Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.22 KB, 23 trang )

Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI 11:
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiobac
và vai trò của nó đối với sự ra đời của
triết học MÁC




GVHD : TS BÙI VĂN MƯA
HVTH : HUỲNH TRÍ THANH
LỚP : ĐÊM 3 KHÓA 22
NHÓM : 9
STT : 89






TPHCM, THÁNG 12 NĂM 2012
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 2


LỜI MỞ ĐẦU
 
L.Feuerbach (1804 - 1872) - là đại diện vĩ đại cuối cùng của triết học cổ điển Đức.
Người có công lao to lớn đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, phục hồi và
phát triển chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản Đức (1848).
Feuerbach là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất;
thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con người là sản phẩm
cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con
người, vì thế đây là đối tượng duy nhất, phổ biến và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa duy
vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm, nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con
người. Song, nguyên l ý nhân bản của Feuerbach không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ
là những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy
được mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi thực hiện thực.
Mục đích của bài tiểu luận này nhằm tìm hiểu về “Chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiobac và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học MÁC ”.
Tài liệu nghiên cứu dựa trên Giáo trình Triết học
(1)
(dùng cho học viên cao học và

nghên cứu sinh, không thuộc chuyên ngành triết học); Các bài giảng của TS Bùi Văn
Mưa; Triết học phần I &II
(2)
(dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học). Một số tài liệu trên báo chí và trên Internet…
Chân thành cảm ơn !
HUỲNH TRÍ THANH

Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 3


Chương I: Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach.
1) Tiểu sử của ludwig feuerbach:
Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết
thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức - nhà duy vật
và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình
thành vào cuối những năm 30 - đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế
cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí
thức có tên tuổi. Người cha là một luật sư, muốn con trở thành người hữu ích cho chế độ
đương thời, vì thế đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc
sống. Năm 1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần học
của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến
Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học
trò nghiêm túc của Hegel. Năm 1928 Feuerbach gởi cho Hegel bản luận án của mình
mang tên “ Về l tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng tâm nguyện

triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Năm 1829 Feuerbach lúc đó 25 tuổi bắt
đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Feuerbach trình
bầy logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở
thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng - chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Khái niệm trung tâm - tình yêu. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản
chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết
“Luận cương khởi đầu về cái cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của
tương lai”(1843), Feuerbach đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người
thu động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng
đó. Thời kỳ cách mạng Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai
chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì học không thích thú gì cái
tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó có những biểu
hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị.
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 4

Mãi mãi Feuerbach cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu những năm cuối cuộc
đời ông đọc say sưa bộ “Tư bản”, trao đổi bằng thw từ với không ít nhà Mac-xit. Ông mất
năm 1872, tức là sau công xã Paris(1871) thất bại.
2) Chủ nghĩa duy tâm của Heghen:
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một trong những hình thức cơ bản, là đỉnh cao
trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mác, phản ánh hoàn cảnh lịch sử đặc biệt,
đầy mâu thuẫn của xã hội Đức và tính chất hai mặt của giai cấp tư sản Đức trước cách
mạng tư sản. Quan điểm phát triển là tư tưởng cơ bản, xuyên suốt triết học của Hêghen.
Hêghen đã coi sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại dưới những tên gọi như: “ý niệm tuyệt
đối”, “lý tính thế giới”, “tinh thần thế giới” là bản nguyên của mọi hiện tượng trong giới

tự nhiên và xã hội. Sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại theo Hêghen không phải là sự
đồng nhất tuyệt đối, siêu hình, mà là sự đồng nhất bao hàm sự khác biệt. Chính mâu
thuẫn giữa đồng nhất và khác biệt đã làm cho bản nguyên của thế giới - “ý niệm tuyệt
đối” có tính tích cực và hoạt động. Sự hoạt động của “ý niệm tuyệt đối” thể hiện qua ba
giai đoạn phát triển. Trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm khách quan, ngoài việc phát triển học
thuyết về các quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, lần đầu tiên Hêghen
đã nghiên cứu các tắc cơ bản của logic biện chứng. Chính Hêghen đã đặt vấn đề về sự
thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức. Hêghen coi logic học là
khoa học về mối liên hệ biện chứng của các khái niệm, là khoa học “ mô tả lĩnh vực tư
tưởng trong sự hoạt động nội tại của bản thân nó, hay nói một cách khác, trong sự phát
triển tất yếu của nó”. Theo Hêghen, sự vận động và phát triển của các khái niệm và bởi
những mâu thuẫn nảy sinh trong bản thân khái niệm đó. Phép biện chứng là hạt nhân hợp
lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen. Ngược lại, hệ thống triết học của Hêghen là duy
tâm, siêu hình. Chính hệ thống đó đã dẫn Hêghen đến thừa nhận điểm cuối cùng trong sự
phát triển của thế giới là nhận thức. Về thực chất, Hêghen áp dụng nguyên lý phát triển
chỉ đối với hiện tượng tinh thần. Tuy thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự
phát triển, nhưng không phải là mâu thuẫn thực sự của thới tự nhiên và xã hội, mà chỉ là
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 5

mâu thuẫn trong sự phát triển của tinh thần. Mâu thuẫn không phải được giải quyết bằng
cách mạng, mà bằng con đường hòa bình: cái mới thỏa hiệp với cái cũ.
Triết học của Hêghen và triết học của Feuerbach là hai nguồn gốc trực tiếp về lý luận của
triết học Mác. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý trong triết học
Heeghen là phép biện chứng, cải tạo nó trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật, biến nó
thành phép biện chứng duy vật như là học thuyết khoa học về các quy luật chung nhất

