Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGEL VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ - HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.39 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài : PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Người thực hiện : Nguyễn Trường Xuân Nam
Số thứ tự : 105
Lớp : Cao học kinh tế đêm 5, Khóa K21
Giảng viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 02 năm 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Với quan niệm chủ đạo xem triết học là khoa học của mọi khoa học, các nhà
triết gia Đức vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX đã xây dựng nên các hệ
thống triết học vạn năng, bao trùm các lĩnh vực hoạt động của con người, đề cao
tầm ảnh hưởng của triết học đối với các ngành khoa học khác. Các triết gia đã tạo
ra một giai đoạn phát triển mới về chất góp phần đưa triết học cổ điển phương
Tây lên đỉnh cao làm cơ sở cho việc phát triển triết học hiện đại, và là một trong
ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Marx.
Là một trong những bộ óc bách khoa toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử,
George Wilhelm Friedrich Hêghen (1770-1831), đã phát triển rất có hệ thống các
phép biện chứng theo lối duy tâm, và trở thành triết gia có tầm ảnh hưởng tới rất
nhiều nhân vật thông qua các bàn luận của ông về mối quan hệ giữa tự nhiên và
tự do, tính nội tại và sự siêu nghiệm, ông đưa ra các khái niệm về logic phân tích,
phép biện chứng, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối… đóng góp to lớn cho nền triết
học từ giai đoạn cổ điển đến triết học hiện đại. Tuy nhiên, trong triết học của
mình, Hêghen vẫn không tránh khỏi những tư tưởng hạn chế về con người, về
chủ nghĩa duy tâm Có thể nói triết học của ông chứa đựng cả những hạn chế và
những đóng góp mang tính lịch sử điều này đã tạo nên ấn tượng sâu sắc, là dòng
suối thôi thúc tác giả bài viết thực hiện đề tài này.
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các thầy cô khoa lý luận chính trị, tiểu


ban triết học, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là Thầy
TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), TS. Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS.
Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi Xuân Thanh đã biên soạn bộ tài
liệu Triết học, phần I – Đại Cương về lịch sử triết học như nguồn tài liệu chính
giúp hoàn thành bài tiểu luận này.
Nhiệm vụ của đề tài nhằm làm rõ những giá trị và xem xét các mặt còn hạn
chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen. Do đó, nội dung chính sẽ xoay quanh
các vai trò, tầm ảnh hưởng của tư tưởng triết học Hêghen, đồng thời tìm hiểu các
khía cạnh hạn chế của tư tưởng triết học này.
1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HÊGHEN
1.1. Điều kiện lịch sử
Nước Đức đã từng trải qua giai đoạn yếu kém về kinh tế, nhược về chính trị,
người dân sống trong một xã hội mà tàn tích phong kiến còn quá nặng nề. Tuy
nhiên, đây lại là giai đoạn phát triển vượt bậc về đời sống văn hóa và tinh thần
hình thành nền triết học cổ điển Đức, giai đoạn cuối thế kỳ XVII đến đầu thế kỷ
XIX đánh dấu sự phát triển mới về chất, làm nên đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ
điển phương Tây và có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại. Một trong những
đại diện khổng lồ với những tư tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc là Hêghen,
người đã phát triển có hệ thống các phép biện chứng theo lối duy tâm, làm nền
tảng to lớn cho Marx kế thừa và phát triển thành phép biện chứng duy vật.
Biện chứng duy tâm của Hêghen là kết quả của quá trình xây dựng phương
pháp biện chứng trong triết học Đức từ Kant, quá trình này phản ánh những đòi
hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản châu Âu thông qua giai cấp tư sản Đức với
việc tiến hành cuộc cách mạng trên phương diện tư tưởng. Triết học của Hêghen
là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu
thuẫn. Phương pháp này phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, ông cho
là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bô, và ông phản ánh quá
trình đó một cách có thứ tự, hệ thống.
Friedrich Hêghen (1770 – 1831) sinh ra trong một gia đình quan chức cao

