông đã dựa vào 11 nguyên lý
để xây dựng hai nội dung cơ bản của Siêu hình học mới:
- 11 Nguyên lý của Siêu hình học mới: Nguyên lý về sự khác nhau phổ
biến, về sự đồng nhất, tính liên tục, tính gián đoạn, tính toàn vẹn, tính hoàn thiện,
về mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực, tính cần thiết tư duy lôgích, cơ sở đầy
đủ, mối liên hệ phổ biến, tính thống nhất giữa cực đại và cực tiểu để xây dựng
hai nội dung cơ bản của Siêu hình học mới.
- Hai nội dung của Siêu hình học mới:

+ Đơn tử luận (học thuyết về bản chất của sự vật)
Leibniz gắn khái niệm thực thể với tính đơn nhất của sự vật, theo ông mỗi
thực thể đều chứa đựng cả vật chất lẫn tinh thần và mỗi thực thể gọi là đơn tử.
Mỗi đơn tử hoàn toàn kép kín, không phụ thuộc vào bên ngoài, hơn nữa chúng
còn có khả năng nhận thức chính bản thân mình. Leibniz chia đơn tử làm ba
nhóm: Đơn tử ngủ là nền tảng của giới vô cơ, trong đó tiềm ẩn các linh hồn chết,
đơn tử có khả năng cảm giác và trực quan tạo trên linh hồn của thực vật và động
vật, đơn tử phát triển hoàn thiện hơn, loại này tạo nên ý thức, linh hồn con người.
Để cho các đơn tử phát triển một cách có trật tự, Leibniz đề ra nguyên tắc hài hòa
tiền định và Thượng đế là cơ sở của nguyên tắc này.
8
+ Thần học:
Ông cho rằng “Thượng đế vừa là đơn tử vừa là đấng sáng tạo ra các đơn
tử khác, là đơn tử của mọi đơn tử, là lý tính siêu thế giới. Giới tự nhiên, con
người chỉ là kết quả sáng tạo của Thượng đế” [2, tr.158]. Với ông, Thượng đế
thực sự tồn tại và là linh hồn bất diệt, là cơ sở cho mọi chân lý vĩnh hằng, cho sự
hài hòa tiền định trong sự phát triển của vạn vật.
1.2Khoa học
1.2.1 Trong lĩnh vực vật lý học
R. Descartes xây dựng lý luận về vật chất và vận động. Vật chất bao gồm
các hạt nhỏ, mịn, được phân chia đến vô tận. Quãng tính (không gian, thời gian)
và vận động là những thuộc tính gắn liền với những vật thể vật chất. Không gian
vật chất choán đầy vũ trụ. Vận động cơ học của vật thể có nguồn gốc từ “cái
hích” của Thượng đế và vận động của vũ trụ được bảo toàn. Dựa trên quan điểm
cơ học, Descartes xây dựng mô hình vũ trụ.
G.W. Leibniz nói về giới tự nhiên, về không gian, thời gian, vận động.
Ông khẳng định rằng “Giới tự nhiên là một hệ thống chỉnh thể liên kết vạn vật
tồn tại trong tính đa dạng của mình. Vạn vật trong giới tự nhiên đều được cấu
thành từ các đơn tử - bản chất của vạn vật” [2, tr.158]. Theo ông, giới tự nhiên
chưa phải là thế giới hoàn thiện nhất, trong quá trình tồn tại nó tiếp tục phát triển.

