Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.37 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đ ề tài số 10 :
“CHỦ NGHĨA DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP
THẾ KỶ XVIII”
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH : NGÔ THANH MAI
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 5-K21
STT : 95- NHÓM 10

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỜNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CHIẾN ĐẤU
PHÁP THẾ KỶ XVII ……………………………………………………… 2
1.1 Đặc điểm của triết học khai sáng Pháp …………. …………………… 2
1.2 Đặc điểm của triết học duy vật chiến đấu Pháp …………… ……… 2
1.3 Các nhà triết gia tiêu biểu ……………………………………………….3
1.3.1 Tư tưởng duy vật chiến đấu của Đidơrô…………………………………3
1.3.2 Tư tưởng vật chất của Pôn Hăng-ri-Hôn-Bách………………………… 6
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT
CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII………………………………………… 9
2.1 Giá trị…………………………………………………………………….9
2.2 Hạn chế………………………………………………………………… 11
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN………………………………………………………13
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………
LỜI MỞ ĐẦU
Ta biết rằng Triết học là sản phẩm tất yếu của sự phát triển và hoàn thiện của xã
hội, triết học còn được xem như thành tố không tách rời văn hóa tinh thần, tinh hoa
của mỗi dân tộc trên những chặng đường phát triển nhất định của lịch sử nhân loại.


Nghiên cứu triết học cho ta một cái nhìn tổng quan về thế giới quan, là cơ sở cho các
ngành khoa học khác phát triển, hiểu đúng bản chất của triết học cho ta phương
pháp luận logic trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Hiện nay nhà nước ta đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mac-
Lenin là nền tảng cho mọi hoạt động lý luận cũng như thực tiễn, mà hạt nhân là chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Để vận dụng đúng chủ nghĩa duy vật biện chứng chúng ta
phải xem xét những giai đoạn phát triển của chủ nghĩa duy vật thời kỳ trước, đặt biệt
là triết học duy vật chiến đấu Pháp vì đây là thời kỳ chủ nghĩa duy vật phát triển một
bước đột phá, làm sống lại những giá trị của nền triết học duy vật cổ đại Hy Lạp,
nền kinh tế phát triển vượt bâc từ những thành tựu khoa học kỹ thuật, và do ảnh
hưởng của những quan niệm mới mà trong xã hội hình thành trào lưu chiến đấu mạnh
mẽ bằng việc phê phán các quan niệm cũ về thế giới và con người, tập hợp đông
đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, quyết liệt tấn công vào chế độ phong kiến và
chủ nghĩa duy tâm thống trị hàng ngàn năm.
Tuy có nhiều mặt tích cực đóng góp cho phong trào cách mạng tư sản Pháp thế
kỷ XVIII, nhưng nó cũng bộc lộ những quan niệm máy móc siêu hình trong việc
xem xét sự vật, trong nhận thức của các triết gia thời bấy giờ.
Để hiểu được đầy đủ bản chất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này. nhằm áp
dụng vào công cuộc xây dựng nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chống
lại các thế lực thù địch trong và ngoài nước, mà nhóm đã chọn đề tài “Chủ nghĩa
duy vật chiến đấu Pháp thế kỷ XVIII”.
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC DUY
VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII
1.1. Đặc điểm của triết học khai sáng:
Khác với thời phục hưng, thời kỳ cận đại thế kỷ XVIII là thời kỳ thời kỳ giai cấp
tư sản đã dành được chính quyền, phương thức sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa đã được
xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới
cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học
đã đạt được trình độ phát triển vượt bậc, con người đã gặt hái bội thu về các thành tựu

