Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.38 KB, 20 trang )


Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Lútvích Phoiơbắc
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc và vai
trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Giáo viên hướng dẫn : TS. BÙI VĂN MƯA
Người thực hiện :NGUYỄN PHẠM NHẬT TRIỂN
Lớp : Cao học kinh tế – K22 – Ngày 4
Nhóm : 8
STT : 75
TP Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 12 năm 2012
Nguyễn Phúc Nguyên
1
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Giới thiệu chung về Lútvich Phoiơbắc và chủ nghĩa duy vật nhân
bản
1.1. Sơ lược về Lútvich Phoiơbắc
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.2.2.1. Quan điểm về con người
1.2.2.1.1. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
1.2.2.1.2. Mối quan hệ giữa con người với con người
1.2.2.1.3. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
1.2.2.2. Quan điểm về nhận thức
1.2.2.3. Quan điểm về tôn giáo


Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của triết
học Mác
2.1. Quan điểm của Mác – Ăngghen đối với chủ nghĩa duy vật nhân bản
2.2. Đánh giá vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của triết học
Mác
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ cho
đến ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát
triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán
những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để, không
điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Sự ra đời của triết học Mác có sự
đóng góp rất nhiều từ các lý luận trước đó của triết học cổ điển Đức, trong đó có
“Chủ nghĩa duy vật nhân bản” của triết học Phoiơbắc.
Phoiơbắc là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ đó, những lý
luận của ông đã có một vai trò to lớn trong sự ra đời và hoàn thiện của triết học Mác.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ xuất hiện cách mạng triết học Đức thế kỷ XIX,
Phoiơbắc đã từng tin tưởng và trở thành một môn đồ của trường phái Hêghen. Tuy
nhiên, sớm nhận thấy những quan niệm duy tâm sai lầm trong lý luận về tư duy và
tồn tại, về con người và thế giới, ông đã xây dựng cho riêng mình một hệ thống triết
học mới – triết học của con người, của tinh thần duy vật nhân bản. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen là những người đã nhận thức một cách chính xác những thành tựu và
hạn chế của triết học Phoiơbắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xây dựng thế
giới quan duy vật biện chứng của mình.
Nhằm mục đích tìm hiểu về “Chủ nghĩa duy vật nhân bản” của triết học Phoiơbắc

và đánh giá những vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác, tác giả đã thực
hiện đề tài “Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc & vai trò của nó đối với sự ra đời
của triết học Mác”.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 3
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Chương 1: Giới thiệu chung về Lútvich Phoiơbắc và chủ nghĩa duy vật nhân
bản
1.1. Sơ lược về Lútvich Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc (1804-1872), sinh ra ở Landshut, Bravaria (Đức) trong một gia
đình luật sư nổi tiếng. Từ nhỏ, Phoiơbắc đã có niềm đam mê nghiên cứu về tôn giáo,
được sự cho phép của cha, ông theo học tại Heidelberg năm 1823 để nghiên cứu về
thần học.
Tư tưởng cải cách triết học của Phoiơbắc được hình
thành từ năm 1829, khi ông vừa hoàn thành luận án tiến
sĩ và bắt đầu giảng dạy lôgic học và siêu hình học tại
Erlangen. Ông đã xuất bản ba cuốn sách giữa các năm
1833-1838, bao gồm: Lịch sử của triết học hiện đại từ
Bacon đến Spinoza (1833), Trình bày, phát triển và phê
bình triết học của Leibniz (1837), Pierre Bayle (1838) và nhờ nó mà danh tiếng ông
đã được thiết lập, ông được xem như là một học giả trẻ tài năng.
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật duy nhất trong nền triết học cổ điển Đức, người
đã đem đến sự kết thúc đầy ý nghĩa cho toàn bộ nền triết học phương Tây cổ điển
nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng. Ông từng tham gia phái Hêghen trẻ,
chống lại việc tôn giáo và các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới
hiện thực, ông coi chúng là những xiềng xích trói buộc con người. Tuy nhiên, về
sau chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng Pháp thế kỉ XVIII, Phoiơbắc quay sang
phê phán người thầy Hêghen của mình và ngày càng ngã sang lập trường duy vật
và năm 1839 ông cho xuất bản tác phẩm “Phê phán triết học Hêghen” nhằm bác bỏ
quan điểm duy tâm của người thầy Hêghen.
Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Theo ông, con