Do đó mặc dù công nhận vạn vật trong giới tự nhiên chỉ tuân theo các quy luật
Newton nhưng ông phủ nhận quan điểm của Newton về không gian tuyệt đối và
thời gian tuyệt đối. “Ông đưa ra quan niệm về không gian tương đối và thời gian
tương đối. Bởi vì chúng chỉ là quan hệ tương đối của những sự vật với nhau và
thể hiện sự vật nằm trong sự vận động, phát triển” [2, tr.158].
1.2.2 Trong lĩnh vực toán học
Descartes có những tư tưởng biện chứng vượt trước thời đại. “Ông đã sửa
đổi lại đại số, dùng hình chỉ số và dùng số chỉ hình; dùng chữ để chỉ những đại
lượng biến thiên (x, y, z ), và đưa các đại lượng biến thiên vào trong toán học
bên cạnh những đại lượng không đổi (a, b, c )” [2, tr.150]. Từ đó, ông phát minh
ra hình học giải tích, hàm số và phương pháp đồ thị Với ý tưởng biện chứng
9
này, ông đã đặt nền móng cho toán học hiện đại. Đối với Descartes, toán học là
khoa học chính xác, rõ ràng, rành mạch nhất. Và phương pháp diễn dịch toán học
thể hiện rõ 4 nguyên tắc mà lý trí phải tuân theo để đạt chân lý nên nó là phương
pháp chung để thu được tri thức đúng đắn.
1.2.3 Trong lĩnh vực sinh học
Descartes khẳng định sự hình thành và phát triển của giới thực vật và
động vật mang tính tự nhiên. Cơ thể sinh vật là các cỗ máy có sẵn cơ chế phản
xạ, khi hoạt động nó sẽ sinh ra linh hồn thực vật và linh hồn động vật khả tử.
Theo ông con người là một cổ máy – hệ thống vừa có thể xác khả tử gắn liền với
linh hồn lý tính bất tử. Thể xác là khí quan vật chất của linh hồn (đời sống tinh
thần). Còn linh hồn là hoạt động tinh thần của thể xác. Trong nhân bản học,
Leibniz xem con người là sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác. Theo ông “Thể
xác chỉ là cái vỏ bề ngoài, linh hồn là cái bản chất tiềm ẩn bên trong. Ông cũng
xem con người là cái máy tự nhiên có tính tổ chức cao do Thượng đế tạo ra” [2,
tr.158-159].
Như vậy, có thể nói, tư tưởng triết học của trường phái duy lý tư biện vừa
là siêu hình học, vừa là vật lý học. Những lập luận có tính xác thực và khoa học
của các ông luôn pha lẫn với sự diễn dịch trừu tượng. Tuy nhiên, không phải vì

thế mà trong hệ thống triết học đó không có những giá trị, mà ngược lại, đó là
một hệ thống triết học được tạo nên với nhiều giá trị quý báo.
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI.
2.1. Những giá trị của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại.
 Giá trị thứ 1: Đề cao vai trò của lý trí trong lý luận về nhận thức nhằm
chống lại những đạo lý kinh viện của tôn giáo, chống lại lòng tin vô căn cứ.
Điểm này thể hiện rõ trong tư tưởng của Descartes khi ông gạt bỏ những
đạo lý kinh viện của tôn giáo, đưa lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận
thức. Điểm tiến bộ trong luận điểm “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” của Descartes
là đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những gì người ta
10
mê tín. Và ông đòi hỏi một khoa học toàn bộ, triệt để lý tính, tin tưởng tuyệt đối
ở loài người và ở từng cá nhân con người đủ lý trí để xây dựng khoa học. “Với
tác phẩm “Luận về phương pháp”, Descartes đưa ra phép diễn dịch toán học dành
cho khoa học lý thuyết đã thay thế phương pháp kinh viện của học phái Aristote
để giải quyết những nhiệm vụ khoa học do thời đại đặt ra” [1, tr.67].
Yếu tố tích cực trong hệ thống triết học Descartes là “Niềm tin vô tận vào
lý trí, khoa học và những phương pháp mới. Với niềm tin ấy, ông muốn triết học
phải rõ ràng và xác thực” [6]. “Ông đã dùng những giải thích cơ học thay cho
những quan điểm tinh thần mơ hồ của các tác giả đi trước” [9].
Bên cạnh Descartes, Spinoza cũng đã phê phán tôn giáo, nêu ra nguồn
gốc, vai trò xã hội và bản chất tôn giáo. Ông quan niệm rằng, sự sợ hãi là nguyên
nhân của mê tín tôn giáo. Tư tưởng chống giáo quyền của ông thể hiện ở chỗ coi
vai trò chính trị của nhà thờ là ở sự liên minh của nó với chính quyền chuyên
chế.
 Giá trị thứ 2: Các triết gia đã đặt ra nhiều lý luận mới, tạo nền móng vững
chắc cho khoa học lý thuyết, cho sự phát triển của triết học và khoa học sau này.
Descartes đã nhận thức được những hạn chế của phương pháp kinh viện
truyền thống, ông đưa ra 4 nguyên tắc phương pháp luận nhận thức có ảnh hưởng