khoa học kỹ thuật như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ
khí, in ấn, hàng hải… thời kỳ này là thời kỳ giai cấp tư sản đã phát triển mạnh mẽ
trong lòng xã hội phong kiến thối nát. Các triết gia duy vật đã đưa ra nhận thức mới
về thế giới quan, về con người, về nhận thức và tôn giáo, bước đầu đưa ra nhận định
hợp lý về tự nhiên, phát triển tin thần hoài nghi và phê phán đối với giáo điều của
nhà thờ và nhà nước phong kiến, đề cao khát vọng giải thoát con người, tham gia
vào quá trình thiết lập nhà nước đề cao hình ảnh con người lý trí và các giá trị nhân
văn chủ đạo điển hình triết học khai sáng Pháp, đây là thời đại ánh sáng, của chủ
nghĩa thuần túy, khẳng định và bảo vệ vai trò hàng đầu của tư duy, là sự kế thừa và
phát triển xưu hướng bài trừ siêu hình học thế kỷ qua theo hướng tích cực hơn. Các
nhà khai sáng coi phương tiện cơ bản để hoàn thiện bản thân và xã hội là phổ biến
tri thức, phong trào khai sáng gắn liền với định hướng cải tạo xã hội theo thiết kế có
căn cứ khoa học, nâng cao vị trí của giáo dục trong xã hội.
1.2. Đặc điểm của triết học duy vật chiến đấu Pháp:
Xuất phát từ triết học khai sáng nhưng chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp thế kỷ
XVIII hình thành trào lưu chiến đấu mạnh mẽ bằng việc phê phán các quan niệm
cũ về thế giới và con người, phê phán không thương tiếc tôn giáo và thần học, vạch
trần thế lực đen tối của thời đại, tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội,
2
quyết liệt tấn công vào chế độ phong kiến và nền tảng tin thần của nó, xác lập những
chuẩn mực mới nhằm hướng họ tới cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ
phong kiến, xây dựng chế độ tư sản mới của giai cấp tư sản đang lên. Đến
giữa thế kỹ XVIII việc phê phán biến thành cuộc đấu tranh chống toàn bộ hệ tư
tưởng phong kiến, nước Pháp trở thành trung tâm truyền bá chủ nghĩa duy vật và vô
thần ở Châu Âu. Các triết gia tiêu biểu thời kỳ này là Môngtecxkio, Vônte, Rútxo,
Điđơro, hônbach vừa là những người uyên bác về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật, khoa học và là những nhà đấu tranh không mệt mõi thông qua
những tư tưởng tiến bộ của mình. Vì thế Chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp thế
kỷ XVIII được xem là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản, là luận chứng sắc bén về
mặt tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp năm 1789 và là bài học kinh nghiệm cho

các cuộc cách mạng sau này.
1.3.Các nhà triết gia tiêu biểu:
1.3.1 Tư tưởng duy vật chiến đấu của Điđơrô(1713-1784): Ông là nhà tư
tưởng điển hình của triết học khai sáng hay chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp, sinh
ra trong một gia đình thợ thủ công ở vùng đông bắc Pháp, do chịu ảnh hưởng tư
tưởng của các nhà khai sáng, ông từ bỏ ý định thành nhà hoạt động tôn
giáo như mong muốn của gia đình, Ông sống trong nghèo khó, suốt đời
chiến đấu vì chủ nghĩa vô thần và quan niệm duy vật. Ông là người khởi xướng
và chủ biên bộ Bách khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ công
nghiệp (1751-1780). Ông có nhiều tác phẩm như Tư tưởng triết học (1746), Cuộc
dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax(1747)…
- Quan niệm về thế giới: Xuất phát từ lập trường duy vật ông cho rằng vạn vật
trong thế giới được hình thành từ thực thể duy nhất là thực thể vật chất, nó tồn tại
khách quan trong trạng thái thường xuyên vận động. chính vận động là thuộc tính
của vật chất, là sinh lực sống động của vật chất. Thế giới vật chất luôn vận động, và
3
quá trình vận động của thế giới vật chất đưa đến sự phát triển, qua đó giới tự nhiên
vật chất tự hoàn thiện mình. Vì vậy ông quan niệm sự dịch chuyển của vật thể từ
vị trí này sang vị trí khác không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận động
thì có cả ở vật đang vận động lẫn vật đứng yên.Ông khẳng định, trong quá trình vận
động và phát triển, giới tự nhiên sẽ chọn lọc những yếu tố giúp cho nó ngày càng
hoàn thiện, đồng thời đào thải những vật nào không thích nghi hoặc không tuân theo
quy luật của nó. Cấu trúc và trạng thái của các sinh vật là kết quả của quá trình tiến
hoá lâu dài của giới tự nhiên. Với quan niệm này, ông đã nhận thấy sự tiến hóa của
sinh vật mang tính quy luật và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường tồn tại
của sinh vật. Ông xứng đáng là một triết gia vĩ đại có nhận thức sâu sắc về sinh học,
là cơ sở nền tảng cho học thuyết tiến hoá sau này. Quan niệm về thế giới của ông là
một bước tiến quan trọng trong việc đấu tranh chống lại quan điểm duy tâm thần học
xem thế giới vật chất này là do chúa trời sáng tạo nên.
- Quan niệm về con người : Con người là sự thống nhất giữa thể xác và linh hồn,