người là đối tượng của triết học mới, và khoa học nghiên cứu bản chất của con
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 4
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
người là nhân bản học, nên triết học mới đó phải là triết học nhân bản, phải là khoa
học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa học.
Có thể nói, triết học Phoiơbắc cùng với triết học Hêghen chính là tiền đề lý luận
cho triết học Mác cũng như góp phần tích cực cho sự ra đời của triết học Mác.
Trong đó, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là khâu trung gian giữa triết học
của Hêghen và triết học Mác.
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hêghen trẻ, có thể nói triết học của Phoiơbắc đã
bắt nguồn từ triết học của Hêghen, cũng giống như Hêghen, Phoiơbắc tin rằng tôn
giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Nhưng về sau
chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, Phoiơbắc quay sang phê
phán người thầy của mình và ngã sang lập trường duy vật. Hạn chế cơ bản nhất của
triết học Hêghen, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, là quan
điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, coi toàn
bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như một lực
lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy tâm
và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự
nhiên cũng giống như quan niệm Chúa trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng
Hêghen chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư
tưởng của mình, tức là ông đã biến lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà
thôi. Vì vậy, Phoiơbắc cho rằng: “Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng của
thần học mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy -
thuộc tính.”
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 5
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt

đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển của tự nhiên, là
cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có được.
Phoiơbắc cũng cho rằng ông có sứ mạng phải xây dựng một nền Triết học mới –
triết học về chính con người, nghiên cứu các vấn đề về con người để làm sáng tỏ bản
chất con người đang tồn tại và giải quyết vấn đề “quan hệ tư duy & tồn tại” là tạo
cho con người một cuộc sống thật sự hạnh phúc trên trần gian. Phoiơbắc lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu của triết học mới và khoa học nghiên cứu về bản
chất của con người là nhân bản học nên triết học mới đó phải là triết học nhân bản
hay nhân bản học phải là khoa học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa học.
Triết học mới mà Phoiơbắc đã xây dựng là triết học duy vật nhân bản.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc nằm ở tính thống nhất của bản chất con
người, tinh thần và thể xác, trong đó thể xác là bộ phận của thế giới khách quan, và
ở chừng mực nào đó nó bao hàm cả tồn tại của thế giới ấy. Triết học mới – Phoiơbắc
viết: “Biến con người, gồm cả tự nhiên với tư cách cơ sở của con người, thành đối
tượng duy nhất, phổ quát và cao nhất của triết học và do đó, biến thuyết nhân bản,
trong đó có triết học, thành khoa học phổ quát”.
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản
1.2.2.1. Quan điểm về con người
Con người là gì? Phoiơbắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của
Thượng đế như các nhà thần học quan niệm, cũng không phải là “sự tha hoá” của “ý
niệm tuyệt đối” như Hêghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên. Theo ông, giới
tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là
con người, bởi vì con người là một thực thể hoạt động; trong đó, con người là sản
phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên. Khi giải thích sự khác biệt căn bản giữa
loài người và loài vật là gì, L.Phoiơbắc viết: “Đó là sự khác nhau trong ý thức đúng
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 6
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
với nghĩa chân chính của từ này… Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi
chủ thể có khả năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật
nhận thức mình như một cá thể; nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi,