mạnh mẽ đến sự phát triển của khoa học, kĩ thuật sau đó. Trong toán học, “Ông
là nhà toán học đầu tiên phân loại các đường cong dựa theo tính chất của các
phương trình tạo nên chúng. Ông đã đóng góp vào lý thuyết về các đẳng thức và
là người đầu tiên dùng các chữ cái cuối cùng của bảng chữ cái để chỉ các ẩn số và
dùng các chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái để chỉ các giá trị đã biết” [9]. “Ông đã
sáng tạo ra hệ thống ký hiệu để mô tả lũy thừa của các số và thiết lập ra phương
pháp để tìm số nghiệm âm, dương của bất cứ phương trình đại số nào” [9].
Descartes là tác giả của giả thuyết gió xoáy, một trong những giả thuyết
đầu tiên về sự hình thành của vũ trụ và thế giới. Ông cũng là người phát hiện ra
cơ chế phản xạ. Về quang học, “Descartes đã khám phá ra định luật cơ bản của
sự phản xạ: góc tới bằng góc phản xạ. Việc ông xem ánh sáng như một thứ áp lực
trên môi trường chất rắn đã dẫn đường cho lý thuyết sóng của ánh sáng” [9].
11
Descartes đã vạch rõ đường lối cho những người đi sau khi chứng thực
được giá trị của khoa học và của những phương pháp mà xưa kia người ta tìm ra
một cách mò mẫm. “Ông đưa những nhà triết học vào thế giới vật chất và cấm họ
không được lạc sang thế giới huyền bí nhưng viển vông của tinh thần” [6]. Ngoài
ra, “Những bác sĩ kiêm nhà triết học như Leroi, Lametri, Cabanis đã áp dụng
phương pháp của Descartes để nghiên cứu về thân thể. Kết quả của những cuộc
tìm kiếm ấy trong giới y học đã hình thành khoa thực nghiệm y học sau này” [6].
Đánh giá cao chủ trương xây đựng một hệ thống phương pháp luận mới,
một logic học mới của Descartes, “Hegel đã cố gắng xây dựng một hệ thống
logic học mới trên cơ sở tiếp thu những mặt tích cực của logic học trước đây
đồng thời khắc phục hạn chế của nó, đưa lại cho con người một phương pháp
luận triết học làm nền tảng cho mọi khoa học khác. Đó là phép biện chứng với tư
cách là học thuyết về sự phát triển” [6]. Trong học thuyết về tự nhiên, luận điểm
của Descartes về tính không bị tiêu diệt của vận động được Engels đánh giá như
một thành tựu khoa học vĩ đại.
Bên cạnh Descartes, Leibniz cũng đã công hiến cho nhân loại phép tính vi
tích phân. “Chính bằng những phương trình của phép tính này ông đã giải quyết

được hàng loạt vấn đề mà các nhà bác học khác cùng thời không làm nổi” [11].
 Giá trị thứ 3: Chủ nghĩa duy lý tư biện (cụ thể là tư tưởng của Descartes)
đã thực hiện được đơn đặt hàng của lịch sử.
Với lý luận về linh hồn và nhận thức của con người, Descartes đã thực
hiện được đơn đặt hàng của lịch sử do lịch sử đề ra vào thời đại lúc bấy giờ. Theo
ông, linh hồn con người như tờ giấy trắng nhưng có những đường kẻ sẵn rồi,
trong đó có những chân lý bẩm sinh, là những định lý toán học, định đề logic
học. Linh hồn con người có hai phần lý trí và ý chí. Lý trí mang lại khả năng
nhận thức sáng suốt đúng đắn (lý tính). Còn ý chí là cội nguồn dẫn dắt linh hồn
sa vào sai lầm, nhầm lẫn (từ cảm tính). Descartes đề cao vai trò của tư duy lý tính
và coi thường tư duy cảm tính. Tư tưởng này của ông đã mang lại một quan niệm
mới về nhận thức cho con người lúc bấy giờ, bác bỏ con đường nhận thức bằng
niềm tin của các tác giả trước đó.
12
 Giá trị thứ 4: Các nhà triết học thuộc trường phái duy lý tư biện đã có
những tư tưởng biện chứng vượt trước thời đại.
Descartes có những tư tưởng biện chứng vượt thời đại khi ông đã đặt nền
móng cho toán học hiện đại với việc phát minh ra hình học giải tích, hàm số và
phương pháp đồ thị. “Ông đã sửa đổi lại đại số, dùng hình chỉ số và dùng số chỉ
hình; dùng chữ để chỉ những đại lượng biến thiên (x, y, z ), và đưa các đại
lượng biến thiên vào trong toán học bên cạnh những đại lượng không đổi (a, b,
c )” [2, tr.150].
Khi giải thích sự phụ thuộc của các sự vật vào thực thể, Spinoza đưa ra
khái niệm về dạng thức. Theo ông “Dạng thức là biểu hiện đơn nhất của thực thể,
tức là sự vật đơn nhất. Ông cho rằng: quan hệ giữa thực thể và dạng thức là sự
thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất, giữa cái duy nhất và cái đa dạng. Vì
vậy quan điểm của Spinoda ít nhiều mang tính chất biện chứng” [12].
 Giá trị thứ 5: Tư tưởng triết học gắn liền với vấn đề con người và giải
phóng con người nhằm mang lại hạnh phúc, tự do cho con người.
“Triết học do Descartes khởi xướng đã tiến hành việc luận chứng cho