linh hồn là các hiện tượng tâm lý, là một đặc tính của thể xác, không có thể xác thì
không có linh hồn. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà là một tổng thể các
hiện tượng tâm lý được hình thành trong sự phát triển của vật chất để tạo ra một vật
thể có suy nghĩ nên bản thân nó cũng là đặc tính của vật chất. Thể xác là khí quan
vật chất của linh hồn, là cơ sở của quá trình tâm lý, ý thức tư duy. Ông khẳng định
rằng, không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì cả, ông
cho rằng nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh môi trường xung
quanh. Qua quan điểm này ông đã giải thích được bản tính tự nhiên của
con người, nhưng ông chưa hiểu được rằng, bản thân môi trường và hoàn
cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người chịu sự tác động của
con người, vì vậy, cả con người lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang tính
lịch sử trong mỗi giai đoạn nhất định.
4
- Quan niệm về nhận thức: Ông cho rằng nận thức là quá trình vô tận, qua đó
con người dần dần tìm hiểu đầy đủ thế giới vật chất. Ông cho rằng quá trình chuyển
biến từ vô tri vô giác tới khả năng cảm giác, tư duy gắn liền với quá trình phát triển
của cấu trúc vật chất từ vô cơ, hữu cơ đến sự sống và cơ thể con người. Ông đưa ra
tư tưởng biện chứng khẳng định tính vô cùng tận trong sự phát triển của giơí tự
nhiên, cũng như quá trình nhận thức của con người. Ông cho rằng phương pháp triết
lý để nhận thức đúng đắn là trí tuệ kiểm tra trí tuệ, thực nghiệm để kiểm soát cảm
tính, dùng trí tuệ, thực nghiệm và cảm tính để nhận thức thế giới vật chất xung
quanh con người. Ông cho rằng khả năng nhận thức của mỗi cá nhân là hữu hạn,
nhưng đối với nhân loại về nguyên tắc có thể nhận thức được toàn bộ thế giới vật
chất. Quan niệm của ông đề cao vai trò đặc biệt của quá trình nhận thức đối với sự
phát triển của xã hội đây là một tư tưởng tiến bộ. Tuy nhiên, ông chưa thấy được
rằng, ý thức không chỉ là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, mà
còn là sản phẩm của sự phát triển xã hội nó chịu sự tác động của xã hội.
- Quan niệm về tôn giáo : Là nhà triết học đứng trên lập trường duy vật
ông phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, coi Thượng đế chỉ là sự thần
thánh hoá các điều kiện sống hiện thực của con người. Không phải thượng đế

