Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGEL VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.29 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
PHẦN MỞ ĐẦU
Nền triết học cổ điển Đức là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
bản hợp xướng của
triết
học Tây Âu. Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng
các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các
hệ
thống triết học độc đáo,
đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết về các
quá
trình
phát triển. Với
cách
nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các nhà triết học
cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hóa
toàn
bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại
đã đạt được. Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất đó
không
thể không kể tới
Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện
chứng
của
ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của
Hegel có ảnh
hưởng

rất
mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương


thời, triết học của ông được gọi là
"tinh
thần Phổ". Không chỉ là đại biểu tiêu
biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại cho triết học địa
vị
vốn có
và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ
sâu sắc

có cơ sở khoa học, Hegel đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và
phương pháp của triết
học,
mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và
qua
đó,

trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết
học.
“Phép biện chứng duy tâm của Hegel – Những giá trị, hạn chế” – Là một
đề tài nghiên cứu thực sự rất thú vị và bổ ích. Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
Thầy TS. Bùi Văn Mưa đã cho phép tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Bài nghiên cứu sẽ nêu những nội dung cơ bản trong hệ thống triết học của
Hegel, qua đó chỉ rõ những giá trị của phép biện chứng duy tâm Hegel, đồng thời
cũng xem xét những hạn chế trong hệ tư tưởng của ông. Trong nghiên cứu này đã sử
dụng một số tài liệu của Khoa triết học, trường Đại học Kinh Tế Tp. Hồ Chí Minh:
Triết học, phần I – Đại Cương về lịch sử triết học (TS. Bùi Văn Mưa chủ biên), Triết
học Mác – Lênin (Nhóm tác giả) như nguồn tài liệu chính giúp hoàn thành bài tiểu
luận này.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 1
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế

Chương I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRONG HỆ THỐNG
TRIẾT HỌC HEGEL
1. Hiện tượng luận tinh thần - được xây dựng dựa trên bốn luận điểm nền tảng
sau đây:
Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối là nền
tảng của hiện thực. Nó là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật
chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giởi tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Con
người chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát triển tự thân của ý niệm
tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân
loại chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức
chính bản thân mình và quay trở về với chính mình. Tư duy logic là hình thức thể
hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối.
Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phát triển được Hegel
hiểu như một chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó cái mới liên tục
thay thế cái cũ, nhưng đồng thời thừa kế những cái hợp lý của cái cũ. Quá trình phát
triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”.
Đó cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh
thần, giữa khách thể và chủ thể,…trang bản thân ý niệm tuyệt đối.
Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Hegel coi lịch sử
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên
trần gian. Lịch sử con người có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá
nhân. Ý thức cá nhân chỉ là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân
loại đã trải qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân
loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hegel thừa nhận cso ba
hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học,
trong đó triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 2
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
tuyệt đối. Theo Hegel, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khao học vạn năng

đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi
thời đại lại có một học thuyết triết học riêng của mình. Học thuyết này là tinh hoa
tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống
triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ
lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học. Triết học và lịch sử triết học
thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử; vì vậy triết
học phải bao trùm toàn bộ lích sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm
này thì triết học Hegel – khoa học về ý niệm tuyệt đối,- được chia thành ba bộ phận
là khoa học logic, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với ba giai đoạn của ý
niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại
khác của nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với nó.
2. Bộ Bách khoa toàn thư các khoa học triết học – bao gồm ba quyển là Khoa
học logic, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần.
2.1Khoa học logic
Là tác phẩm quan trọng nhất của hệ thống triết học Hegel, Khoa học logic
nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở gia đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ
thống. Khi vạch ra những hạn chế của logic học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ
quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ được ranh giới giữa logic học và
các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm trù
bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó…,Hegel khởi thảo một logic
học mới giúp vạch ra bản chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương
pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học. Đó là khoa học về những phạm trù
và qui luật của tư duy; nhưng tư duy mà logic học nghiên cứu là tư duy thuần túy,
tức là ý niệm tuyệt đối trong chính nó hay Thượng đế. Theo Hegel, logic học giúp
thể hiện Thượng đế trong bản chất vĩnh hằng của Ngài trước khi sáng tạo ra giới tự
nhiên và các tinh thần hữu hạn khác, trong đó có tư duy con người. Tu duy con
người chỉ là một giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, qua đó ý niệm tuyệt
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 3
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
đối có khả năng ý thức được bản thân mình. Khi xác định bản chất khách quan như