của tự nhiên, xã hội và tư duy. Cũng chính nhờ chủ nghĩa duy vật của Feuerbach đã giúp
Mac và Angghen đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Heeghen và phái Heghen trẻ.
Mac và Angghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật của Feuerbach phát triển lên một hình thức
mới cao nhất đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
3) Sự phê phán triết học Heghen. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc:
Sau khi Hegel qua đời, những người theo học thuyết Hegel đã phân hoá thành hai nhóm
là "Hegel trẻ" và "Hegel già". Phái Hegel già thì bám lấy mặt bảo thủ của hệ thống Hegel,
bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về mặt lịch sử. Trái lại phái Hegel trẻ lại phát
triển triết học Hegel về phía lập trường giai cấp tư sản cấp tiến, dân chủ, đòi cải cách nhà
nước Phổ theo hướng tư sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện chứng trong triết học
Hegel. Trong nhóm "Hegel trẻ" có cả Phoiơbắc, Mác và Engels.
Thời trẻ, Phoiơbắc gia nhập phái Hegel trẻ, tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần
tuyệt đối thống trị thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng pháp
TK XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hegel, ngày càng ngả sang lập trường duy vật.
Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hegel, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất giữa tư duy và
tồn tại, là quan điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu
như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra sự liên kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa
duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người (coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự
nhiên cũng giống như quan niệm Chúa trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng Hegel
chỉ khác thần học ở chỗ ông đã sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư tưởng của
mình, tức là ông đã biến lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì vậy,
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 6

Phoiơbắc cho rằng: "Triết học Hegel là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học mối quan hệ

giữa tư duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính."
Đối lập với triết học Hegel, Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng
đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm cao nhất của tự nhiên; con người là biểu hiện
của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên. Vì vậy, nhận thức con người là nền
tảng và chìa khoá để nhận thức thế giới. Phoiơbắc nói rằng, phải giải quyết vấn đề quan
hệ tư duy - tồn tại trên lập trường duy vật. Tư duy là chức năng của một dạng vật chất có
tổ chức cao là cơ thể người. Bản thân con người cụ thể là sự thống nhất giữa thể xác của
anh ta với tư duy là chức năng của cơ thể đó, giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu
và sinh lý. Coi con người là sự thể hiện hoàn hảo mối quan hệ tư duy - tồn tại, Phoiơbắc
khẳng định chỉ có thể giải quyết vấn đề vật chất - tinh thần trong nhân bản học, quy các
vấn đề triết học thành các vấn đề quan hệ giữa các ngành khoa học nghiên cứu giải phẫu
và sinh lý, cấu trúc và chức năng. Chân lý, theo phoiơbắc, không phải là CNDV hay
CNDT chân lý chỉ có thể là nhân bản học, tức học thuyết về con người.
Vậy con người là gì? Phoiơbắc cho rằng đó là những con người bằng xương, bằng thịt
đang sống và làm việc, là chính bản thân chúng ta chứ không phải là con người trong trí
tưởng tượng. Hơn tất các sự vật hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một
thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, là một
bộ phận của tự nhiên mà xét theo bản chất là có tình thương yêu.
Con người trong triết học phoiơbắc là con người cụ thể bằng xương, bằng thịt. Bản chất
con người là tổng thể những khát vọng, khả năng, nhu cầu của anh ta. Phoiơbắc cũng
nhận thấy ảnh hưởng to lớn của môi trường, điều kiện sống, hoàn cảnh đối với tư duy và
ý thức con người. Ông quả quyết rằng trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong lều
tranh. Rằng nếu cơ thể một người đói chất thì trong đầu óc và trái tim anh ta cũng không
có chất cho đạo đức và các quan niệm khác.
Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy
rằng con người được tạo nên và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội như thế nào. Ông chỉ
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012



HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 7

xét con người về mặt sinh học mà thôi (là một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều
kiện kinh tế - xã hội và lịch sử.
Khi nghiên cứu và đánh giá sự phê phán của Phoiơbắc đối với Hegel cũng như học thuyết
của ông về con người chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
Thứ nhất, Phoiơbắc phê phán Hegel trên lập trường nhân bản học duy vật, phê phán ý
niệm tuyệt đối của Hegel nhưng đồng thời lại phủ nhận luôn cả phương pháp tư duy biện
chứng của Hegel. Phoiơbắc tuyên bố: "phép biện chứng không phải là sự độc thoại của
một nhà tư tưởng với chính bản thân mình, mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh". Phương
pháp biện chứng trên thực tế đã bị phoiơbắc tầm thường hoá, quy thành mối quan hệ giao
tiếp thông thường giữa mọi người trong xã hội. Đây là hạn chế cơ bản của Phoiơbắc
trong việc phê phán và đánh giá triết học Hegel.
Thứ hai, con người được Phoiơbắc hiểu theo nghĩa cá thể (individium).
Mỗi người đều có những nét riêng biệt mà không ai có, vì vậy bản chất của con người rất
da dạng. "tất cả chúng ta là những con người, nhưng mỗi con người lại là một người
khác"
Quan niệm trên đây của Phoiơbắc về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó được xây dựng
trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn mạnh sự năng
động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu cá nhân của con
người. Tuy nhiên, hạn chế của Phoiơbắc là ở chỗ ông không nhận thấy bản chất xã hội
của con người, cũng như vai trò của hoạt động thực tiễn con người trong nhận thức và cải
tạo thế giới. Ông không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh ra
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định; thuộc một tầng lớp hoặc giai cấp nhất định, thuộc
một dân tộc và một thời đại lịch sử nhất định. Vì vậy, theo nhận xét của Engel, con người
của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp và vì vậy, cực kỳ trừu tượng. Rốt
cuộc quan niệm của Phoiơbắc về con người, kể cả xét theo khía cạnh cá thể được coi là
điểm mạnh nhất ở ông, cũng phải nhường bước cho một số nhà tâm sinh lý học đương
thời và sau ông như Freud, ở khía cạnh xã hội, khía cạnh mà phoiơbắc hầu như không đề

cập đến, về sau được Mác nghiên cứu.
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 8

4) Quan niệm của feuerbach về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn giáo:
Cụ thể hoá những quan niệm trên đây về con người, phơoibắc phân tích các vấn đề tôn
giáo.
Tôn giáo, theo ông, là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người. Người
ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin, và an ủi. Bản chất của thần học, do vậy, chứa đựng
trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng phong phú của con người. Tôn giáo
thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người đối với các vấn đề xã hội.
Tôn giáo thực chất là sự thể hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí.
Phoiơbắc nói: "Tư tưởng và dụng ý của con người như thế nào thì chúa của con người
như thế. Giá trị của chúa không vượt quá giá trị con người. Ý thức của Chúa là tự ý thức
của con người, nhận thức của chúa là tự nhận thức của con người". Thực ra "bản chất
thần thánh không là cái gì khác, mà là bản chất của con người, nhưng đã được tinh chế,
khách quan hoá, tách rời với con người hiện thực bằng xương, bằng thịt".
Tóm lại, tôn giáo là bản chất của con người đã bị tha hoá. "Thánh thần của con người có
trong tinh thần và trái tim của anh ta". (L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957.
T.2. tr. 42 - 43- Tiếng Nga).
Những quan niệm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản đã chỉ ra nguồn gốc tâm lý, tình cảm
và tâm linh của con người đối với tôn giáo, đòng thời cho thấy nội dung nhăn bản trong
các quan niệm thần thánh nhưng chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội và
văn hoá của vấn đề.
Đây cũng là hạn chế chung của các nhà tư tưởng trước Mác trong việc lý giải nguồn gốc
và bản chất của tôn giáo.