sáng tạo ra con người mà là con người sáng tạo ra tôn giáo và thượng đế. Lý tính và
tính ngưởng không kết hợp được với nhau, vì lý tính khoa học mang cho con người
hiểu biết đứng đắn về thế giới để phục vụ cuộc sống thực của con người, trong khi
đó tính ngưởng tôn giáo cho con người những ảo tưởng làm suy yếu sức mạnh của
chính mình. Ông cho rằng Thượng đế của những người Cơ đốc giá đó là
người bố chỉ coi trọng những đám mây, coi trọng niềm tin chứ chẳng để tâm
gì đến những đứa con do mình sinh ra trên trần gian này cả. Ông đã phê phán
mãnh mẽ những quan niệm đạo đức của tôn giáo, coi đó chỉ là trò giáo
dục con người tới chỗ cả tin vào số mệnh, sống với đức chúa trời đặt trọn niềm tin
vào chúa. Do đó ông chủ trương tách tôn giáo ra khỏi trường học, loại bỏ thần học ra
khỏi giáo dục đại học, nhà thờ ra khỏi nhà nước, đồng thời kêu nhà nước nên mở
5
rộng khoa học và công nghệ, thực hành nền giáo dục toàn dân, hướng tới
xây dựng mọi người thành một nhà khoa học duy vật vô thần. Mặc d ù phê
phán mạnh mẽ tôn giáo nhưng ông chưa nhận thấy cơ sở kinh tế xã hội của sự tồn
tại tôn giáo là nó đã thấm sâu vào cơ thể của mỗi người dân, người dân sống không
thể thiếu tôn giáo và tôn giáo còn là đại diện cho một giai cấp nhất định trong xã
hội, nó là chổ dựa cho giai cấp thống trị. Tuy còn những hạn chế nhất định nhưng sự
phê phán tôn giáo của Điđơrô đã mang tính chiến đấu mạnh mẽ vô cùng quyết liệt
của ông trong việc đấu tranh với tôn giáo trong bối cảnh lịch sử lúc đó là tôn
giáo đang thống trị ở nước Pháp và các nước Tây Âu.
1.3.2 Tư tưởng vật chất của Pôn Hăng-ri Hôn-bách (1723-1789): Ông vốn là
dòng dõi nam tước Đức, sau khi tốt nghiệp đại học ở quê nhà, ông đến Pháp và ở đó
suốt đời. Holbach không chỉ là một trong những trụ cột của phái Khai sáng. Ông còn
tham gia tích cực vào phái Bách khoa toàn thư. Các tác phẩm chính: Đạo Cơ đố bị
bóc trần (1761), Sách thần học bỏ túi hay là từ điển vắn tắc của đạo Cơ đốc (1768),
Hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật lý và của thế giới tinh thần
(1770).(Ba cuốn này đã bị nghị viện Paris kết án là phải đốt công khai và đã bị đốt
ngày 18/8/1770).Viện bảo tàng của các thiên thần (1770), Lẽ phải thông thường
(1772), Hệ thống xã hội (1773), Luân lý tự nhiên (1776).

- Quan niệm thế giới vật chất: Thế giới quan của Hôn-bách được dựng lên từ nền
tảng vật chất. Trong tác phẩm hệ thống tự nhiên hay là quy luật của thế giới vật lý
và của thế giới tinh thần, Hôn-bách đã chỉ ra rằng thế giới này không gì khác hơn đó
là thế giới vật chất. Với sự nhận thức về thế giới vật chất ở thời kỳ Cận đại thì định
nghĩa vật chất của Hôn-bách có thể xem là tính khái quát nhất “vật chất là tất cả
những cái tác động bằng cách nào đó vào các giác quan của chúng ta, còn các đặc
tính mà chúng ta gán cho các chất khác nhau hay những biến đổi khác nhau do
chúng gây ra trong chúng ta”. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, không bị mất đi và không
bị hủy diệt. Vật chất có đặc tính như: trọng lực, quán tính, không thể phân chia, hình
6
dáng…vật chất tồn tại bằng vận động. Toàn thể vũ trụ là một dây chuyền nhân quả
bất tận với các sự vật, hiện tượng xảy ra không nhừng.
Giống như các nhà duy vật Pháp, Hôn-bách chưa vượt qua được giới hạn của
chủ nghĩa cơ học nên lập trường của ông siêu hình và máy móc. Theo ông căn cứ để
phân loại thành vận động đơn giản và vận động phức tạp đơn thuần chỉ dựa vào số
lượng nguyên nhân tác tác động vào vận động, trong đó vận động giản đơn do một
nguyên nhân gây nên, còn vận động phức tạp là từ hai nguyên nhân tạo thành. Chính
sự phân biệt như vậy nên ông không thấy tính biện chứng trong sự phát triển của
giới tự nhiên. Ông xem thế giới trong sự riêng lẻ, không tác động qua lại lẫn nhau,
ông phủ nhận sự tồn tại của ngẫu nhiên. Cho rằng cái thống trị trong thế giới này là
cái tất nhiên. Tư tưởng về vật chất của Holbach đã có giá trị quan trọng đối với việc
phản bác các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm trong việc xem xét thế giới này là do
thế lực siêu nhiên sáng tạo nên vạn vật trên thế giới mà đại diện là đức chúa trời.
- Quan niệm về nhận thức: Hôn-bách cho rằng con người là sản phẩm của
giới tự nhiên, giống như các sinh vật khác, con người tồn tại trong tự nhiên. Tư
tưởng con người không thể vượt qua giới tự nhiên, từ giới tự nhiên con người tìm
kiếm tri thức và giới tự nhiên ban ý thức cho con người chúng ta, tự nhiên chi phối
con người thông qua hệ thống quy luật máy móc, bất di bất dịch của nó. Hôn-bách
phủ nhận tư tưởng bẩm sinh, khộng có linh hồn bất tử vì bộ não chính là linh hồn
của con người. Mọi tư tưởng quan niệm của con người không thể rút ra từ bản thân