thế của tư duy, Hegel coi giới tự nhiên chỉ là tư duy khách quan vô thức – tư duy thể
hiện dưới dạng các sự vật, để phân biệt với tu duy con người là tư duy khách quan
có ý thức. Logic học nghiên cứu tư duy như thế phải là một hệ thống siêu hình học.
Khoa học logic của ông bao gồm ba phần, mỗi phần nghiên cứu tương ứng
một trong ba giai đoạn tương ứng của tư duy thuần túy trong chính nó. Đó là học
thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm.
Trong học thuyết về tồn tại, Hegel vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa lượng
và chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi gián đoạn về
chất và ngược lại. Sư quy định này nói lên cách thức tồn tại của sự vật (khái niệm).
theo Hegel, tồn tại xuất phát không phải là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần túy,
nghĩa là tồn tại ở một phương diện nhất định và được đồng nhất với hư vô, tồn tại
dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại thuần túy sang sinh thành là sự thống
nhất giữa chất, lượng trong độ. Chất là tính quy định bên trong sự vật. Lượng là tính
quy định bên ngoài của nó. Độ là sự thống nhất của chất và lượng với nhau trong sự
vật để sự vật là nó. Khi lượng của sự vật thay đổi vượt quá độ, tức là điểm nút thì
chất này chuyển thành chất khách, tức bước nhảy xảy ra.
Trong triết học về bản chất, Hegel bàn về bản chất – hiện tượng – hiện thực,
nghĩa là bàn về sự tự vận động phát triển của các phạm trù: đồng nhất – khác biệt –
đối lập – mẫu thuẫn, bản chất – hiện tượng, nội dung – hình thức, khả năng – hiện
thực, nguyên nhân – kết quả. Ông vạch ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của sự vật (khái
niệm). Khi nghiên cứu quá trình vận động, phát triển của khái niệm, ông cho rằng,
trong bản thân khái niệm vốn có sẵn cái khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc
đầu là khác biệt nhỏ, do tích lũy dần dần đến khác bệt cơ bản (đối lập); từ đây mâu
thuẫn hình thành và phát triển dẫn đến chuyển hóa.
Trong học thuyết về khái niệm, Hegel bàn về sự tự vận động phát triển của ý
niệm tuyệt đối thông qua các hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm –
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 4
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
phán đoán – suy luận, bàn về thực tiễn, về chân lý hay ý niệm – sự thống nhất giữa

khái niệm và thực tiễn. Ông vạch ra con đường phát triển của khái niệm theo xu
hướng phủ định của phủ định, nghĩa là khái niệm phát triển theo đường xoắn ốc.
Hegel cho rằng khái niệm không bất động mà nó phải trỉa qua các giai đoạn khác
nhau của qua trình nhận thức. Đó là gia đoạn trức quan cảm tính với cảm giác, tri
giác, biểu tượng và giai đoạn lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý. Do khái niệm
luôn luôn biến đổi, mà phán đoán dựa trên khái niệm ngày càng sâu sắc hơn, và suy
lý được xây dựng trên phán đoán ngày càng sáng tạo, năng động hơn.
Như vậy, toàn bộ Khoa học logic thể hiện quá trình tự thân vận động phát
triển của ý niệm tuyệt đối trong chính nó và cho nó. Đầu tiên, ý niệm tuyệt đối tự tha
hóa chính mình trong tồn tại của mình để tự đem đến cho mình một nội dung. Sự
vận động tiếp theo cho phép ý niệm tuyệt đối khám phá thấy mình trong bản chất, và
sau cùng nó quay về với chính mình trong ý niệm nghìa là trở về cái ban đầu.
Vận động trở về cái khởi đầu cũng là tiến lên phía trước là tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Hegel. Luận điểm này không chỉ nói lên bản chất
duy tâm mà còn vạch rõ linh hồn biện chứng của toàn bộ triết học Hegel.
Qua các học thuyết về tồn tại, bản chất và khái niệm, Hegel đã trình bày một
cách xúc tích, nhưng đầy đủ và rõ ràng các luận điểm cơ bản của phép biện chứng.
Phép biện chứng là một linh hồn uyển chuyển của logic học; và logic học là một cơ
thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù sơ cứng. Do là một cơ thể
sống động nên logic học luông đào thải những phạm trù không thể hiện bản chất
sống động của tư duy, đồng thời trang bị cho con người một tư cách tư duy biện
chứng để khám phá ra chân ly, để đi đến tự do.
Mọi nội dung cốt lõi của phép biện chứng đã được Hegel bao quát hết trong
Khoa học logic của mình. Xét về bản chất, phép biện chứng khái niệm của Hegel là
phép biện chứng duy tâm. Do bản tính duy tâm nên phép biện chứng này đầy tính tư
biện không triệt để và chưa nhiều yếu tố thần bí. Hegel bắt nó phải dừng lại trong hệ
thống của mình và trong khuôn khổ nhà nước Phổ…
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 5
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
2.2Triết học tự nhiên

Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của
ý niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất. Hegel không giải thích ý niệm tuyệt
đối chuyển từ chính nó sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý
niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài thời gian, và giới tự nhiên cũng không có khởi đầu
trong thời gian. Hegel cho rằng, qua trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt
đối đồng thời cũng là quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự
nhiên diễn ra liên tục. Thế giới đang được tạo ra, hiện đang được tạo ra và sẽ vĩnh
viễn được tạo ra.
Nhưng hình thức chủ yếu của ý niệm tuyệt đối tồn tại dưới dạng giới tự nhiên
là cơ học, vật lý học, sinh thể học. Khi luận về cơ học, Hegel trình bày những vấn đề
về không gian, thời gian, vật chất, vận động, lực hấp dẫn vũ trụ…theo tinh thần duy
tâm, thậm chí còn mang màu sắc siêu hình. Khi bàn về vật lý học, Hegel trình bày
về thiên thể, ánh sáng, nhiệt…và khi nói đến sinh thể học, Hegel trình bày các vấn
đề về địa chất học, thực vật học, động vật học…
Hegel cố gắng trình bày giới tự nhiên như một chỉnh thể thống nhất mà trong
nó, mọi vật có liên hệ hữu cơ với nhau. Tuy nhiên do coi giới tự nhiên là sự tha hóa
của ý niệm tuyệt đối, mà ông cho rằng, bản thân giới tự nhiên thụ động, không tự
vận động, không biến đổi, không phát triển theo thời gian mà chỉ vận động trong
không gian. Ở đây, nhiều chỗ nhà biện chứng lại tỏ ra tư biện và bất chấp khoa học;
Vì vậy Triết học tự nhiên là bộ phận yếu nhất trong toàn bộ hệ thống triết học của
ông.
2.3Triết học tinh thần
Đây là phần thứ ba trong hệ thống Hegel, tại đây ông xem xét ý niệm tuyệt
đối ở giai đoạn cuối cùng trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự
nhiên, khắc phục sự tha hóa, quay về lại chính mình như thế nào. Triết học tinh thần
bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách quan và
học thuyết về tinh thần tuyệt đối.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 6
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
Tinh thần chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con