Tuy phê phán kịch liệt tôn giáo, nhưng Phoiơbắc thực tế chỉ phê phán Cơ đốc giáo. Còn
tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với đời sống con người. Cho nên
thay vào Cơ đốc giáo, con người "cần một tôn giáo mới", vì chỉ có tín ngưỡng, niềm tin
mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự an
ủi trên là giả dối nhưng chúng ta không thể làm gì khác và phải chấp nhận sự dối trá đó.
Đúng như Engel nhận xét rằng "Phoiơbắc hoàn toàn không muốn xoá bỏ tôn giáo, ông
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 9

muốn hoàn thiện tôn giáo. Ngay cả triết học cũng phải hoà vào tôn giáo. Thứ tôn giáo mà
Phoiơbắc đề cao hiểu theo nghĩa của ông là tôn giáo tình yêu, là quan hệ thân thiện giữa
người và người. Tôn giáo tình yêu của Phoiơbắc dựa trên triết học nhân bản của ông. Ông
cho rằng nó phản ánh được cái gì đó vĩnh hằng trong con người. Vì vậy, nó cần thiết phải
tồn tại chừng nào xã hội loài người còn tồn tại. Và phải hình thành nên tình cảm tôn giáo.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng Phoiơbắc là nhà duy vật vĩ đại trong THCĐ Đức. Mác
đánh giá cao vai trò của Phoiơbắc, coi ông là người không úp mở tuyên bố địa vị thống
trị của chủ nghĩa duy vật. (trong tác phẩm Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung ). Mác và
Engel tự coi mình là môn đồ của Phoiơbắc, giá trị tư tưởng đó của triết học phoiơbắc là
điều không thể phủ nhận được.
Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tới sự ra đời của
triết học Marx.

Triết học cổ điển Đức là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác Có vai trò quan
trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và
Ăngghen. C.Mác đã sử dụng những tư tưởng cách mạng phép biện chứng của Heghen để
luận giải những khát vọng dân chủ - cách mạng của mình. Nhưng hai ông cũng phê phán

quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hêghen trong học thuyết về “ý niệm tuyệt đối”. Trên cơ
sở đấu tranh, phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi
tính chất thần bí, C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình
thức cao nhất của phép biện chứng. Một đại biểu khác của trong triết học cổ điển Đức có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành quan điểm triết học của C.Mác và Ăngghen là
Phoiơcbách. Những quan điểm duy vật về giới tự nhiên của Phoiơbắc chứng minh thế
giới là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tuy nhiên, trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc lại
coi sự phát triển của xã hội là sự phát triển của tôn giáo. Tuy nhiên những tư tưởng triết
học duy vật và vô thần của Phoiơbach lại tạo tiền đề lý luận quan trọng cho C.Mác và
Ph.Ăngghen chuyển chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật bằng cách loại bỏ tính
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 10

siêu hình và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ chỉ nhận thức giới tự nhiên sang nhận thức cả
xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để Tuy C.Mác và
Ăngghen chịu ảnh hưởng của triết học Phoiơcbách nhưng C.Mác và Ăngghen đã tiếp thu
ở đó một cách có phê phán. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác dựa trên nền tảng là
phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơcbách. Ngoài ra, nó còn là
sự tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của nhân loại.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Khi ông
đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã
đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con
người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi
xã hội, mang những đặc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng
những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn

giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu
nhiên cần xây dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng
càn phải biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội
khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân
chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng, duy tâm.

Công lao to lớn của Phoiơbắc còn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã có quan
niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý – hoá; công
nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông đã kịch liệt phê phán những
người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận
thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần,
về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất
của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động thực tiễn
của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 11

Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của chủ
nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra mối liên hệ giữa
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah loại bỏ tôn giáo hữu
thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi phục và phát triển
chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.

Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,

Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà triết học giai
đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.
Theo bản chất tộc nhân loại của mình, con người tự do không chỉ ở trong tư duy,
khát vọng, mong muốn, mà cả ở trong cảm xúc. Nhờ vậy, con người có khả năng giữ
được một vị thế thuần tuý tinh thần, độc lập với các lợi ích cụ thể hàng ngày trong mối
quan hệ với các hiện tượng của thế giới vật thể. Nói cách khác, con người có thể chiêm
ngưỡng cái đẹp. Tính phổ quát của con người được thể hiện chính trong sự chiêm ngưỡng
ấy. Những suy ngẫm ấy của L.Phoiơbắc đã đem lại giá trị lớn lao cho sự phát triển của
đường hướng mỹ học duy vật. Không phải ngẫu nhiên mà sự hình thành những tư tưởng
thẩm mỹ của C.Mác thời trẻ đã gắn bó chặt chẽ với những suy ngẫm trên của L.Phoiơbắc.
Xem xét con người và văn hoá dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc
đã có những đóng góp thực sự trong việc phát triển triết học văn hoá. Đối với ông, văn
hoá trước tiên là những năng lực, những phẩm chất phát triển bản chất con người thông
qua lý trí, cảm xúc và ý chí. Tiếp bước mô hình của I.Cantơ, ông đã khảo sát những
phẩm chất người ấy trong các lĩnh vực nhận thức luận, đạo đức học và mỹ học để làm
sáng tỏ mối liên kết của các véctơ chân, thiện, mỹ trong trường văn hoá của tộc loại
người. Tuy nhiên, L.Phoiơbắc cũng không tránh khỏi một số hạn chế nhất định; chẳng
hạn, sau khi phê phán và loại bỏ quan điểm duy tâm trong việc lý giải văn hoá và con
người cũng như việc thực thể hoá lý trí của Hêghen, L.Phoiơbắc lại đi thực thể hoá cảm
xúc trong triết học văn hoá của ông. Những hạn chế ấy của L.Phoiơbắc sau này được
C.Mác, Ph.Ăngghen khắc phục và vượt qua.
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 12

Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy,

triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.

























Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012



HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 13

KẾT LUẬN
Lútvích Phoiơbắc là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức, nhà duy vật
lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc tiền bối của triết học Mác.
L.Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở
suy ngẫm và phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Theo ông, ý chí, tư duy và cảm xúc
là những năng lực cơ bản được chế định bởi chính bản chất của con người. Nguyên lý
nhân bản được L.Phoiơbắc vận dụng vào học thuyết luân lý của mình. L.Phoiơbắc đã mở
cửa cho tình yêu, cho cái thiện đi vào suy tư của ông về văn hoá và con người. Mặc dù
còn có một số hạn chế, song khi xem xét con người và văn hoá dưới góc độ của nguyên
lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp thực sự cho việc phát triển triết học văn
hoá.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Feuerbach phản ánh tiếng nói tri ân của thời đại
khai sáng, đang bước sang phần kết của nó - đó là một giai đoạn lịch sử mà con người
vươn lên đòi quyền sống của mình, đòi lại tất cả những gì mình bị chế độ phong kiến
chuyên chế và giáo hội tước đoạt trước đó. Dưới ảnh hưởng của nhiều trường phái sinh lý
học đương thời, Feuerbach đã tiếp cận con người như một thực thể sinh học, theo ông con
người có đầy đủ mọi khát vọng tự nhiên như ăn, uống, sinh hoạt giới tính, biểu hiện tâm
tư tình cảm, ước muốn, những nhu cầu tự nhiên đó của con người là cơ sở sinh học tạo
nên đời sống hiện thực vốn có của nó
Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach về con người có điểm hợp lý ở chỗ nó
được xây dựng trên nền tảng duy vật. Hơn nữa nó đề cao tính cá thể của con người, nhấn
mạnh sự năng động và sáng tạo cá nhân của con người cũng như những lợi ích, nhu cầu
cá nhân của con người.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của ông
chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy,
triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận và có vai trò to lớn
tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác.


Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 14

PHỤ CHƯƠNG:
A. Quan điểm của L.PHOIƠBẮC về văn hóa và con người





NGUYỄN HUY HOÀNG (*)

L.Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm về con người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và
phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Theo ông, ý chí, tư duy và cảm xúc là những năng lực cơ
bản được chế định bởi chính bản chất của con người. Nguyên lý nhân bản được L.Phoiơbắc vận
dụng vào học thuyết luân lý của mình. L.Phoiơbắc đã mở cửa cho tình yêu, cho cái thiện đi vào
suy tư của ông về văn hoá và con người. Mặc dù còn có một số hạn chế, song khi xem xét con
người và văn hoá dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp thực
sự cho việc phát triển triết học văn hoá.

L.Phoiơbắc (1804 – 1872) - đại biểu cuối cùng của một trào lưu triết học đặc sắc, người đã viết
chương cuối hùng tráng trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật và vô thần để kết thúc bản giao hưởng
“triết học cổ điển Đức”. Chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc là chủ nghĩa nhân bản. Với một tên
gọi như thế, vấn đề văn hoá và con người nằm trong trường suy ngẫm của ông là một điều dĩ
nhiên.

Cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mô hình
cổ điển về văn hoá dựa trên ba nguyên lý cơ bản: nhân văn, duy lý và lịch sử đã được hình thành
trong triết học cổ điển phương Tây. Mô hình này đã phát triển theo hai đường hướng lý giải chủ
yếu: cách lý giải theo chủ nghĩa tự nhiên thông qua các nhà Khai sáng Pháp và cách lý giải theo
chủ nghĩa duy tâm thông qua hai đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức - I.Cantơ và
G.V.Ph.Hêghen. Để mô hình cổ điển về văn hoá tiếp tục phát triển, nó cần phải được lý giải trên
mảnh đất của chủ nghĩa duy vật và người thực hiện trọng trách đó chính là L.Phoiơbắc.
L.Phoiơbắc bắt đầu học tập và nghiên cứu triết học với tư cách là học trò của Hêghen. Trong hai
năm, ông đã nghe những bài giảng của Hêghen ở Béclin với lòng nhiệt thành và sự chăm chú.
Được đào luyện trong hệ thống triết học tư biện của Hêghen, những năm đầu trong sự nghiệp của
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 15

mình, L.Phoi
ơb
ắc trở th
ành nhà tri
ết học duy tâm l
à m
ột điều dĩ nhi
ên. Nhưng chính nh
ờ đ
ư
ợc
tôi luyện trong cái “lò bát quái” tư biện ấy, L.Phoiơbắc đã nhìn thấy những mâu thuẫn, những
nghịch lý trong hệ thống triết học của Hêghen. Tuy nhiên, việc đoạn tuyệt với triết học duy tâm