linh hồn, mà phải khái quát từ thế giới bên ngoài thông qua linh hồn của chúng ta.
Trong nhận thức, Hôn-bách là nhà duy cảm, mọi cảm giác của con người đều là
những chấn động bên ngoài mà giác quan của chúng ta cảm nhận được, từ cảm
giác-kết quả hoạt động của sự vật lên giác quan của chúng ta, mà tư duy hình thành
và hoạt động. Nhờ hoạt động của tư duy mà biến hóa mới trong tâm hồn của
chúng ta đưa đến sự xuất hiện ý nghĩ, tư tưởng, ký ức, trí tưởng tượng, phán đoán,
hành động…Về mặt nhận thức, Hônbách đã có những đóng góp đáng kể cho quan
7
điểm duy vật, coi chân lý là sự phù hợp giữa ý niệm và sự vật, nhưng do quan niệm
siêu hình chi phối mà ông coi nhận thức chỉ là sự kết hợp giữa cảm giác và khái
niệm mà không thấy được nhận thức là một quá trình phức tạp. Ông không nhận
thấy những bước chuyển biện chứng của con đường nhận thức từ cảm tính lên lý
tính. Ở ông chỉ thuần tuý là sự nâng cấp về mặt số lượng của cảm giác. Mặc dù có
lúc ông đã từng khẳng định: “Chân lý là sự liên hệ đúng đắn và chính xác của các ý
niệm”.
- Quan niệm về xã hội: Ông coi quá trình phát triển xã hội như một quá trình
định mệnh chi phối. Với quan niệm xã hội Holbach đã tấn công mạnh mẽ vào chế độ
phong kiến khẳng định loài người sẽ thoát khỏi chế độ phong kiến bằng giáo dục,
làm cho lý tính thắng chủ nghĩa ngu dân thời trung đại, ông muốn quá độ từ phong
kiến sang chế độ tư bản bằng con đường lập pháp hóa bằng chế độ quân chủ lập
hiến, hay chế độ chuyên chế sang suốt. Mặc dù mang đầy đủ quan điểm của triết học
duy vật đương thời nhưng Holbach duy tâm về xã hội. Ông cho rằng con đường để
giải phóng con người chỉ có thể là sự giáo dục và vì sự bất công do của chế độ
phong kiến thống trị ở trần gian nên động lực của lịch sử là ở các nhà làm luật. Với
ông, xã hội tư bản đang phát triển là vương quốc của lý tính của con người. Quan
niệm của ông có ý nghĩa to lớn cho giai cấp tư sản trong việc vạch ra đường lối, đưa
ra những quan niệm tự do, giáo dục nhằm chống lại chế độ phong kiến đương thời.
- Quan niệm về tôn giáo và thần học: Mặc dù còn có những hạn chế nhất
định, nhưng có lẽ Holbach là nhà triết học của thời kỳ cận đại viết về tôn giáo hay
nhất. Trước tiên ông đã chỉ cho chúng ta bản chất của cái gọi là khoa học thần học

