Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGEL VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.49 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Ñeà taøi:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện : Võ Xuân Mỹ
STT : 102
Lớp – Khóa : Đ5 – K21
-Tp.Hồ Chí Minh, 2012-
2
MỞ ĐẦU
Ngày nay, triết học Mác –Lênin ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn
trong sự phát triển của lịch sử - xã hội loài người ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Do đó, việc tìm hiểu các tư tưởng triết học Mác –Lênin cũng như tìm hiểu các
tiền đề của triết học Mác là một trong những yêu cầu quan trọng đối với bất kỳ
công dân nào của một nước xã hội chủ nghĩa. Bản thân tôi, trong quá trình được
đào tạo bậc đại học và cao học, đã được tiếp thu thêm các kiến thức về tiền đề
triết học Mác –Lênin. Trong đó, phép biện chứng của Hêghen là tiền đề quan
trọng. Mác và Ănghen đã trình bày trong một số tác phẩm của mình,về việc xuất
phát từ triết học Hêghen như thế nào và đoạn tuyệt với nó ra sao. Ngoài ra triết
học của Hêghen có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu
Âu đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Chính điều này đã
thôi thúc tôi tìm hiểu sâu hơn về nội dung triết học Hêghen để thấy được các giá
trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Tiểu luận “Phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và những giá trị, hạn chế” được hoàn thành với sự
hướng dẫn của giảng viên cùng với việc tham khảo chính các tài liệu triết học
của C.Mác và Ănghen, tài liệu triết học của Khoa Lý luận Chính trị - Đại học
Kinh tế Tp.HCM do TS.Bùi Văn Mưa làm chủ biên.



1
MỤC LỤC
M UỞ ĐẦ 1
M C L CỤ Ụ 2
Ch ng I : NH NG T T NG TRI T H C C A HÊGHENươ Ữ Ư ƯỞ Ế Ọ Ủ 2
Ch ng II: NH NG GIÁ TR VÀ H N CH PHÉP BI N CH NG DUY ươ Ữ Ị Ạ Ế Ệ Ứ
TÂM C A HÊGHENỦ 7
K T LU NẾ Ậ 11
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 12
Chương I : NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA
HÊGHEN
Phrieđrích Hêghen (1770-1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao
cấp ở Stútga thuộc Đức. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề
lịch sử, pháp quyền và tôn giáo. Những năm 1800 – 1803, Hêghen làm quen và kết
bạn với Senlinh. Từ đây, ông bắt đầu chủ yếu say mê các vấn đề triết học. Ông đã
trở thành nhà triết học – Bác học vĩ đại nhất, người đã hoàn thiện nền triết học
2
duy tâm biện chứng cổ điển Đức, Bậc tiền bối của triết học. Chính vì thế mà triết
học của ông có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của của dân tộc
Đức.
Nền tảng của triết học được Hêghen nêu lên trong tác phẩm Hiện tượng
luận tinh thần. Chi tiết toàn bộ nội dung Hệ thống triết học được Hêghen trình bày
trong tác phẩm Bách khoa toàn thư các khoa học triết học của ông.
1. Hiện tượng luận tinh thần
Hêghen thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chính là nền
tảng của hiện thực, là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật
chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Ý
niệm tuyệt đối phát triển theo tam đoạn thức: “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó
cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh

thần, giữa khách thể và chủ thể…trong ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý thức con
người là sản phẩm của lịch sử nhân loại; còn lịch sử nhân loại là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Trong Hiện tượng
luận tinh thần, Hêghen cũng cho rằng triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, là
khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn
bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại
đều là sự chắt lọc, kết tinh toàn bộ tư tưởng triết học trước đó. Do đó, triết học và
lịch sử triết học thống nhất với nhau để bao quát toàn bộ lịch sử phát triển của ý
niệm tuyệt đối.
2. Khoa học lôgích
Khoa học lôgích là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen, vì nó
nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát
và nền tảng của toàn bộ hệ thống. Cũng như các nhà lôgích truyền thống, Hêghen
coi lôgích là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Tư
duy với tư cách là đối tượng của khoa học lôgích được Hêghen hiểu là tư tưởng
thuần túy, là tinh thần tuyệt đối. Hêghen phân biệt hai dạng tư duy: tư duy tự nó -
chính là tinh thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; tư duy cho
3
nó - tức tư duy con người, là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, là giai
đoạn tư duy có ý thức
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgích học cũng như hệ thống của Hêghen
là “ cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”. Nhiệm vụ của khoa
học lôgích là đào thải những hình thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản
chất đích thực của tư duy sống động, đồng thời vũ trang cho con người một
phương pháp tư duy biện chứng nhằm khám phá ra chân lý, đi tới tự do.
Hêghen đưa ra các nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu khoa học
lôgích: tính khách quan, buộc các nhà nghiên cứu không được coi xuất phát điểm
một cách tùy tiện theo ý muốn chủ quan của mình, mà phải tuân theo tính khách
quan tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể; đơn giản và trừu
tượng nhất: Mọi quá trình vận động khách quan đều theo xu hướng từ đơn giản

đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn, cho nên điểm
khởi đầu phải là cái sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất; nguyên
tắc mâu thuẫn khẳng định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát
triển thành toàn bộ hệ thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ
hệ thống – đó là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất; nguyên tắc thống nhất giữa
tính lịch sử và tính lôgích trong việc xác định điểm khởi đầu: Hêghen coi khoa
học lôgích của mình là sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển tư tưởng triết học
của nhân lịch.
Trong khoa học lôgích, Hêghen hiểu tư duy như một quá trình phát triển
biện chứng thể hiện như sự thống nhất của ba yếu tố sau:
- Thính giác: Đây là tư duy phù hợp với lối suy nghĩ thông thường của
mọi người. Tư duy này con mang nặng tính trực quan, xem xét mọi vật một cách
cứng đờ, tách rời những mắt đối lập mà nhận thấy sự thống nhất giữa chúng.
- Yếu tố biện chứng: Khác với các quan niệm truyền thống coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận, Hêghen hiểu đây là một khoa học về sự phát triển
của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất của sự vật. Phép biện chứng
là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi
4
hiện thực. Cái biện chứng còn là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân
chính
- Yếu tố tư biện: thực hiện như sự thống nhất hai yếu tố trên, đồng thời là
kết quả phát triển của chúng, chỉ ơ đây thì phép biện chứng mới đạt đến sự phát
triển chín muồi. Đây là giai đoạn thể hiện bản chất đích thực của mọi cái như sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Và ông tự coi triết học của mình
tương ứng với giai đoạn này trong sự phát triển của tư duy nhân loại.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối còn trên thực tế chúng liên hệ
hữu cơ, không tách rời nhau trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái
niệm. Chúng là những yếu tố của phép biện chứng – linh hồn sống của khoa học
lôgích.
3. Triết học tự nhiên

Theo Hêghen: là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn tại
khách quan của tinh thần, hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật
chất. Thế giới chúng ta, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể thống nhất
trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, không ngừng vận động
và phát triển.
Triết học tự nhiên của Hêghen gồm ba phần: thế giới cơ học, thế giới vật
lý học, thế giới các cơ thể sinh học. Ông đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít
không thể tách rời giữa vật chất và vận động. Theo ông “không có vận động nào
là vận động thiếu vắng vật chất và cũng không hoàn toàn giống như không có vật
chất nào là vật chất không vận động”. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở quan niệm
di dời vị trí trong không gian, hoặc sự lặp lại tuần hoàn của cái đã có từ trước. Và
những phạm trù trên vẫn bị ông giải thích một cách duy tâm.
4. Triết học tinh thần
Triết học tinh thần của Hêghen bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan,
học thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh thần
chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người, sau đó
thể hiện trong ý thức để phân biệt với cơ thể, sau cùng thể hiện trong tri thức – cái
5
tinh thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó. Trong khi đó, tinh thần khách quan
là sự phủ định biện chứng của tinh thần chủ quan. Ý niệm tuyệt đối thể hiện trong
pháp quyền, thông qua ý chí cá nhận. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể thì ý
niệm tuyệt đối thể hiện trong đạo đức học. Tinh thần khách quan hoàn thành quá
trình tự phát triển trong phong hóa, khi ý niệm tuyệt đối trở thành tự do trong các
hình thức sinh hoạt gia đình, xã hội công dân và nhà nước. Tinh thần tuyệt đối là
sự thống nhất giữa tinh thần chủ quan và tinh thần khách quan. Ý niệm tuyệt đối
lần lượt thể hiện và hoàn thiện trong nghệ thuật, tôn giáo, triết học. Đây chính là
các hình thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để khám phá chính mình, quay về với
mình với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ của nó, trong đó, triết học là
quá trình nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối
quay về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt đối.