ấy cũng là một quá trình. Ông viết: “Hêghen đã chuyển những định nghĩa, mà những định nghĩa
này trong chính bản thân mình chẳng có chút gì hiện thực cả, thành một cái gì đó độc lập. Sự
việc cũng lại như thế với tồn tại ở phần mở đầu của “Khoa học lôgíc”. Có thể hiểu tồn tại theo
cách nào khác như tồn tại không hiện thực, tồn tại không có thật? Vậy thì khái niệm tồn tại là gì
trong sự khác biệt với khái niệm tồn tại hiện tồn, hiện thực, thật sự? Dĩ nhiên, đó chính là hư
vô ”(1). Vấn đề là ở chỗ, với L.Phoiơbắc, tồn tại thống nhất với cái mang sự tồn tại, không thể
có khả năng cái này tách biệt khỏi cái kia. Sêlinh cũng đã đưa ra những luận chứng tương tự để
chống lại Hêghen, nhưng rồi chính ông lại bị vướng mắc và lúng túng trong vấn đề này. Kết cục,
cả hai đường hướng của chủ nghĩa duy tâm Đức - Sêlinh và Hêghen đều cùng phạm một sai lầm:
không thừa nhận tồn tại và không biết đến tồn tại thực sự. Vượt ra khỏi những cái bóng của cả
Sêlinh lẫn Hêghen, L.Phoiơbắc đã xây dựng một chủ nghĩa duy vật mới – chủ nghĩa duy vật
nhân bản.
Trong Những trích đoạn đặc trưng cho tiểu sử triết học của tôi, L.Phoiơbắc tuyên bố rằng,
“Phương pháp của tôi nằm ở chỗ (…) đưa tất cả những cái siêu tự nhiên về với tự nhiên nhờ có
con người và đưa tất cả những cái siêu nhân về với con người nhờ có tự nhiên, nhưng thường
xuyên chỉ dựa vào những sự kiện lịch sử, kinh nghiệm, trực quan và những ví dụ”(2).
Trecnưsepxki cũng đã từng trình bày phương pháp duy vật nhất nguyên của mình một cách
tương tự như vậy khi cho rằng, nguyên tắc nhân bản chính là việc nhìn nhận con người như một
thực thể thống nhất, chỉ có một bản tính chứ không phải phân chia cuộc sống con người thành
hai nửa thuộc về những bản tính khác nhau. Theo sự giải thích của L.Phoiơbắc, con người là một
sinh vật có hình thể, vật chất, ở trong không gian và thời gian và chỉ như vậy, nó mới có năng lực
quan sát và suy nghĩ. Chủ nghĩa duy tâm đem tách cái sinh vật nguyên vẹn ấy ra làm đôi, tạo nên
sự xung đột giữa linh hồn với thể xác hoặc đem đồng nhất bản chất con người với tư duy , với ý
thức. Triết học nhân bản khẳng định bản chất con người là một cái gì thống nhất. Vậy, theo
L.Phoiơbắc, bản chất con người là gì?
Trong chương mở đầu cuốn Bản chất đạo Thiên Chúa giáo – tác phẩm chủ yếu của L.Phoiơbắc,
ông đã bàn về bản chất chung của con người. Trước những câu hỏi: bản chất con người là gì?
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012



HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 16

Đâu là nh
ững dấu hiệu ng
ư
ời thực sự trong mỗi con ng
ư
ời?… L.Phoi
ơb
ắc đ
ã tr
ả lời rằng, đó
chính là lý trí, ý chí và trái tim. Ông khẳng định: “Con người hoàn thiện có sức mạnh của tư duy ,
sức mạnh của ý chí và sức mạnh của tình cảm. Sức mạnh của tư duy là ánh sáng của sự nhận
thức, sức mạnh của ý chí – năng lực của tính cách, sức mạnh của tình cảm – tình yêu. Lý trí, tình
yêu và sức mạnh của ý chí - đó là những hoàn thiện. Bản chất tuyệt đối và cao quý của con người
như nó vốn có và là mục đích cho sự tồn tại của nó nằm ở trong ý chí, tư duy và cảm xúc. Con
người tồn tại để nhận thức, yêu thương và ham muốn. Nhưng mục đích của lý trí là như thế nào?
– Lý trí. Của tình yêu? – Tình yêu. Của ý chí? – Tự do ý chí. Chúng ta nhận thức để nhận thức,
yêu thương để yêu thương, mong muốn để ham muốn, nghĩa là tự do. Thực thể chân chính là
thực thể biết tư duy, biết yêu thương và biết hy vọng nhờ ý chí. Cái hoàn thiện thực sự, thần
thánh thực sự chỉ là cái tồn tại vì chính bản thân mình. Tình yêu, lý trí và ý chí là những cái như
thế. “Ba ngôi” thần thánh được biểu hiện trong con người và thậm chí ở trên những con người cá
nhân trong sự thống nhất của lý trí, tình yêu và ý chí”(3).
Thực ra, mong muốn xem xét và nhìn nhận những nét đặc trưng cơ bản của con người hay các
năng lực chủ yếu của nó trong sự thống nhất và hài hòa cũng không phải là vấn đề mới trong lịch
sử triết học và văn hoá. Các nhà triết học thời đại Phục hưng đã có ý định xây dựng một học
thuyết nhất nguyên về con người và cho rằng, các giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong hoạt động của

con người không tách rời nhau và về thực chất, chúng chỉ là một. Tuy nhiên, ngay sau đó, các
nhà triết học tư sản đã xa rời lý tưởng Phục hưng về con người. Trong các học thuyết của họ, con
người được hình dung và xem xét chỉ ở những nét đặc trưng riêng biệt này hay nét đặc trưng
riêng biệt khác. Không phải ngẫu nhiên mà từ hướng tiếp cận đó đã xuất hiện một loạt các chủ
nghĩa khác nhau, như chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, ý chí luận, chủ nghĩa khoái lạc, chủ
nghĩa phi lý
Vượt ra khỏi sự hạn chế của tư duy siêu hình, mong muốn dung hoà chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý trong một học thuyết, I.Cantơ đã xây
dựng một hệ thống triết học độc đáo. Con người cùng với những năng lực của nó, hay nói rộng
hơn là cùng với trường văn hoá của nó, trở thành đối tượng suy ngẫm của I.Cantơ. Trong triết học
tiên nghiệm của ông, ba năng lực cơ bản của con người có sự liên kết hữu cơ với nhau. Bộ ba tác
phẩm phê phán của ông chính là sự phản tư văn hoá của nhân loại theo ba véctơ định hướng Chân,
Thiện, Mỹ. Chính vì thế mà hiện nay, không ít nhà triết học đã cho rằng, I.Cantơ là người đầu tiên
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 17

đ
ặt nền móng cho triết học văn hoá.