người (nhân loại học), sau đó thể hiện trong ý thức (hiện tượng học) để phân biệt với
cơ thể, và sau cùng nó thể hiện trong tri thức (tâm lý học) – cái tinh thần bắt thế giới
bên ngoài phục tùng nó.
Tinh thần khách quan là sự phủ đinh biện chứng tinh thần chủ quan. Nó thể
hiện tính tự do của ý niệm tuyệt đối trước hết trong pháp quyền; nó lấy tự do ý chí
làm nền tảng, lấy ý niệm pháp quyền và việc thực hiện pháp quyền làm đối tượng.
Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể đạo đức thì tinh thần khách quan tự phát triển
vào lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp quyền của hành vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi
của các chủ thể làm cơ sở. Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình phát triển
trong phong hóa. Phong hóa là sự thể hiện bản tính tự do của ý niệm tuyệt đối trong
các hình thức thể hiện là gia đình, xã hội công dân và nhà nước, trong đó nhà nước
là hình thức cao nhất.
Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất của tinh thần chủ quan và tinh thần khách
quan. Nó thể hiện đầu tiên trong nghệ thuật, thông qua việc đề cao cái đẹp tinh thần
– hình cảnh cảm tính của ý niệm tuyệt đối; sau đó, nó thể hiện trong tôn giáo, thông
qua việc thống nhất niềm tin với lý tinh – biểu tượng của ý niệm tuyệt đối; và cuối
cùng, nó hoàn thiện chính mình trong hệ thống khái niệm trừu tượng triết học. Theo
Heghe, nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà ý niệm tuyệt đối sử
dụng để khám phá ra chính mình, để rủ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình nơi
trần gian và quay về với mình, quay với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ
của nó, trong đó, triết học là quá trình tự nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý
niệm tuyệt đối.
Hegel cho rằng, triết học của ông – học thuyết về tinh thần tuyệt đối – là sự
tổng hợp toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đó, thuộc mọi lĩnh vực
nghiên cứu hoạt động tinh thần của con người. Nó là khoa học của mọi khoa học.
Trong triết học Hegel, ý niệm tuyệt đối đã hoàn thành quá trình nhận thức của mình,
đã khám phá ra chính mình, và quay trở về với mình trong học thuyết về tinh thần
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 7
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
tuyệt đối. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối là kết quả tối cao, toàn diện và triệt để của toàn

bộ lịch sử thế giới.
Nếu Triết học tự nhiên có nhiều điểm yếu thì Triết học tinh thần là một thành
tựu vĩ đại của triết học Hegel. Xét về thực chất, đây là học thuyết duy tâm bàn về sự
phát triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển tri tuệ, lý tính con
người. Ở đây, ông đã lý giải tiến trình phát triển xã hội theo tinh thần duy tâm.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 8
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
Chương II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
1. Những giá trị trong hệ thống triết học Hegel
Thứ nhất là, nhà triết học duy tâm nhưng Hegel đặc biệt đề cao con người,
không hạ thấp
con
người xuống, đó là điểm sáng của triết học Hegel. Hegel cho
rằng: ý niệm tuyệt đối sinh
ra
vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao
nhất của ý niệm tuyệt đối, giống như
bảo
rằng: “Thượng đế sinh ra vạn vật, con
người là giai đoạn phát triển cao nhất của
thượng

đế”,
vậy ông đề cao con người.
Chính Hegel khẳng định hoạt động của con người và
nhận
thức của con người là
chìa khóa để ý niệm tuyệt đối nhận thức bản thân mình trở về
với
chính bản

thân mình. Điều này
đi ngược lại với tư tưởng của các nhà duy tâm trước đây.
Bên cạnh đó,
Hegel
đặc
biệt đề cao trí tuệ con người. Ông khẳng định: giới tự
nhiên này nằm trong quá trình
phát
triển vô cơ, hữu cơ cho đến con người, và khi
con người phản ánh đầy đủ về giới
tự

nhiên,
tức là con người quay trở lại điểm
khởi đầu là ý niệm tuyệt đối. Vì vậy, trong
triết
học của Hegel, điểm khởi đầu
là ý niệm tuyệt đối, điểm kết thúc cũng là ý niệm tuyệt đối mà tồn tại ý thức của
mỗi cá nhân, con người chúng
ta.
Thứ hai là, Hegel đã thực hiện được “đơn đặt hàng của lịch sử” - sáng tạo
ra một hệ thống logic học mới - logic
biện

chứng
nhằm đem lại cho con người
một cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang
bị
cho các ngành khoa học
một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương

pháp

biện
chứng. Phép
biện chứng của Hegel là một trong những thành tựu quý giá nhất
của
triết học
cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Marx nói chung.
Logic học là bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Trong thời kỳ cổ
đại đã có hình
thức
logic học của Aristote, đến thời cận đại phát triển thành
logic toán gắn liền với
tên
tuổi của Leibniz. Hegel phê phán logic cũ vì logic học
nghiên cứu về tư duy, còn logic
trước
đây là logic học hình thức nghiên cứu về tư
duy hình thức chủ quan, nghĩa là tư duy
trong
trạng thái bất biến, cô lập, không
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 9
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
sinh thành, không biến đổi và không phát triển. Vì
vậy
logic học trước đây chưa
đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết học