chứ không phải như một loài… bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình, còn con
người sống có bạn. Đời sống nội tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài,
còn con người sống với cả hai chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài”.
Con người trong triết học Phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản
chất con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc
cũng nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với
tư duy và ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ
khác trong lều tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim
anh ta cũng không có chất cho đạo đức và các quan niệm khác. Trong Chủ nghĩa
duy vật nhân bản của Phoiơbắc, quan điểm về con người được xem xét trong ba mối
quan hệ cơ bản dưới đây.
1.2.2.1.1. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
Mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh quan hệ giữa thế giới vô cơ
và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống theo nghĩa thế giới vô cơ
là tiền đề, là nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống con người nói riêng.
Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách
quan bên ngoài nó; thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan
con người, chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định.
L.Phoiơbắc lập luận rằng, ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà con
mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để
cho con người hít thở, mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không
có không khí thì sẽ không có sự sống; rằng, có sự tồn tại một mối quan hệ tất yếu
giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ và đó chính là cơ sở, là bản chất của sự sống.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 7
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Phoiơbắc cho rằng không thể tách con người ra khỏi giới tự nhiên, vì con người là
sản phẩm tất yếu cao nhất của giới tự nhiên, còn giới tự nhiên là cơ sở không thể
thiếu của đời sống con người. Con người dựa vào giới tự nhiên để được thỏa mãn
mọi nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, sinh đẻ Mặt khác, giới tự nhiên là đối tượng
cảm giác trực tiếp của con người, tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan

nhận biết của con người, qua thời gian con người dần dần nhận thấy rằng chính bản
thân con người đã bị lệ thuộc vào giới tự nhiên - là đối tượng của cảm giác.
1.2.2.1.2. Mỗi quan hệ giữa con người với con người
Lý giải về mối quan hệ giữa con người và con người, Phoiơbắc chỉ rõ hai bản tính
của con người, bao gồm: bản tính cá nhân và bản tính cộng đồng. Trong khi bản tính
cá nhân thể hiện rõ tính cá thể của mỗi người, tạo ra sự khác biệt giữa người và
người thì bản tính cộng đồng theo Phoiơbắc là cội nguồn của tình yêu mênh mông.
Theo đó, sự hòa hợp giữa bản tính cá nhân và cộng đồng chính là cơ sở của tính ích
kỉ hợp lý và ông coi tính ích kỷ của con người như là một động lực thúc đẩy sự phát
triển của lịch sử xã hội.
Triết học Phoiơbắc đầy quan điểm về đạo đức thể hiện rõ nhân bản dành cho con
người, vì con người. Con người sống phải yêu nhau, đấu tranh trong tình yêu không
mang tính giai cấp, không mang tính phụ nợ. Tình yêu phải xóa đi hận thù đó mới là
tình yêu, yêu mà còn hận thù thì không phải là yêu. Đó là triết lý của ông ta, bởi vì:
Ông sống trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cá lớn nuốt cá bé, con người chèn ép con
người nên ông ta muốn dùng triết lý tình yêu để xóa đi những bi đát của thời đại, đó
là thực hiện đơn đặt hàng của thời đại của lịch sử, thời đại hận thù phải chữa bằng
tình yêu.
1.2.1.1.3. Mỗi quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Từ việc quan sát hình thể bên ngoài cũng như mọi hoạt động lao động sản xuất,
hoạt động tinh thần của con người, L.Phoiơbắc cho rằng, bản chất con người là một
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 8
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư
duy). Sự thống nhất này đảm bảo cho sự sống của con người có thể tồn tại và phát
triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật. Sai lầm của chủ
nghĩa duy tâm là toan tính thủ tiêu sự thống nhất đó của con người, tách rời tư duy
con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một thực thể siêu tự nhiên có khả
năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của nhị nguyên luận là đánh đồng
tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau - đó là