Triết học tinh thần của Hêghen thực chất bàn về sự phát triển thức cá
nhân và thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ con người. Theo Hêghen, con
người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình,
nhận
thức và tư duy
của con người được hình thành trong chừng mực con người
nhận
thức và cải
tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ
ý
thức mà
nhân loại đã trải qua. Hêghen đã thấy được
vai
trò của lao động đối với sự
hình thành và phát triển của ý thức. Lao động
đã
giải phóng hai tri thức của
loài người, đưa con người đi lên thẳng đứng,
tách
con người ra khỏi thế giới
loài vật. Cũng chính lao động, con người đã tạo
thức
ăn mới hoàn thiện não
bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế
giới
xung quanh, bộc lộ
những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức.
Cũng
chính trong quá
trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân

mình.
Vậy không có
quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc
con
người không
hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới,
không
có ý thức của
con người. Hêghen khẳng định ý thức và tư duy của con người
hình
thành trong
chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ
rằng
đã bắt đầu
thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý
thức
và tư duy.
Từ đó Hêghen cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới
tự
nhiên,
6
tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Theo
Hêghen, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế
thừa.

vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ
lịch
sử
mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Nó ra đời nhằm duy

trì,
bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước
ra đời từ những mâu
thuẫn
trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai
cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản
chất
của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ
cương về chính trị, văn hóa, pháp
luật…
Chương II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung, phép
biện chứng là linh hồn sống động triết học Hêghen. Triết học Hêghen đã trình
bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm. Tính duy tâm
trong triết học của Hêghen được biểu hiện ở chỗ, ông coi phép biện chứng là quá
trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, biện chứng chủ quan là cơ sở
của biện chứng khách quan. Hêghen, là người xây dựng phép biện chứng tương
7
đối hoàn chỉnh với một hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, phép
biện chứng Hêghen là phép biện chứng duy tâm, ông coi biện chứng của ý niệm
sinh ra biện chứng của sự vật, chứ không phải ngược lại. “Ở Hêghen, phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái
hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”

[4,494].
Xem xét giá trị và hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong từng nội
dung:
1. Phép biện chứng duy tâm trong nền tảng triết học Hêghen
a. Ý niệm tuyệt đối

Hạn chế của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen là ở chỗ
ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là
phép biện chứng duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa học. Hêghen cho
rằng: ý niệm tuyệt đối sinh ra vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao nhất
của ý niệm tuyệt đối, vậy ông đề cao con người. Đó là điểm đặc sắc trong triết
học của Hêghen, từ đó đề cao trí tuệ con người.
b. Phép biện chứng duy tâm về triết học
Hêghen là người có công khôi phục lại quan điểm triết học là khoa học
của
mọi
khoa học. Quan điểm này là quan điểm sai lầm và sau này đã gợi mởi
cho
Mác và Ănghen một cách hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ
thể.
Triết học là tinh hoa của thời đại thể hiện ở dạng tinh thần. Lịch sử triết
học
đã
khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại. Hệ thống triết học
cuối
cùng
trong lịch sử là kết quả của các hệ thống triết học trước đó. Chính
quan điểm này mâu thuẫn với phép biện
chứng
của Hêghen. Vì nếu là biện
chứng thì không thể cuối cùng được, không tìm
ra
nguyên nhân đầu tiên và kết
quả cuối
cùng.
2. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học lôgích

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã tạo ra được một lý
luận biện
chứng
phát triển với tư cách lôgích học và là phương pháp. Ông
đã kết hợp phép
biện
chứng và lôgích học thành một quan niệm thống nhất về
8
lôgích biện chứng. Phép
biện
chứng là linh hồn của lôgích học, nhờ đó khoa
học lôgích trở thành một cơ thể
sống
chứ không phải là những phạm trù khô
cứng như lôgích học trước đây. Công lao
của
Hêghen so với những bậc tiền bối
chính là ở chỗ ông đã đưa ra được một sự phân
tích
biện chứng, khái quát tất
cả những phạm trù quan trọng nhất của triết học và
đã
hình thành nên ba
quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm. Tuy nhiên, Hêghen đã
sáng
tạo lôgích biện chứng trên lập trường duy tâm, ông đã xuất phát từ cơ sở
đồng
nhất
giữa tư duy và tồn tại khi coi những quy luật của tự nhiên, của
lịch sử cũng