khoa

học.
Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của đối tượng
để hình thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con người. Phương pháp tư
duy hình thức là
phương
pháp tư duy nhận thức của sự vật trong trạng thái bất
biến, trạng thái tĩnh và cô lập.
Còn
phương pháp tư duy biện chứng là phương
pháp tư duy khảo sát đối tượng trong
sinh

thành,
biến đổi và phát triển. Chính
Hegel là người đã khai sinh ra phương pháp tư duy
biện
chứng này, trở thành
phương pháp khoa học, làm công cụ khoa học khám phá ra chân
lý.
Marx tuyên
bố rằng: “Hegel là
người

thầy
vĩ đại của tôi về phép biện chứng” [(3) –
Trang 135].
Thứ ba là,
Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử và tư duy
dưới dạng một quá
trình,

đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện
chứng, trong đó cái mới
ra
đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ
những mặt tích cực có thể thúc đẩy
sự
phát triển.
Thứ tư là, Hegel là người đầu tiên có công nâng phép biện chứng từ trình
độ tự
phát

lên
trình độ lý luận và và chính ông là người đầu tiên đã khái quát được
đầy đủ
phép
biện chứng dưới dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù. Toàn bộ hai
nguyên lý, ba
quy
luật và sáu phạm trù chính Marx kế thừa của Hegel. Theo
phép biện chứng
của

Hegel,
các sự vật, hiện tượng trên thế giới không cô lập,
tách rời nhau mà liên hệ
tác
động qua lại với nhau và không ngừng chuyển
hóa cho nhau, nghĩa là vạn vật
liên


hệ
với nhau một cách phổ biến. Điều này
hiện nay đã được khoa học chứng
minh.
Thứ năm là, Hegel đã để lại những tư tưởng tiến bộ, tích cực, và có ý nghĩa
đến bây giờ. Ví dụ:
- Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của chính bản thân mình

quan
điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai trò của lao
động đối với sự
hình
thành và phát triển của ý thức. Lao động đã giải
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 10
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
phóng hai tri thức của loài
người,

đưa
con người đi lên thẳng đứng,
tách con người ra khỏi thế giới loài vật.
- Hegel cho rằng: “Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp

còn là
tổng thể các quy chế kỹ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức,
pháp
quyền,
chính trị, văn hoá,…” [(2) – Trang 68] của xã hội, nhờ đó
mà xã hội được phát triển bình thường.
2. Những hạn chế trong hệ thống Hegel

Thứ nhất là, Triết học của Hegel là duy tâm khách
quan, ông xây dựng
phép biện chứng
duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa
học.
Theo Hegel,
mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều được sinh ra bởi một
thực
thể tinh thần,
ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng đó không phải là ý thức, tinh
thần
của
từng cá nhân, con người cụ thể mà là một thực thể tinh thần bên ngoài con người

ông
đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Ông coi ý niệm tuyệt đối là cái có trước.
Trong quá trình vận động, phát triển, ý
niệm
tuyệt đối tha hóa thành giới tự
nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình
trong

tinh
thần tuyệt đối. Sai
lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hegel là ở
chỗ

ông
cho rằng
biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.

Thứ hai là, Trong tư tưởng của Hegel có một
điểm
đáng lưu ý là triết học
là khoa học của tất cả mọi khoa học. Hegel muốn xây dựng triết học mang tính
vạn năng, đóng vai trò nền tảng cho
tất

cả
các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ
khoa học cụ thể phải nằm trong triết học.
Quan
điểm này là quan điểm sai lầm và
sau này đã gợi mở cho Marx và Engels một cách
hiểu
mới về vai trò của triết học
với khoa học cụ thể.
Thứ ba là, trong một số quan điểm của Hegel phảng phất sự ngạo mạn, đề
cao bản thân. Ông nói các trường phái triết học tưởng là khác nhau nhưng thật ra
là một vì tất
cả
chúng đều là triết học và mang tính kế thừa. Từ đó khẳng định hệ
thống triết học
cuối
cùng trong lịch sử là kết quả của toàn bộ hệ thống triết học
trước đó, đồng thời
tuyên

bố
triết học của Hegel là cuối cùng trong lịch sử.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 11

Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
Chính quan điểm này mâu thuẫn
với
phép biện chứng của Hegel. Vì nếu là biện
chứng thì không thể cuối cùng
được,
không tìm ra nguyên nhân đầu tiên và kết
quả cuối
cùng.
Thứ tư là, phép biện chứng của Hegel mang tính duy tâm, thần bí nên toàn
bộ
những nguyên lý, quy luật phạm trù được Hegel trình bày trên lập trường
duy
tâm,
vì vậy, vai trò khám phá chân lý của nó bị giảm đi. Engels ví: “Phép
biện chứng của Hegel như thằng

trai đẹp kháu khỉnh được sinh ra bởi một
người đàn bà nhưng chủ nghĩa duy tâm
của
Hegel là nước dơ, nước bẩn trong
chậu nước” [(2) – Trang 112].
Thứ năm là, Mặc dù Hegel là một cái đầu bách khoa nhất của thời đại mình
song ông vẫn bị hạn chế:
- Những giới hạn không thể tránh được của sự hiểu biết của bản thân
ông.
- Những kiến thức và những quan niệm của thời đại ông cũng có tính
chất
hạn
chế như thế cả về khối lượng lẫn về chiều

sâu.
- Hegel là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với Hegel, những tư tưởng
trong đầu
óc
của mình không phải là những phản ánh ít trừu tượng của
những sự vật và quá
trình
hiện thực, mà ngược lại, đối với ông, những
sự vật và phát triển của chúng chỉ

những phản ánh vốn là hiện thân
của một "ý niệm" tồn tại ở một nơi nào đó
ngay

trước
khi có thế giới.
Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực
của
thế
giới đều hoàn toàn bị đảo
ngược.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 12
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
KẾT LUẬN
Gần hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hegel ra đời, song
ảnh hưởng của nó trong
đời
sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên.
Bởi lẽ như Engels đã khẳng định: "Hệ
thống

Hegel bao trùm một lĩnh vực hết
sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia và phát triển
trong

lĩnh
vực đó. Một
sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên Vì
Hegel
không những chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có tri thức
bách khoa
nên
những phát biểu của ông tạo thành thời đại Nếu đi sâu hơn nữa
vào trong toà nhà đồ sộ, người ta
sẽ
thấy trong đó có vô số những vật quý giá đến
nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng
Nói
chung, với Hegel, triết học
đã đi đến điểm tận cùng. Một mặt vì trong hệ thống của ông, ông
đã

tổng
kết
một cách hết sức hung vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học. Mặt khác, vì Hegel

không


ý thức cũng đã chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng
bong những hệ thống triết

học
để đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế
giới".
Là những người ủng hộ sự phát triển, sáng tạo phép biện chứng, chúng ta
đánh giá cao công
lao
vĩ đại của Hegel cho phép biện chứng và coi việc tiếp
tục tổng kết khái quát những thành
tựu
mới nhất của khoa học và của thực tiễn
hiện đại để làm giàu thêm
phép

biện chứng duy vật của Marx là nhiệm vụ quan
trọng và không bao giờ kết
thúc.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 13
Phép biện chứng duy tâm Hegel – Những giá trị và hạn chế
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh, 2010.
2. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Lút vích Phoi Ơ Bắc và sự cáo chung của Triết học
cổ điển Đức.
/>option=com_content&view=article&id=160:ludwidfeuerbach-va-s-cao-chung-
ca-trit-hc-c-in-c&catid=6:h-hinh-tam-thchc&Itemid=193
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tiếng Việt, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995.
4. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Trọng Chuẩn, Ý nghĩa phép biện chứng Hegel.
/>bien-chung-heghen.html

5. Triết học Mác – Lênin (Hệ thống câu hỏi – đáp án gởi mở & Hướng dẫn viết
tiểu luận), Nhóm tác giả Khoa Triết học, Trường Đại học Kinh Tế Tp.HCM.
SVTH: Nguyễn Đức Nam – Đêm 5 – K.21 Page 14

×