đó là khoa học mang màu sắc thần thánh, dạy chúng ta suy nghĩ về những cái mà
chúng ta không hiểu được và nó làm cho chúng ta mất quan niệm rõ ràng về những
điều mà chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được về thế giới này. Hôn-bách cũng đã chỉ
ra tôn giáo có mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo hội và chế độ chính trị lúc bấy giờ, là
công cụ duy trì địa vị của tầng lớp quý tộc, của giai cấp thống trị. Và Hôn-bách đi
đến kết luận rằng chính sự ngu dốt, nghèo khó, đau khổ là nguồn gốc đầu tiên của
8
con người về thần linh. Từ khi các dân tộc cảm thấy mình bị khổ cực vô cùng trên
trái đất này thì người ta lấy đức Chúa trời để đe dọa họa làm cho con người khiếp
sợ. Chính vì vậy mà ông cho rằng con người không sinh ra cùng với tôn giáo. Tôn
giáo chỉ phát triển trong một giai đoạn lịch sử, tôn giáo được bịa đặt ra để đặt các
vua chúa lên trên các dân tộc, vua chúa dưới quyền uy của thượng đế, mà con người
phải phục tùng thượng đế.
- Quan niệm về chính trị: Holbach là người chủ trương chế độ quân chủ lập
hiến, còn trong một số trường hợp thì chủ trương chế độ chuyên chế sang suốt.
Mang đầy đủ quan điểm quan điểm của triết học duy vật đương thời hưng Holbach
duy tâm về xã hội. Ông cho rằng con đường để giải phóng con người chỉ có thể là sự
giáo dục và vì “sự bất công thống trị ở trần gian” nên động lực của lịch sử là ở các
nhà làm luật. Với ông, xã hội tư bản đang phát triển là vương quốc của lý tính.
Mặc dù còn những hạn chế nhưng những tư tưởng triết học của các nhà triết học duy
vật pháp đã để lại dấu ấn quan trọng trong hành trình phát triển của chủ nghĩa duy
vật. Lênin đánh giá rất cao các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII vì họ là các tác giả
của “Những tác phẩm nồng nhiệt sinh động, linh lợi, tài tình…có khả năng đưa
người ra khỏi tình trạng mê muội tôn giáo”.
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT CHIẾN ĐẤU PHÁP THẾ KỶ XVIII
2.1 Giá trị:
1. Triết học Pháp thời kỳ này là thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên là
ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội tiến bộ khác trong cuộc
đấu tranh chống ý thức hệ phong kiến và trật tự phong kiến, tôn vinh con người lý

trí, con người mới gương cao ngọn cờ tự do dân chủ nhằm tập hợp những tầng lớp
bị áp bức trong xã hội đấu tranh chống chế độ phong kiến áp bức, các lực lượng tiến
bộ để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho Cách Mạng Tư Sản Pháp (1789-1794).
9
2. Triết học duy vật chiến đấu Pháp là trào lưu tiến tiến nhất châu Âu: Xuất phát
từ những quan niệm về thế giới, về xã hội và tôn giáo nó đem lại những thành tựu
lớn cho nền lý luận nhân loại trong việc nhận thức về thế giới quan, Các nhà duy vật
vạch ra những sai lầm trong nhận thức, phê phán tri thức kinh viện và uy quyền tư
tưởng trong khoa học, chống thần quyền gắn liền với việc phê phán chế độ chuyên
chế phong kiến, đòi hỏi thay thế trật tự xã hội phi lý, phi nhân tính bằng “nhà nước
hợp lý tính” trên cơ sở thừa nhận các quyền cơ bản của con người.
Nền triết học này đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và hành động của nhận loại,
nếu như ở Anh chỉ diễn ra trong màu sắc tôn giáo, ở Đức diễn ra trong suy nghĩ thì ở
Pháp từ lý luận đến hành động thực tiễn bằng cuộc cách mạng năm 1789. Nó đã mở
ra một trào lưu chống chế độ phong kiến trên toàn thế giới. Làm giàu thêm kho tàng
văn hóa thế giới bằng những thành tựu khoa học kiệt sức, bằng các quan niệm mới
mà nó còn có giá trị cho đến ngày hôm nay.
3. Đề cao vai trò của triết học và khoa học trong việc nhận thức quy luật và sức
mạnh tự nhiên, giúp con người làm chủ tự nhiên chứ không phải thượng đế là đấng
sáng tạo ra tự nhiên, con người nghiên cứu về tự nhiên để hiểu tự nhiên, phát triển
khoa học tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống chính mình ngày càng tốt hơn.
4. Về bản thể luận thì các nhà triết học đứng trên lập trường duy vật vô thần,
chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Khẳng định vật chất, tự nhiên là thực thể
duy nhất, tồn tại khách quan. Vật chất luôn vận động. Vận động do nguyên nhân bên
trong của vật chất chứ không phải do một thứ siêu nhiên nào chi phối. Chính sự vận
động làm cho thế giới này phát triển.
5. Mặt tích cực trong việc nhìn nhận con người là sản phẩm của tự nhiên, là thực
thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức. Bác bỏ linh hồn bất tử, linh hồn tách rời cơ thể,
không có thể xác thì không có linh hồn và nhân cách con người là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục.