sự khẳng định vòng vo, lối nói nửa vời, tách đôi trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm cũng như của nhị
nguyên luận trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, L.Phoiơbắc
khẳng định rằng, “quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là: tồn tại – chủ thể
(sujective), tư duy – thuộc tính (prelicate). Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không
phải tồn tại xuất phát từ tư duy…, cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại, tồn tại
chính là cảm tính, là nguyên lý, trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý… bản chất của tồn tại
với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể,
còn tư duy là thuộc tính của chủ thể đó? Để trả lời câu hỏi này, theo L.Phoiơbắc,
chúng ta cần sự giúp sức của sinh lý học và câu trả lời là: “Con người chỉ có thể suy
nghĩ nhờ đầu óc tồn tại cảm tính của mình, lý tính có cơ sở cảm tính vững vàng
trong đầu óc, trong bộ não, trong sự tập trung của các giác quan” và “Tinh thần là
sản phẩm có sau và hơn nữa là sản phẩm của trí tưởng tượng và trừu tượng, tinh
thần phát triển cùng với thể xác, với con người nói chung; tinh thần liên quan với
cảm giác, với đầu óc, với các giác quan của cơ thể”.
1.2.1.2. Quan điểm về nhận thức
Đứng trên quan điểm duy vật Phoiơbắc đã phê phán hệ thống duy tâm khách quan
của Hêghen ở chỗ, coi đối tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư duy.
Từ đó ông khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 9
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
giới tự nhiên và con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát
con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học.
Phoiơbắc cho rằng, giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính logic trừu
tượng hay Thượng đế là khách thể của nhận thức. Chủ thể nhận thức cũng không
phải là lý tính logic trừu tượng mà là con người sống động, tồn tại trong thực tế, có
cảm giác và lý trí. Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý
luận xử lý tài liệu cảm tính để kiểm tra khám phá ra chân lý. Chân lý là sự phù hợp
giữa tư tưởng trong chủ thể đối tượng được tư tưởng – khách thể. Nhờ vào năng lực
của cảm giác và lý trí mà con người có khả năng nhận thức đầy đủ giới tự nhiên,

nhưng là một quá trình lâu dài, thông qua các cá nhân và các thế hệ khác nhau.
Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức cảm tính
với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không rút ra được kết
luận rõ ràng.
Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã khẳng định,
con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã bộc lộ hạn chế
ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, vai trò của
hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận thức của Phoiơbắc
vẫn nằm trong khuôn khổ của phương pháp suy nghĩ siêu hình.
1.2.2.3. Quan điểm về tôn giáo
Cụ thể hoá những quan niệm trên đây về con người, Phoiơbắc phân tích các vấn đề
tôn giáo.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người.
Người ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy,
chứa đựng trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con
người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã
hội.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 10
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con
người như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa
là tự ý thức của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực
ra "bản chất thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng
đã được tinh chế, khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương,
bằng thịt".
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý,
tình cảm và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đồng thời cho thấy nội dung
nhăn bản trong các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh
tế chính trị- xã hội và văn hoá của vấn đề.

Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải
nguồn gốc và bản chất của tôn giáo.
Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc giáo.
Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người.
Cho nên thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần một tôn giáo mới", vì chỉ có tín
ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời
con người. Mặc dù sự an ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và
phải chấp nhận sự dối trá đó. Đúng như Engel nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn
không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng
phải hoà vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là
tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa người và người. Tôn giáo tình yêu của
Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông. Ông cho rằng nó phản ánh được cái gì
đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó cần thiết phải tồn tại chừng nào xã hội loài
người còn tồn tại. Và phải hình thành nên tình cảm tôn giáo.
Chương 2: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của triết
học Mác
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 11
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
2.1. Quan điểm của Mác – Ăngghen đối với chủ nghĩa duy vật nhân bản
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là một trong những lý luận quan trọng
để C.Mác và Ăngghen sáng tạo ra một nền triết học vĩ đại, Triết học Mác – Lênin.
Có thể nói, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của L.Phoiơbắc nói
chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng. Tuy đánh giá cao L.Phoiơbắc,
nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhận thấy rằng, triết học nhân bản của
L.Phoiơbắc còn có nhiều hạn chế, nhiều điều bất ổn cần phải phê phán, chỉnh sửa từ
cách nhìn của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã dành hẳn một chương để bàn về triết học L.Phoiơbắc; trong đó, các
ông chỉ rõ hạn chế cơ bản, bao trùm toàn bộ triết học nhân bản của L.Phoiơbắc là
việc tách rời lịch sử khỏi chủ nghĩa duy vật và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới
các hạn chế mang tính chất hệ quả khác, cụ thể là:

Thứ nhất, L.Phoiơbắc đã xem xét con người một cách trừu tượng, con người phi
lịch sử, phi giai cấp, nghĩa là xem xét con người với tư cách một cá nhân thuần tuý,
biệt lập, tách khỏi cơ sở tồn tại hiện thực của nó – phương thức sản xuất. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, so với các nhà duy vật “thuần túy”, L.Phoiơbắc đã có ưu
điểm lớn là ông thấy rằng, con người cũng là một “đối tượng của cảm giác” chứ
không phải là “hoạt động cảm giác được”. Tuy nhiên, hạn chế lớn của ông là không
xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều
kiện sinh hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con
người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế. Nghĩa là, L.Phoiơbắc không bao giờ
tới được những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở
một sự trừu tượng. Ở ông, con người “hiện thực, cá thể, bằng xương, bằng thịt” chỉ
đóng khung trong tình cảm thôi và hoàn toàn không biết đến những “quan hệ con
người” nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn được lý tưởng hoá. Thực tế, L.Phoiơbắc
đã không phê phán những điều kiện sinh hoạt hiện tại và cũng “không bao giờ hiểu
được rằng, thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 12
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
được của những cá nhân họp thành thế giới ấy”. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
kết luận rằng, “Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ đề cập tới lịch
sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở
L.Phoiơbắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau”.
Thứ hai, L.Phoiơbắc chỉ nhìn thấy sự khác biệt cơ bản giữa con người và các loài
động vật khác về phương diện nhận thức mà không thấy rằng, sự khác biệt đó được
bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất. Đây là một hạn chế mang tính phổ biến của chủ
nghĩa duy vật trước Mác, mà điển hình là chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc. Vận
dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc xem xét lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen cho rằng, “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên
là sự tồn tại của những cá nhân con người sống. Hành động lịch sử đầu tiên của
những cá nhân đó, hành động mà nhờ đó họ khác với loài vật, không phải là việc họ
tư duy mà là việc họ bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho họ…

Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước
tiến do tổ chức cơ thể con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Theo đó, sự khác biệt giữa con người và con vật về phương diện tư duy như quan
niệm của L.Phoiơbắc chỉ là sự khác biệt mang tính phái sinh mà thôi, còn nguyên
nhân cơ bản của sự khác biệt đó nằm ngay trong đời sống vật chất của con người.
Thứ ba, L.Phoiơbắc không nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, chính vì vậy, ông không thể lý giải được một cách duy
vật quá trình bộ óc của con người sản sinh ra ý thức và tư duy như thế nào. Phê phán
quan điểm này của L.Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định một cách dứt
khoát rằng, “sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là
trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và sự giao tiếp vật chất của con
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 13
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
người – ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao
tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ
vật chất của họ… Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.v.
của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị
quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi
sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của
những sự giao tiếp đó”.
Thứ tư, “hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người”, L.Phoiơbắc đã đi đến
kết luận duy tâm rằng, động lực vận động của lịch sử xã hội là sự thực hiện những
khát vọng cá nhân, mà cụ thể là tính ích kỷ của con người; còn lịch sử nhân loại
chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo. Với kết luận như trên,
L.Phoiơbắc đã dành cho chủ nghĩa duy tâm và thần học nơi ẩn nấp khá an toàn.
Nghiên cứu quá trình vận động của lịch sử xã hội loài người từ thời cổ đại đến
đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, lịch sử không phải là sự thay thế