khoa học về mặt bản thể luận và phương pháp luận như mẫu lý tưởng về cái có
tính người trong con người và qua đó, cũng đã chứng minh được khả năng làm
người của mỗi người. Đây chính là tính chất nhân văn sâu sắc của triết học cận
đại và nó đánh dấu sự thống trị dường như tuyệt đối của triết học duy lý” [7].
Tư tưởng triết học gắn liền với con người thể hiện rõ nét trong quan điểm
của Spinoda, ông cho rằng tất cả các khoa học đi đến một mục đích là làm sao đi
đến sự hoàn thiện cao nhất của con người. Sự phát triển to lớn của sản xuất và
khoa học đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con người trong hoạt động thực
tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội theo nhu cầu của mình. “Spinoza coi con người là
mục đích cuối cùng của triết học” [2, tr.153]. Mặc dù trong triết học thời kỳ này,
con người mới được đề cập đến chủ yếu ở khía cạnh cá thể, còn mặt bản chất xã
hội con người chưa được đề cao, nhưng vị trí, vai trò của con người rất nổi bật.
“Spinoza là người sáng lập chế độ dân chủ và thúc giục giáo hội phải lệ
thuộc vào quốc gia. Ông bảo vệ quyền tự do bày tỏ ý kiến và trên tất cả, tìm cách
13
giải phóng con người khỏi sự sợ hãi” [4, tr.374]. Ông coi sự sùng bái tôn giáo là
sự ngưỡng mộ sai lầm do ảo tưởng của một tâm hồn yếu đuối. Theo ông “Sự bất
lực của con người trong cuộc đấu tranh với những ham muốn là sự “nô lệ”.
Nhiệm vụ của đạo đức làm tìm ra con đường khắc phục sự nô lệ ấy, tức là làm
chủ được tình cảm, điều khiển được ham muốn để đạt tới sự phát triển lành mạnh
và hạnh phúc chân chính của con người” [3, tr.127].
2.2. Những hạn chế của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây thời cận đại.
 Hạn chế thứ 1: Chỉ thấy một mặt của quá trình nhận thức là mặt lý tính, do
đó cơ sở phương pháp luận này mang tính siêu hình, phiến diện.
Nếu chủ nghĩa kinh nghiệm tuyệt đối hóa nhận thức cảm tính thì các nhà
triết học duy lý lại tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý tính, coi thường kinh
nghiệm cảm tính. Cả chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý đều phạm phải
sai lầm là sự phiến diện khi tuyệt đối hóa một mặt của nhận thức. Chủ nghĩa duy
lý với phương pháp diễn dịch có những hạn chế. Vì phương pháp suy diễn không
thể thực hiện được nếu không có những tiền đề được rút ra bằng phương pháp