10
6. Về chính trị - xã hội đề cao tin thần chống chế độ phong kiến, tuyên truyền tư
tưởng chính trị của giai cấp tư sản, đưa ra quan niệm con người tự do, bình đẵng, lập
ra khế ước xã hội, nhà nước là do sự thỏa thuận giữa các tầng lớp nhân dân lập ra.
Chế độ mới có tính cách duy lý, xã hội bảo vệ cá nhân, bảo vệ tự do và hạnh phúc
cho mỗi người, đề cao hình thức nhà nước dân chủ.
7. Về vấn đề tôn giáo họ đã vạch trần bản chất tôn giáo và tính chất phản động,
phản tiến bộ của nó. Chứng minh rằng tôn giáo là do con người sáng tạo ra chứ
không phải do thượng đế sinh ra, chính quan niệm này đã tấn công quyết liệt vào tôn
giáo và thần học thống trị hàng ngàn năm. Tính nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật
làm cho các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII thể hiện mạnh mẽ chủ nghĩa vô
thần. Theo Ph.Ăngghen, “những vĩ nhân ở Pháp họ rất cách mạng. Họ không thừa
nhận một thứ uy quyền nào cả. Tôn giáo, quan niệm về tự nhiên, xã hội, tổ chức nhà
nước, tất cả đều được đem ra phê phán hết sức nghiêm khắc”.
2.2 Hạn chế:
1. Tuy thừa nhận vận động là thuộc tính căn bản và tự nhiên của vật chất,
nhưng các nhà duy vật có mặt hạn chế là không quan niệm vận động đi từng bước từ
thấp lên cao, có những trình độ khác nhau, mà chỉ quan niệm có biến lượng không
có biến chất. Cho rằng từ vật vô cơ đến hữu cơ, đến người đều có cảm tính, không
quan niệm cảm tính là do một sự xuất hiện đột biến trong quá trình tiến triển của vật
chất mà có, mà cho rằng bất cứ một vật chất nào cũng có cảm tính. Từ nhìn nhận
duy vật nhưng sự giải thích vô tình đi đến duy tâm, vì chỉ phân biệt mơ hồ giữa tinh
thần và vật chất, cho rằng cái gì cũng có tinh thần cả.
2. Mặt dù nhìn nhận con người là sản phẩm của tự nhiên. Nhưng họ chưa thoát
khỏi cách nhìn nhận máy móc về con người. Ảnh hưởng của cơ học xem “con người
như cổ máy”, chỉ chịu sự tác động của môi trường tự nhiên, chưa nhìn nhận được
11
mặt xã hội của con người. Nghĩa là xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời
nhau, không vạch ra được mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa tự nhiên và xã
hội.