L.Phoiơbắc không chỉ muốn học hỏi cách tiếp cận độc đáo của I.Cantơ, mà còn muốn phát triển
đường hướng đó. Quan điểm của L.Phoiơbắc về con người là một trong những thành tựu của
triết học trước Mác. Nhận xét về công lao của L.Phoiơbắc trong việc nghiên cứu vấn đề con
người, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, L.Phoiơbắc đã làm cho chủ nghĩa duy vật được đồng
nhất với chủ nghĩa nhân đạo. Nhà triết học duy vật Đức vĩ đại này đã xây dựng quan điểm về con
người trong trường văn hoá trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Hơn
ai hết, ông hiểu rõ tính phiến diện, tính hạn chế của hàng loạt các chủ nghĩa khác nhau, như chủ

nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý. Những công trình về lịch sử triết học
được ông viết từ năm 1833 tới năm 1838 đã minh chứng điều đó. L.Phoiơbắc đã phê phán triết
học phi lý của Sôphenhaoơ - người đã tuyên bố rằng ý chí “là khởi nguyên tuyệt đối của mọi tồn
tại”.
Trong việc xác định và làm sáng tỏ mối quan hệ tương hỗ giữa các năng lực bản chất của con
người, L.Phoiơbắc đã sử dụng phép biện chứng với tư cách là công cụ nhận thức và khám phá
bản chất của hiện tượng. Đối với L.Phoiơbắc, ý chí, tư duy và cảm xúc không chỉ là những năng
lực cơ bản của con người, mà còn là những sức mạnh bị chế định bởi chính bản chất của con
người, là mục tiêu và phương tiện tồn tại của con người: “Chúng là những thành tố cơ bản luận
chứng cho bản chất của con người Đó là những sức mạnh sống động, quyết định và thống trị,
đó là những sức mạnh thần thánh, tuyệt đối mà con người không thể nào phản kháng được”(4).
Việc nhìn nhận bản chất con người trong sự thống nhất biện chứng của ý chí, tư duy và cảm xúc
đã cho phép L.Phoiơbắc đi sâu nghiên cứu, phân tích chi tiết từng năng lực người riêng biệt với
tư cách là những thành tố cơ bản của văn hoá qua lý luận nhận thức, đạo đức học và mỹ học của
ông.
Tiếp tục truyền thống của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII, L.Phoiơbắc đã có nhiều cống hiến cho
lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy cảm. Theo ông, thế giới này là hiện thực được tri giác nhờ
cảm giác và chỉ nhờ vào tri giác cảm tính, chúng ta mới có khả năng nhận thức thế giới.
L.Phoiơbắc kiên quyết phủ nhận sự tồn tại của các khách thể mà không thể nào được tri giác
cảm tính. Theo bản chất của mình, tri giác cảm tính là trực tiếp nhưng cũng có thể là gián tiếp,
nghĩa là nó đem lại sự minh chứng gián tiếp về cái mà ta không thể nhìn, không thể nghe và
không thể sờ mó được.
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 18

L.Phoiơb

ắc đ
ã nh
ấn mạnh rằng, thế giới khách quan đ
ư
ợc chủ thể nhận thức thông qua các c
ơ
quan cảm giác của con người. Theo ngôn ngữ của ông, điều đó có nghĩa là toàn bộ tự nhiên được
nhận thức thông qua sự nhận thức bản tính của con người. Nguyên tắc nhân bản của L.Phoiơbắc
trong lý luận nhận thức được thể hiện ở chỗ, ông đã lý giải khái niệm “khách thể” theo cách mới.
Theo L.Phoiơbắc, khái niệm khách thể thoạt tiên được hình thành trong kinh nghiệm giao tiếp
của con người, bởi thế khách thể đầu tiên đối với một người bất kỳ nào đó chính là một người
khác. Tình yêu đối với người khác là con đường dẫn tới sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của
người đó, hơn nữa đó còn là con đường dẫn tới sự tồn tại các vật ở bên ngoài nói chung. Trong
một đường hướng suy tư như vậy, sẽ không có gì lạ khi L.Phoiơbắc tuyên bố rằng, hình thức cao
nhất của nhận thức là hành động tình dục. Tình yêu giữa “Anh” và “Em” là sự nhận thức cảm
tính mà ở đó, “những cái hoàn toàn không đến với từng người đơn độc lại có khả năng đối với cả
hai ta”(5). Với những luận điểm ấy, L.Phoiơbắc đã thể hiện sự quan tâm đến cảm giác của con
người. Theo ông, cảm giác của con người khác hẳn về chất so với cảm giác của các con vật. Nó
vượt xa khỏi những giới hạn sinh lý trực tiếp của con người và mang ý nghĩa tinh thần, đặc biệt
là ý nghĩa thẩm mỹ. Tuy một vài giác quan ở động vật nhạy bén hơn so với giác quan của con
người, nhưng điều đó không mâu thuẫn với luận điểm về tính phổ quát của sự khác biệt về chất
của các giác quan ở con người, bởi lẽ những giác quan ấy ở động vật đã bị chuyên môn hoá rất
hẹp; trong khi đó, những giác quan của con người đã vươn tới hành vi tinh thần. Ở đây,
L.Phoiơbắc đã phần nào nhìn thấy sự hình thành và phát triển của chủ thể trong chính quá trình
hoạt động của nó. Nói theo ngôn ngữ của triết học văn hoá, ông đã nhìn thấy quá trình giải đối
tượng hoá, quá trình văn hoá hoá các giác quan của con người. Chính vì thế mà L.Phoiơbắc thấy
sẽ là không đúng và không đầy đủ khi cho rằng, nguyên nhân khác biệt của các giác quan con
người so với các giác quan của động vật chỉ là ở tư duy. Không, nếu như con người không khác
biệt với động vật ở trong cảm giác thì nó cũng sẽ chẳng khác biệt với động vật ở trong tư duy.
“Cảm giác ở con vật là cảm giác của con vật, cảm giác ở con người là cảm giác của con

người”(6). Theo L.Phoiơbắc, sự phong phú về tình cảm của những cảm xúc người, tài ăn nói
hùng biện và hào hoa của nó đã trở thành thước đo tin cậy về tính đúng đắn của tri thức. Vì vậy,
cảm xúc với tình yêu là những tiêu chuẩn của tồn tại. Trong nhận thức luận của L.Phoiơbắc, cảm
xúc với tình yêu đã có những màu sắc mới. Cảm xúc là ý nghĩa của kinh nghiệm sống còn tình
yêu là tổng thể các hành vi đảm bảo cho con người giao tiếp tích cực và thống nhất với tự
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 19

nhiên
(
7).