quy nạp. “Các nhà duy lý không biết những tiên đề hoàn toàn không có tính chất
bẩm sinh, tiên nghiệm mà là kết quả của hoạt động thực tiễn lặp đi lặp lại hàng
triệu lần của nhân loại, nên được coi là tri thức hiển nhiên và không bác bỏ được.
Ngoài ra, không phải bất cứ điều gì được rút ra bằng phương pháp suy diễn cũng
đều trở thành chân lý” [5].
Là nhà khoa học lý thuyết, A.Anhxtanh đã chỉ ra những hạn chế của chủ
nghĩa duy lý. Ông khẳng định: “Điểm yếu của quan điểm này là ở chỗ, nhiều
điều tin tưởng đóng vai trò tất yếu và quyết định hành vi ứng xử và sự phán xét
của chúng ta lại không chỉ được tìm thấy bằng phương pháp khoa học cứng nhắc.
Bởi vì, phương pháp khoa học chỉ dạy cho chúng ta không có gì khác hơn là các
sự kiện liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau như thế nào… [5].
 Hạn chế thứ 2: Nhìn chung, tư tưởng triết học trong việc giải thích các vấn
đề xã hội và lịch sử vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm.
Triết học duy vật thời kỳ này không triệt để, quan niệm duy vật về tự
nhiên, còn đời sống xã hội thì lại duy tâm. Thời kỳ này các nhà triết học không
14
giải thích được nguyên nhân sinh ra chế độ tư hữu, xuất hiện kẻ giàu, người
nghèo, chưa biết quần chúng đói khổ là do đâu. “Descartes lúc đầu viết một cuốn
sách rất duy vật, nhưng sau thấy khủng bố ghê gớm nên thêm vào một phần nữa
là cái duy nhất là linh hồn và linh hồn chắc chắn là vì dựa vào Thượng đế” [7].
Luận điểm “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ
quan của Descartes, vì ông đã lấy tư tưởng, lấy sự suy nghĩ của chủ thể làm điểm
khởi đầu của sự tồn tại. “Nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm vì Descartes
đã không nhìn thấy rằng không thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay
trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội” [10].
Descartes thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong
quá trình vận động. Nhưng “Ông chưa thấy sự khác nhau về chất giữa thế giới
sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt
của con người với động vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật chất
mà còn là thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông không phụ thuộc vào quá trình

vật chất. Điều này biểu hiện quan điểm duy tâm trong triết học Descartes” [10].
Cùng quan điểm với Descartes, Leibniz cũng xem “Con người là cái máy
tự nhiên có tính tổ chức cao do Thượng đế tạo ra” [3, tr.158]. Còn Spinoza là nhà
vô thần. “Nhưng chủ nghĩa vô thần của Spinoza còn hạn chế vì ông cho rằng mê
tín là cần thiết để xác định đạo đức, hành vi của quần chúng “ [7]. “Spinoza đưa
ra một quan niệm sai lầm khi gọi thực thể - giới tự nhiên là thần, tư tưởng là
thuộc tính của mọi vật chất, vạn vật đều có linh hồn. Vì vậy, triết học duy vật của
Spinoza được nhiều người coi là biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần luận” [12].
 Hạn chế thứ 3: Quan điểm về thế giới của các triết gia mang tính duy vật
siêu hình, máy móc. Vì vậy không vạch ra được mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng và không xác định đúng đắn nguyên nhân của sự vận động và phát triển.
Do đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kỳ cận đại ở các nước Tây Âu là
khoa học tự nhiên - thực nghiệm nên dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận
thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu
có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc, kể cả con người
như những cổ máy. Descartes quy toàn bộ các dạng vận động thành vận động cơ
15
học thuần; không coi vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất mà chỉ xem là
biểu hiện cá biệt của các sự vật một cách bề ngoài. Giữa vận động và đứng yên
chẳng có mối quan hệ gì với nhau.
“Có thể nói hạn chế lớn nhất nhưng không thể tránh khỏi của triết học duy
vật thời cận đại là phương pháp siêu hình” [1, Tr.64]. Descartes phân biệt linh
hồn với thể xác và cho rằng “Thế giới vật chất là một thế giới riêng biệt và nó chỉ
tuân theo những luật của vật chất” [6]. Điều này cho thấy quan điểm siêu hình
trong lý luận của Descartes.
Học thuyết về thực thể của Spinoza cũng chưa thoát khỏi tính siêu hình
khi cho rằng “Thực thể bất động và bất biến, vận động không phải là thuộc tính
vốn có thực thể mà là một dạng thức vận động vô tận tách rời thực thể. Đây là
hạn chế của Spinoza trong việc giải thích nguồn gốc của vận động” [10].
“Spinoza không quan niệm được vật chất tiến triển tới một mức cao thì thành