lẫn nhau của các hình thức tôn giáo, mà là sự thay thế của các hình thái kinh tế – xã
hội và động lực của lịch sử chính là đấu tranh giai cấp. Các ông khẳng định: “Không
phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết
học và của mọi lý luận khác. Quan niệm đó chỉ ra rằng lịch sử không kết thúc bằng
việc tự quy thành “Tự ý thức”, coi đó là “Tinh thần của tinh thần”, rằng mỗi giai
đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất định, một tổng số nhất định
những lực lượng sản xuất”. Như vậy, lịch sử không phải được thực hiện bằng các
khát vọng cá nhân mà lịch sử chính là một quá trình hiện thực vật chất, vì “sự biến
đổi lịch sử thành lịch sử toàn thế giới không phải là hành vi trừu tượng nào đó của
“tự ý thức”, của tinh thần thế giới hay của một con ma siêu hình nào đó, mà là một
hành động hoàn toàn vật chất, có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm, một hành
động mà mỗi cá nhân - đúng như cá nhân đó đang tồn tại trong đời sống thực tế,
đang ăn uống và mặc quần áo, - đều là một bằng chứng”.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 14
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
2.2 Vai trò của Chủ nghĩa duy vật nhân bản đối với sự ra đời của triết học Mác
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX khi chủ nghĩa duy tâm đang thống trị đời sống
tinh thần ở phương Tây thì chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc đã đóng một
vai trò quan trọng trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thêm một
bước. Những quan điểm về con người, tự nhiên, tư duy, tồn tại, nhận thức, tôn giáo
trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là chính tài liệu quý giá để Mác –
Ăngghen sử dụng để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác. Chẳng hạn như
quan niệm về con người trong triết học L.Phoiơbắc như đã trình bày ở trên, theo
đánh giá của A.G.Spirkin, “chính là điểm xuất phát cho những lập luận của C.Mác
về con người và bản chất con người”. Bởi vì, bằng những quan niệm đó, người mở
đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn phá tan mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan, “đưa một cách không úp mở
chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua” và khẳng định một cách dứt khoát rằng, “tự
nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó con người chúng ta –
bản thân chúng ta cũng là sản phẩm của tự nhiên - đã sinh trưởng”.

Với Chủ nghĩa duy vật nhân bản, Phoiơbắc đã khẳng định con người là sản phẩm
của văn hóa, của lịch sử; ông cho rằng, ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân như các
nhà đạo đức học trước ông tuyên bố, mà còn mang tính xã hội. “Không chỉ có một
tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích kỷ cá nhân, - L.Phoiơbắc viết, - mà còn có một
tính ích kỷ xã hội, một tính ích kỷ của gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính
ích kỷ yêu nước. Tất nhiên, tính ích kỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng
là nguyên nhân của mọi điều thiện; bởi vì không có cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã
tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có nghệ
thuật, có khoa học,… tính ích kỷ ngăn cấm trộm cướp, dối trá, hạn chế ngoại tình”.
Nhận xét về quan điểm mới này của L.Phoiơbắc, V.I.Lênin cho rằng, đây là “phôi
thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Tiến xa hơn một bước nữa, Phoiơbắc coi tính
ích kỷ của con người như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 15
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Ông viết: “Trong lịch sử, một thời đại mới bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ, đông đảo
quần chúng bị áp bức đưa ra tính ích kỷ chính đáng của mình chống lại tính ích kỷ
cực đoan của thiểu số người khác… tính ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức
phải và sẽ thực hiện quyền của mình và mở ra một thời đại lịch sử mới… không thể
để cho thiểu số người là cao thượng, có tài sản; còn số khác là thấp hèn, là chẳng có
gì. Tài sản phải có ở tất cả mọi người”. Những lời lẽ có tính tuyên chiến với xã hội
tư bản này được L.Phoiơbắc nói ra vào thời điểm lịch sử khi Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen mới ra đời đã phần nào phản ánh tư tưởng xã
hội chủ nghĩa của ông.
Không chỉ có quan điểm về con người, quan điểm về tôn giáo trong triết học của
Phoiơbắc cũng có những quan niệm duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến C.Mác và
Ph.Ăngghen. Năm 1841, Phoiơbắc đã cho xuất bản tác phẩm Bản chất của đạo Cơ
đốc, ông đã nói “không phải chúa Trời sáng tạo ra con người, mà chính con người
sáng tạo ra chúa Trời”. Theo ông, “con người đang khách quan hóa bản chất của
mình và biến mình thành đối tượng của cái bản chất đã bị khách quan hóa này – và
đây chính là bí mật của tôn giáo”. Luận điểm của L.Phoiơbắc - “bản chất của thần