những quy luật của tư
duy.
Đằng sau vỏ duy tâm, ông cho rằng tất cả sự
vật
trên thế giới, kể cả tư
duy của con người đều vận động, phát triển theo các
quy
luật, chính Hêghen là
người đầu tiên khái quát nên quy luật đó. Đây là điểm sáng trong phép biện
chứng.
Lần đầu tiên Hêghen coi nguyên lý đi từ trừu tượng đến cụ thể là một
trong những nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm lôgích học.
Hêghen hiểu được lôgích là khoa học nghiên cứu tư duy như một quá trình
của trí tuệ và tư tưởng nhân loại; ông nhận thấy tư duy con người không chỉ bó
hẹp trong ý thức cá nhân thể hiện dưới dạng ngôn ngữ, mà cả trong quá trình
hoạt động, trong công cụ lao động và sản phẩm lao động của con người.
3. Phép biện chứng duy tâm trong triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên của Hêghen, bên cạnh nhiều tư tưởng tích cực bởi ý đồ
của nó muốn đem lại cho con người một cách nhìn biện chứng về tự nhiên,
nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, là khâu yếu nhất trong hệ thống
của ông, không có nhiều ý nghĩa trong lịch sử triết học.
4. Phép biện chứng duy tâm trong triết học tinh thần
Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể
của
chính bản thân mình
là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hêghen đã thấy được
vai
trò của lao động
đối với sự hình thành và phát triển của ý thức. Hêghen khẳng định ý thức và

tư duy của con người
hình
thành trong chừng mực con người nhận thức và cải
9
tạo thế giới, chứng tỏ
rằng
đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự
hình thành và phát triển ý
thức
và tư duy. Chân lý là
sự
thống nhất của tinh
thần và vật chất là cả một quá trình. Chân lý là tri thức

nội dung phản ánh
phù hợp với hiện thực khách quan.
Hệ thống Hêghen chứa đựng một mâu thuẫn bên trong không thể
cứu
chữa
được: một mặt, tiền đề cơ bản của nó là một quan điểm lịch sử
cho rằng lịch
sử
nhân loại là một quá trình phát triển mà xét về bản chất thì
không thể tìm được
đỉnh
cao của nó về mặt trí tuệ trong việc phát hiện ra cái
gọi là chân lý tuyệt đối.
Nhưng
mặt khác, hệ thống Hêghen lại khẳng định
rằng nó là hiện thân của chính ngay

chân
lý tuyệt đối ấy.
Theo Hêghen, nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.

Sai lầm
đầu tiên của Hêghen là quan niệm sai về bản chất của nhà nước. Hêghen cho
rằng nhà nước ra đời để duy trì xã hội công
dân
và bảo toàn các gia đình, để
điều hòa mâu thuẫn các giai cấp là sai lầm của
ông.
Theo Hêghen, nhà nước
là cho tất cả mọi tầng lớp nhưng lịch sử đã chứng minh
điều
đó hoàn toàn sai
lầm.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hêghen đã nêu ra
nhiều tư
tưởng
biện chứng quý báu về sự phát triển của đời sống xã hội.
Trong đó, ông đặc
biệt
quan tâm nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản
chất của nhà nước. Hêghen
tìm
nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội. Bản
chất của nhà nước là mang bản
chất
thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế
nhưng Hêghen cho rằng nhà nước

không
chỉ là cơ quan hành pháp mà còn là
tổng thể các quy chế kỹ cương, chuẩn mực

mọi lĩnh vực đạo đức, pháp
quyền, chính trị, văn hoá,…của xã hội, nhờ đó mà

hội được phát triển bình
thường. Vậy trong tư tưởng của Hêghen không mang
tính
giai
cấp.
Nhìn chung, triết học tinh thần của Hêghen, bên cạnh nhiều hạn chế bởi
lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về
sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử nhân loại, làm nền tảng cho quan
niệm duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như một tiến
trình lịch sử - tự nhiên.
10
KẾT LUẬN
Triết học của Hêghen là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học
trước Mác, là thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức. Hêghen đã tổng kết hầu
như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi chủ nghĩa với ý nghĩa lịch
sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi giai
đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên một trình độ
cao hơn. Tuy nhiên, Hêghen lại diễn tả quá trình đó một cách trừu tượng trong
phạm vi tinh thần, và do đó xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Quá trình diễn
11
biến tư tưởng trong tinh thần được coi như là một vận động hoàn toàn độc lập và
tự túc, tách rời cơ sở thực tế khách quan, thậm chí lại phủ định thực tế khách
quan. Hệ thống biện chứng pháp theo lối duy tâm của Hêghen đã được Mác thừa

kế và phát triển thành phép biện chứng duy vật một công cụ không thể thiếu
trong lý luận và thực tiễn ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bùi Văn Mưa (chủ biên) - Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học) - Trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010.
2- Bộ Giáo dục và Đào tạo - Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học) - NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội – 2003.
3- C.Mác và Ph.Ănghen - Toàn tập – NXB Chính trị Quốc gia, 1995, tập 20.
12
4- Ph.Ănghen – Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004.
5-
nghia-cua-phep-bien-chung-heghen.html
6-
13

×