3. Về mặt xã hội họ cho rằng để thay đổi xã hội cần phải thực hành giáo dục, nếu
thay đổi phương pháp giáo dục người ta sẽ tốt, cho nên muốn làm cách mạng chỉ cần
đấu tranh tư tưởng và giáo dục tư tưởng thì thay đổi con người. Thay đổi được con
người thì thay đổi được xã hội. Mác đã phê bình những nhà duy vật Pháp: “Nói người
ta là do ảnh hưởng của giáo dục, nhưng vấn đề là ai giáo dục những nhà giáo dục?
Đặt vấn đề như vậy, vì thực ra chính những nhà giáo dục ấy đã được chế độ ấy giáo
dục. Các nhà triết học Pháp không nắm được điểm này, vì tư tưởng của họ xuất phát
từ quyền lợi của giai cấp tư sản. Họ có thể thay đổi được sự cần thiết thay đổi phương
pháp giáo dục, nhưng không thể thay đổi được cơ sở của phương pháp giáo dục đó”
4. Về vấn đề tôn giáo họ đã vạch trần bản chất tôn giáo và tính chất phản động,
phản tiến bộ của nó. Nhưng mặt hạn chế ở chỗ, họ cho rằng phải loại bỏ tôn giáo ra
khỏi đời sống xã hội là một việc làm không tưởng do họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức,
chưa thấy nguồn gốc xã hội của tôn giáo, vì thế họ chủ trương xóa bỏ tôn giáo bằng
cách giáo dục quần chúng và tiêu diệt giới tu hành. Cũng do quan điểm duy tâm trên
mà các nhà tư tưởng Pháp đã phê bình các nhà tư tưởng phong kiến một cách máy
móc, cho cái gì của phong kiến cũng là tuyệt đối xấu. Tôn giáo là hoàn toàn mê tín, do
ở tình trạng ngu dốt mê muội của nhân dân và thủ đoạn lừa dối của bọn thống trị mà
ra. Sở dĩ như vậy vì họ không thấy cơ sở kinh tế xã hội của tôn giáo nó có một khách
quan nào đấy xây dựng lên, đó là do quyền lợi giai cấp trong xã hội mà nó phải bảo vệ.
Cho nên, họ sẵn sàn hy sinh để bảo vệ tôn giáo, bảo vệ quyền lợi của mình.
12
KẾT LUẬN
Tóm lại, chủ nghĩa duy vật chiến đấu pháp là một bước phát triển mới của chủ
nghĩa duy vật, nó đã khôi phục các giá trị khoa học đã bị lãng quên hàng ngàn năm,
xây dựng nên những quan điểm mới trong lòng xã hội phong kiến, nó có rất nhiều
yếu tố tích nhất định, nhất là trong điều kiện các nhà khoa học cần đến những chứng
cứ của lý trí để chống lại các hình thức ngụy tạo khoa học và triết học kinh viện. Nó
giải thích được các sự vật trong đời sống xã hội, đánh thức nhận thức của con người
về thế giới vật chất mà họ đang sinh sống, loại dần yếu tố duy tâm trong con người,
nêu cao tin thần tự do dân chủ, thể hiện tính chất chiến đấu mạnh mẽ là dám tấn

công vào chế độ phong kiến và nền tảng tin thần của nó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng
của tư duy siêu hình máy móc thì chủ nghĩa duy vật thời kỳ này cũng bộc lộ những
nhược điểm trong việc tìm hiểu những mặt, những thuộc tính của sự vật, các nhà
triết học chưa vạch ra sự tác động lẫn nhau của chúng, đồng thời lý giải thiếu thuyết
phục nguyên nhân động lực của sự phát triển của xã hội. Họ xem xét sự vật ở trạng
thái cô lập, tách rời, xác định tính chỉnh thể của thế giới một cách đơn giản và cứng
nhắc, không thấy được mối quan hệ tác động qua lại của sự vật hiện tượng trong xã
hội.
Do đó, qua việc tìm hiểu chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp, chúng ta cần phải biết
chọn lọc, tiếp thu những mặt tích cực của trường phái triết học này nhằm rút ra
những bài học bổ ích cho bản thân,gia đình, xã hội, về quản lý nhà nước, về
phát triển kinh tế giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hơn hết là để tránh sai lầm trong công cuộc xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Không được cứng nhắc theo quan điểm chủ quan
mà phải nhìn nhận khách quan thấy được xưu thế phát triển của thời đại.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS TS Nguyễn Tiến Dũng -Lịch sử triết học phương tây – nhà xuất bản
tổng hợp TPHCM năm 2006.
2. GS TS Nguyễn Ngọc Long- GS TS Nguyễn Hữu Vui- Giáo trình triết học
Mác –Lênin, của Bộ Giáo Dục đào tạo năm 2007.
3. TS. Bùi Văn Mưa(Chủ biên) – TS.Trần Nguyên ký-PGS TS Lê Thanh Sinh-
TS Nguyễn Ngọc Thu-TS Bùi Bá Linh-TS Bùi Xuân Thanh -Giáo trình Đại cương
về Lịch sử Triết học(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), của Tiểu ban Triết Học -Khoa lý luận chính trị-trường đại
học Kinh Tế năm 2011.
4. V.I Lênin Toàn tập, nhà xuất bản CTQG Hà Nội năm 2005. Trích từ bài vết
bàn “ Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu” lời di chúc triết học của v.i
lênin tại website: />dung-cua-chu-nghia-duy-vat.html.
5. Website: />gTDThao-10.htm

14

×