tinh thần mà quan niệm một cách máy móc: tồn tại song song, không thấy được
quan hệ đúng giữa tư tưởng và thực tại, không giải quyết được liên quan giữa
tinh thần và cơ thể, tư tưởng và thực tại” [12].
“Spinoza chia nhận thức của con người thành nhận thức cảm giác; giác
tính và trực giác – đây chính là tư duy lý tính. Tuy nhiên, trong lý luận của mình,
ông chưa giải quyết đúng biện chứng của quá trình chuyển từ cảm tính lên giác
tính và trực giác. Vì vậy, trong vấn đề này ông vẫn là nhà triết học siêu hình”
[12].
PHẦN KẾT LUẬN
Trong lịch sử phát triển của triết học, tư tưởng của trường phái duy lý – tư
biện mặc dù có những hạn chế nhất định. Song, các nhà triết học thuộc trường
phái này đã có những công hiến to lớn cho nhân loại khi đặt ra nhiều vấn đề lý
luận mới đối với sự phát triển của triết học và khoa học sau này. Và đó là điều
không thể phủ nhận. Trong đó, tư tưởng nền tảng là triết học của Descartes, ông
đã có công khôi phục truyền thống duy lý phương Tây và phát triển lên đỉnh cao
16
đồng thời ông đã đấu tranh chống lại sự thống trị của triết học kinh viện, mở
đường cho nền triết học phương Tây ngày nay. Triết học khai sáng (với hạt nhân
là chủ nghĩa duy vật chiến đấu) Pháp thế kỷ XVIII đã kế thừa trực tiếp quan điểm
duy vật tự nhiên và tinh thẩn duy lý của triết học Descartes. Và sau đó, khi tiếp
thu những hạt nhân hợp lý trong triết học Descartes lẫn trong triết học Hegel mà
không cần tin vào Thượng đế cũng chứng thực được giá trị trí tuệ của con người,
không quay về những học thuyết mô hồ, huyền bí cũng giải thích được vũ trụ,
con người, xã hội đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng được Marx và Engels khởi
xướng.
Như vậy có thể thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý tư biện phương Tây
nói chung và của học thuyết Descartes nói riêng rất lớn lao, có thể nói lịch sử
triết học đã gắn liền với lịch sử học thuyết Descartes. Trong thời đại ngày nay, cơ
sở tư duy lý luận của trường phái duy lý – tư biện có vai trò to lớn, khi bất cứ
lĩnh vực nào cũng đòi hỏi sự tư duy, vì tư duy để sáng tạo và sáng tạo để giúp

cho con người tồn tại trong xu thế toàn cầu hoá. Với nền kinh tế hội nhập trên thế
giới thì sự tư duy để tìm ra những phát minh mới rất cần thiết. Và mỗi người ai
cũng cần tư duy để không phải lạc hậu giữa thế giới công nghệ thông tin phát
triển như hiện nay.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa, Triết học & Bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
2. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học
(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
3. Đoàn Quang Thọ, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Ước, Đại cương Triết học phương Tây, Nxb Tri thức, 2009.
5. Nguyễn Tấn Hùng, Những quan niệm khác nhau trong lịch sử triết học về
bản chất, con đường nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý.
< />vientriet=articles_deltails&id=611&cat=48&pcat=>
6. Lê Thanh Sinh, Vị thế và ảnh hưởng của triết học Descartes trong lịch sử
triết học, Tạp chí Triết học, 2007.
< />7. Trần Đức Thảo, Lịch sử tư tưởng trước Marx, Nxb Khoa học Xã hội,
1995, trang 342-373.
< />option=com_content&view=article&id=251:lch-s-t-tng-trc-marx-phn-
8&catid=40:trn-c-tho&Itemid=203>
8. />Itemid=265&id=376&option=com_content&task=view
9. />10. />11. />12. />Xpinoda
19

×