L.Phoiơbắc không chỉ tuyên bố, mà còn vận dụng nguyên lý nhân bản vào học thuyết luân lý của
mình. Ông cho rằng, sự khát khao hạnh phúc nằm trong cơ sở hành động của con người. Con
người ai cũng đều mong muốn điều thiện và tránh cái ác. Cái thiện dấy lên trong chúng ta cảm
xúc thoả mãn, vui mừng và hứng khởi, còn cái ác làm dấy lên những cảm giác đau đớn, khiếm
khuyết, mất mát và tiêu vong. Do vậy, theo L.Phoiơbắc, cảm giác là điều kiện đầu tiên của luân
lý. Ở đâu không có cảm giác thì ở đó không có sự khác biệt giữa hạnh phúc và bất hạnh, vui
sướng và buồn rầu, thiện và ác, nghĩa là không có luân lý. L.Phoiơbắc cho rằng, các nhà triết học
Đức, đặc biệt là I.Cantơ đã hoài công khi cố tách luân lý ra khỏi niềm khao khát hạnh phúc của
con người, loại trừ ra khỏi nó những cái không thể nào tách biệt khỏi con người. L.Phoiơbắc đã
đặt luân lý dựa vào sự mong muốn của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình trong
việc đạt tới hạnh phúc đối lập với thứ luân lý cấm dục, khổ hạnh, giả dối của tôn giáo. Phải
chăng đó là thứ luân lý “ích kỷ”? L.Phoiơbắc trả lời rằng, “dĩ nhiên, nhưng đó cũng là luân lý
giản dị, chân thành, thẳng thắn và chính trực, luân lý mang tính nhân bản thâm nhập sâu vào máu
thịt của con người, mà không phải thứ luân lý thần thánh, giả dối và hoang tưởng”(8).

Việc chứng minh luân lý cần phải được xây dựng trong sự mong muốn thoả mãn những nhu cầu
của con người đã giúp L.Phoiơbắc thoát khỏi chủ nghĩa ích kỷ, thô tục. Ông nhấn mạnh rằng, từ
“ích kỷ” được ông sử dụng không theo những ý nghĩa thông thường mà theo ý nghĩa của một
nguyên lý triết học. Theo ông, luân lý chân chính không có nghĩa là sự hạnh phúc và sung sướng
xa cách, biệt lập và không phụ thuộc vào những người khác. Nhưng, làm thế nào để đạt tới sự hài
hoà các quyền lợi và nhu cầu của mọi người, làm thế nào để tạo sự hài hoà giữa bổn phận và
hạnh phúc thì L.Phoiơbắc vẫn chưa trả lời được rõ ràng. Quả thực, ngay trong xã hội mà
L.Phoiơbắc từng sống, sự phân hoá, bất bình đẳng, những điều kiện sống không có nhân tính
đã và vẫn tồn tại. Tin tưởng vào nguyên lý nhân bản của mình, L.Phoiơbắc cho rằng, tất cả
những điều đó chỉ là những sai lạc ngẫu nhiên khỏi bản chất chân chính của con người, mà
không phải là những hiện tượng mang tính quy luật. Nền luân lý đã được kiến tạo theo bản chất
của con người, theo tình yêu của con người nhất định đúng, cần phải đúng và luôn luôn đúng.
Ông tin tưởng một cách ngây thơ rằng, nhờ sự chỉ dẫn của một nền luân lý tình yêu ấy, tất cả
những tội lỗi và sự độc ác trong đời sống xã hội sẽ bị hạn chế và triệt tiêu. Tình yêu - đó là
phương thuốc vạn năng, kỳ diệu mà L.Phoiơbắc hy vọng có thể giải quyết mọi khó khăn trong
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 20

đ
ời sống hiện thực của con ng
ư
ời v
à ông kêu g
ọi mọi ng
ư
ời h

ãy yêu nhau
đi, h
ãy yê
u t
ất cả mọi
người không phân biệt giới tính và danh vọng. Nhưng, trong sự ngây thơ ấy, chúng ta lại thấy có
một cái gì đó tinh khiết, trong sáng của một chủ nghĩa nhân đạo cao cả. L.Phoiơbắc đã mở cửa
để cho tình yêu cùng với cái thiện đi vào những suy ngẫm của ông về văn hoá và con người.
Tình yêu đã trở thành một thước đo độc đáo trong trường văn hoá.
L.Phoiơbắc không dành hẳn một công trình chuyên biệt nào để trình bày các quan điểm thẩm
mỹ, nhưng điều đó không có nghĩa là ông không nhìn thấy ý nghĩa to lớn của lĩnh vực này. Ông
khẳng định: “Con người – kẻ thuộc về thế giới thẩm mỹ hay thế giới lý luận suy tư như thế, bởi
vì sự cảm nhận lý luận trước tiên là cái thẩm mỹ, mỹ học là triết học đầu tiên. Con người suy tư,
đồng nhất khái niệm của thế giới với khái niệm của vũ trụ, của cái đẹp”(9). Tính độc đáo và độ
sâu trong các quan điểm thẩm mỹ của L.Phoiơbắc là điều không thể nghi ngờ. Những kiến giải
của ông về sáng tạo nghệ thuật dù được trình bày tản mạn trong các công trình khác nhau, nhưng
chúng đều khẳng định một tư tưởng rất rõ ràng: nghệ thuật – một lĩnh vực của những cảm xúc
cao cả. Ông viết: “Con người khác hẳn với động vật hoàn toàn không chỉ bởi mỗi tư duy Con
người không có khứu giác của loài chó săn, khứu giác của con quạ; nhưng chính bởi vì thế mà
khứu giác của con người được mở rộng với tất cả các loại mùi, nó tự do hơn, nó dửng dưng hơn
với các mùi chuyên biệt. Ở đâu cảm giác vượt được qua các giới hạn chuyên biệt nào đó, vượt
được qua sự lệ thuộc của mình vào nhu cầu, ở đó cảm giác đạt tới ý nghĩa lý luận độc lập”(10).
Nghệ thuật được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác phổ quát và đã được phát
triển cao của con người.
Việc đánh giá như vậy về cảm giác, nhận thức cảm tính và sự chiêm nghiệm thể hiện sự hiểu biết
sâu sắc của L.Phoiơbắc trong việc xác định đối tượng của việc khai hoá hiện thực bằng con
đường thẩm mỹ. Đó là cách tiếp cận duy vật với nghệ thuật. Nếu như tính cảm giác của con
người là một mắt xích trực tiếp giữa tự nhiên và con người thì đối với L.Phoiơbắc, trong mức độ
lớn, bản chất đối tượng được đồng nhất với khách thể của cảm giác người. Ánh sáng là khách thể
của thị giác, nghĩa là tồn tại một sự tương quan giữa khách thể được tri giác bởi các cảm giác