thánh không là cái gì khác ngoài bản chất của con người bị khách quan hóa, tách
biệt khỏi con người cá thể, nghĩa là tách biệt khỏi con người hiện thực bằng xương
bằng thịt” - đã trở thành “sợi chỉ đỏ” trong quan niệm của C.Mác và Ph. Ănghen về
tôn giáo. C.Mác đã bày tỏ sự ủng hộ Phoiơbắc, thể hiện một tình cảm bái phục nhà
duy vật này trong cuộc tranh luận giữa ông với nhà thần học, nhà triết học theo phái
Hêghen trẻ - Đ.Stơrauxơ (1808 - 1874) năm 1842. Sau đó, C.Mác đoạn tuyệt với
nhóm Béclin trong phái Hêghen trẻ.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 16
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
Kết luận
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đã góp phần khôi phục và phát triển chủ
nghĩa duy vật thời kỳ cận đại sau khi bị chôn vùi trong thời trung cổ. Nó đã trình
bày rõ quan niệm duy vật và lấy con người làm đối tượng nghiên cứu của triết học,
con người chính là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, dựa vào giới tự nhiên để
thỏa mãn mọi nhu cầu của chính mình và bằng cảm giác tư duy, con người nhận
thức được giới tự nhiên và tìm hiểu chính mình. Cuộc sống của con người luôn gặp
nhiều khó khăn và đau khổ và họ cần có niềm tin để an ủi mình; mà tôn giáo chính
là cơ sở nguồn gốc của niềm tin.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì
vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận, tiền đề
triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Phương pháp biện chứng duy vật
– linh hồn của chủ nghĩa Mác – là kết quả cải biến chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
và phát triển phép biện chứng Hêghen.

Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 17
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS Bùi Văn Mưa, Triết học (phần I) “Đại cương về lịch sử Triết học” - Dùng
cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học

– trang 209, xuất bản năm 2011.
[2]. Ph.Ăngghen, Lút vích phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
1888.
[3]. Hệ tư tưởng Đức – Nhà xuất bản sự thật - năm 1977.
a. TS Nguyễn Huy Hòang, Quan điểm của L.PHOIƠBẮC về văn hóa và con
người, Tap chí Triết học số 5 (180) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=543&cat=48&pcat=
b. Phó giáo sư – TS Đặng Hữu Toàn, “hệ tư tưởng Đức” – tác phẩm đánh dấu sự
ra đời một thế giới quan mới, một quan niệm duy vật về lịch sử, Tạp chí Triết
học số 1 (176) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=766&cat=48&pcat=
c. TS Lê Công Sự, Đánh giá của C.Mác và ph.Ăngghen về vấn đề con người
trong triết học L.Phoiơbắc qua “hệ tư tưởng Đức”, Tạp chí Triết học số 11
(186) năm 2006
/>vientriet=articles_deltails&id=364&cat=48&pcat=
[4]. C.Mác, Luận cương về Phoiơbắc, 1845.
[5]. Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 18
Chủ nghĩa duy vật nhân bản và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác
[6]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học (tập 1, 2, 3) - Dùng cho Nghiên cứu sinh và
Học viên cao học không thuộc chuyên ngành Triết học. NXB Chính trị Quốc
gia – năm 2001.
[7]. Phoi-ơ-bắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm
chủ nghĩa-Nhà xuất bản sự thật- năm 1977.
[8]. Một số bài tiểu luận của học viên cao học khóa 20 – Trường Đại học kinh tế
TPHCM.
Nguyễn Phạm Nhật Triển Page 19

×