người và tính cảm giác để tri giác khách thể này. Chính vì thế mà chủ thể, với các cảm giác của
mình, không chỉ bao trùm các hiện tượng của thế giới bên ngoài, mà còn tự phản ánh mình ở
trong các đối tượng đã được bao trùm bởi chủ thể. Theo L.Phoiơbắc, điều đó hoàn toàn đúng cả
trong việc khai thác hiện thực bằng con đường thẩm mỹ, khi mà các cảm giác người và lý trí
Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 21

đư
ợc thể hiện một cách to
àn b
ộ v
à b
ị phân hoá trong mối li
ên h
ệ t
ương h
ỗ. Vi
ệc sáng tạo nghệ
thuật cũng như sự cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật đòi hỏi một sự phát triển nhất định của chủ
thể. Chỉ nhờ vào sự phát triển của cảm xúc thẩm mỹ và tri giác thẩm mỹ, người nghệ sỹ mới có
thể thấu hiểu “chân lý của cái cảm tính” như là cái đẹp và thể hiện “cái Tôi bên trong”, những tư
tưởng, những tình cảm của mình trong các tác phẩm nghệ thuật.
Theo bản chất tộc loại của mình, con người tự do không chỉ ở trong tư duy, khát vọng, mong
muốn, mà cả ở trong cảm xúc. Nhờ vậy, con người có khả năng giữ được một vị thế thuần tuý
tinh thần, độc lập với các lợi ích cụ thể hàng ngày trong mối quan hệ với các hiện tượng của thế
giới vật thể. Nói cách khác, con người có thể chiêm ngưỡng cái đẹp. Tính phổ quát của con

người được thể hiện chính trong sự chiêm ngưỡng ấy. Những suy ngẫm ấy của L.Phoiơbắc đã
đem lại giá trị lớn lao cho sự phát triển của đường hướng mỹ học duy vật. Không phải ngẫu
nhiên mà sự hình thành những tư tưởng thẩm mỹ của C.Mác thời trẻ đã gắn bó chặt chẽ với
những suy ngẫm trên của L.Phoiơbắc.
Xem xét con người và văn hoá dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những
đóng góp thực sự trong việc phát triển triết học văn hoá. Đối với ông, văn hoá trước tiên là
những năng lực, những phẩm chất phát triển bản chất con người thông qua lý trí, cảm xúc và ý
chí. Tiếp bước mô hình của I.Cantơ, ông đã khảo sát những phẩm chất người ấy trong các lĩnh
vực nhận thức luận, đạo đức học và mỹ học để làm sáng tỏ mối liên kết của các véctơ chân,
thiện, mỹ trong trường văn hoá của tộc loại người. Tuy nhiên, L.Phoiơbắc cũng không tránh khỏi
một số hạn chế nhất định; chẳng hạn, sau khi phê phán và loại bỏ quan điểm duy tâm trong việc
lý giải văn hoá và con người cũng như việc thực thể hoá lý trí của Hêghen, L.Phoiơbắc lại đi
thực thể hoá cảm xúc trong triết học văn hoá của ông. Những hạn chế ấy của L.Phoiơbắc sau này
được C.Mác, Ph.Ăngghen khắc phục và vượt qua.





Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 22

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Giáo trình Triết học – Nhà xuất bản Lý luận chính trị (2006).
2. Triết học phần I&2 (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc

chuyên ngành triết học ( TS Bùi Văn Mưa làm chủ biên , LHNB, Trường ĐH
Kinh tế TPHCM, 2010).
3. Các Bài giảng Triết học lớp Cao học k6 trường CNTT của TS: Bùi Văn Mưa.
4. L.Phoiơbắc: tuyển tập triết học. Matxcơva 1957. T.2. tr. 42 - 43- Tiếng Nga.
5. Hook, Sidney Từ Hegel Marx: Các nghiên cứu trong việc phát triển trí tuệ của
Karl Marx. Ann Arbor: The University of Michigan Press, 1950.
6. Reitmeyer, Ursala, 1988, Philosophie der Leiblichkeit: Ludwig Feuerbachs
Entwurf einer Philosophie der Zukunft , Frankfurt am Main: Surkamp.
7. Sass, Hans-Martin, 1978, Ludwig Feuerbach in Selbstzeugnissen und
Bilddokumenten dargestellt , Hamburg: Rowohlt Taschenbuch Verlag.
8. Wartofsky, Marx, 1977, Feuerbach , Cambridge: Cambridge University Press.
9. Wilson, Charles A., 1989, Feuerbach and the Search for Otherness , New
York: Peter Lang.
10. Winiger, Josef, 2004, Ludwig Feuerbach: Denker der Menschlichkeit , Berlin:
Aufbau Taschenbuch Verlag.
11. Một số website trên Internet: -
-
12. http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=
168&subtopic=464&leader_topic=982&id=BT261255477
13.
14.
15.
16.

Tiểu luận triết học GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

2012


HVTH: HUỲNH TRÍ THANH NHÓM 9 LỚP ĐÊM 3 KHÓA 22 UEH Trang 23


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach 3
1) Tiểu sử của ludwig feuerbach: 3
2) Chủ nghĩa duy tâm của Heghen: 4
3) Sự phê phán triết học Heghen. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của phoiơbắc: 5
4) Quan niệm của feuerbach về tôn giáo và cuộc đấu tranh chống tôn giáo: 8
Chương II: Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tới sự ra đời của triết học
Marx. 9
KẾT LUẬN 13
PHỤ CHƯƠNG: 14
A. Quan điểm của L.PHOIƠBẮC về văn hóa và con người 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 22
MỤC LỤC 23



×