cấp ở thành phố Stuttgart. Do chịu ảnh hưởng bởi Senlinh mà Hêghen say sưa
nghiên cứu triết học, khi tham gia giảng dạy tại Đạc học Inna, ông đã từng cộng
tác với Senling xuất bản tạp chí “Phê phán triết học”. Hêghen bắt đầu xây dựng
hệ thống triết học duy tâm khách quan trong tác phẩm “hiện tượng luận tinh
thần” và sau đó là rất nhiều tác phẩm có giá trị được xuất bản như Bách khoa
toàn thư các khoa học triết học (gồm 3 quyển: khoa học Logic, triết học tự nhiên
và triết học tinh thần), triết học về lịch sử (1837)… các tác phẩm này đánh sự
phát triển vượt bậc so với tư tưởng của Senlinh và xây dựng nên toàn bộ nội
dung hệ thống triết học mới của mình.
2
1.2. Khái lược về triết học Hêghen
Hêghen cho rằng sự ý thức của con người và lịch sử tự thể hiện tuần tự trong
từng giai đoạn biện chứng cho tới khi đạt đến tuyệt đối, trong đó lý trí, luân lý
đạo đức, tư duy đúng đắn và tính thẩm mỹ của con người được hướng dẫn bởi
một tinh thần siêu hình học toàn diện. Nền tảng tư tưởng của triết học Hêghen
được trình bày trong tác phẩm Hiện tượng luận tinh thần, trong đó ông đã xây
dựng nên nền tảng của triết học mới giúp con người thoát khỏi sự ràng buộc với
hệ thống tư tưởng cũ mà điển hình là tư tưởng của Senling. Tiếp theo, Hêghen đã
hoàn thiện hệ thống tư tưởng của mình một cách chi tiết thông qua bộ Bách khoa
toàn thư các khoa học triết học bao gồm ba quyển là Khoa học logic.
1.2.1. Hiện tượng luận tinh thần
Hiện tượng luận tinh thần lần theo sự phát triển của tinh thần từ chỗ là hiện
tượng ban đầu với tính cách là các tinh thần cá biệt không tự ý thức và không tự
do đến chỗ là tinh thần với tính cách là sự thống nhất tự do và hoàn toàn tự ý
thức. Tiến trình này không thuần túy là tiến trình lịch sử và cũng không thuần túy
là tiến trình logic, mà là sự kết hợp hoàn hảo của cả hai. Điều này cho thấy
Hêghen cố gắng cho thấy lịch sử là một tiến trình của tinh thần theo một con
đường tất yếu về mặt logic, con đường mà nó phải đi để đạt đến mục tiêu cuối
cùng của nó. Đây là một tiến trình biện chứng, qua đó tinh thần luôn vượt qua
những sự mâu thuẫn của chính mình, và sự mẫu thuẫn giữa tính phổ quát cố hữu

và hình thức bị giới hạn của nó, vốn được Hêghen mô tả như là tình trạng tinh
thần bị “tha hóa” khỏi chính mình, nghĩa là người này xem người khác là một cái
gì đó xa lạ, thù địch, ở bên ngoài mình, trong khí trên thực tế họ là bộ phận của
cung một cái toàn bộ to lớn. Tinh thần không thể tự do trong tình trạng bị tha hóa
vì trong trạng thái này nó vấp phải cái đối lập và rào cản trên đường phát triển
hoàn chỉnh chính nó. Tiến trình phát triển biện chứng của tinh thần luôn là tiến
trình hướng đến sự tự do, chính vì thế mà nói là một thiên anh hùng ca triết học
đồ sộ, thực hiện đơn đặt hàng của lịch sử từ chỗ con người mò mẫm ban đầu đến
khi nó nhận ra chính mình như là chủ nhân của vũ trụ và cuối cùng nó đạt đến sự
từ nhận thức và sự tự do.
3
Hêghen đã xây dựng bốn luận điểm nền tảng hệ thống triết học của ông, đó là
thừa nhận tồn tại của ý niệm tuyệt đối, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt
đối, xem ý thức con người là sản phẩm của lịch sử và ông xem triết học là học
thuyết về ý niệm tuyệt đối.
Hêghen thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối, vì theo ông ý niệm tuyệt đối là
điểm xuất phát và nền tảng trong quan niệm về hiện thực góp phần tạo nên giới
tự nhiên và con người. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người
chính là công cụ để ý niệm tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình. Ý niệm
tuyệt đối còn được hiểu như sự hợp nhất giữa thực thể tự nhiên và cái “Tôi tuyệt
đối” tức là tự ý thức, nó là sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và vật
chất, chủ thể và khách thể. Hêghen thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối,
sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tư tưởng và hiện thực là sự phát triển về
chất. Như vậy, Hêghen đã không coi sự phát triển chỉ là sự tăng giảm đơn thuần
về lượng hay sự dịch chuyển vị trí của nó trong không gian mà đó là một quá
trình phủ định biện chứng, trong đó cái mới luôn xuất hiện thay thế cho cái cũ,
nhưng đồng thời cũng thừa kế những yếu tố của cái cũ mà vẫn còn có khả năng
thúc đẩy phát triển.
Trong tác phẩm “Hiện tượng luận tinh thần”, ông thừa nhận ý thức của con
người là sản phẩm của lịch sử. Hêghen xem lịch sửa là hiện thân của ý niệm

tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối. Lịch sử nhân loại mặc dù
được thực hiện thông qua hoạt động của các cá nhân cụ thể, nhưng đồng thời lại
là nền tảng và thực thể của ý thức các cá nhân đó, do đó nhiệm vụ cơ bản của
hiện tượng luận tinh thần là tái diễn lại toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhân loại đã
trải qua. Triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, Hêghen thừa nhận có ba
hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối đó là nghệ thuật, tôn giáo, triết học, và triết
học chính là hình thức thể hiện trọn vẹn, đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối. Triết học
được xem như khoa học của mọi khoa học đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế
giới quan và tư tưởng con người.
Khi hiện tượng luận tinh thần chính là nền tảng của tư tưởng triết học Hêghen
thì bộ Bách khoa toàn thư các khoa học triết học là tác phẩm trình bày chi tiết các
4
tư tưởng của triết gia này, tác phẩm bao gồm ba quyển là khoa học logic, triết
học tự nhiện và triết học tinh thần.
1.2.2. Bách khoa toàn thư các khoa học triết học
Các tác phẩm trong bộ bách khoa toàn thư các khoa học triết học, thể hiện
khá đầy đủ tư tưởng của ông một cách chi tiết và khoa học, trong đó khoa học
logic là một trong những đóng góp quan trọng nhất của hệ thống triết học
Hêghen, còn triết học tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của ý niệm
tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất, và triết học tinh thần lại xem xét ý niệm
tuyệt đối ở giai đoạn cuối cùng từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha hóa và quay
về chính mình như thế nào.
Khoa học logic là bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Khoa học logic đã
xuất hiện từ thời triết học cổ đại với thông qua tư tưởng của Aristote và đến thời
cận đại phát triển thành logic toán gắn liền với tên tuổi của Leibniz. Hêghen phê
phán logic cũ chỉ nghiên cứu tư duy trong trạng thái bất biến, cô lập, không sinh
thành, không biến đổi và không phát triển. Hêghen khởi thảo một logic học mới
giúp vạch ra bản chất đích thực của tư duy và đóng vai trò như một phương pháp
luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học. Trong đó, khoa học logic bao gồm ba
phần là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm.

Luận điểm xuyên suốt toàn bộ logic học là “cái gì hợp lý thì hiện thực và cái
gì hiện thực thì hợp lý”, luận điểm này không chỉ thể hiện lập trường của Hêghen
muốn bảo vệ và duy trì nhà nước quý tộc Phổ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX,
mà còn khái quát nguyên lý xuất phát điểm và nền tảng của toàn bộ hệ thống triết
học, khẳng định tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể trên cơ sở duy tâm, nó
khẳng định sự thống nhất tư duy – tồn tại, tư tưởng và hiện thực là cả một quá
trình biện chứng. Những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu khoa học
logic bao gồm:
- Tính khách quan: là nguyên lý thứ nhất của điểm khởi đầu, nó buộc các nhà
nghiên cứu không được coi xuất phát điểm một cách tùy tiện theo ý muốn chủ
quan của mình, mà phải tuân theo tính khách quan tùy thuộc vào từng đối tượng
nghiên cứu một cách cụ thể.
5
- Đơn giản và trừu tượng nhất: mọi quá trình vận động khách quan đều theo
xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn
thiện hơn, cho nên điểm khởi đầu phải là cái sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất,
trừu tượng nhất. Lần đầu tiên Hêghen coi nguyên lý đi từ trừu tượng đến cụ thể
là một trong những nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm logic học.
- Khẳng định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát triển
thành toàn bộ hệ thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ
thống – đó là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất.
- Khẳng định sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính logic trong việc xác định
điểm khởi đầu, Hêghen coi khoa học logic của mình là sự tổng kết toàn bộ tiến
trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
Triết học tự nhiên, là sự nghiên cứu lý luận giới tự nhiên được hiểu như tồn
tại khách quan của tinh thần hay sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật
chất, thế giới là một chỉnh thể thống nhất trong đó mọi sự vật đều có mối liên hệ
hữu cơ với nhau, không ngừng vận động và phát triển, tuy nhiên, Hêghen chỉ
xem xét thế giới tự nhiên trên quan điểm duy tâm và đây là bộ phận yếu nhất
trong toàn bộ hệ thống triết học của ông. Hêghen chia triết học tự nhiên thành ba

phần:
- Thế giới cơ học: Hêghen đã nghiên cứu, phân tích phạm trù như không gian,
thời gian, vật chất, vận động. Ông đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít không
thể tách rời giữa vật chất và vận động, theo ông “không có vận động nào là vận
động thiếu vắng vật chất và cũng không hoàn toàn giống như không có vật chất
nào là vật chất không vận động”
- Thế giới vật lý học: Hêghen trình bày các quan niệm của ông về các vật thể
của vũ trụ, về ánh sáng, về nhiệt, về các quá trình hóa học… dưới con mắt của
nhà duy tâm.
- Thế giới các cơ thể sinh học, địa chất học, động vật học… theo Hêghen,
việc chuyển từ vô sinh lên hữu sinh là kết thúc của quá trình tự nhiên, tự nhiên
của là tồn tại thấp, là sự biểu hiện và nhận thức ở cấp độ thấp của ý niệm tuyệt
đối. Giới tự nhiên, đối tượng của triết học tự nhiên về bản chất chỉ là một thế giới
6
ngưng đọng không phát triển, sở dĩ chúng như thế này hay thế khác là do sự vận
động và phát triển của ý niệm tuyệt đối quy định.
Triết học tinh thần, Hêghen xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối cùng
trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha
hóa, quay về lại chính mình như thế nào. Triết học tinh thần bao gồm ba phần:
- Tinh thần chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con
người (nhân loại học), sau đó nó thể hiện trong ý thức (hiện tượng học) để phân
biết với cơ thể và cuối cùng nó thể hiện trong tri thức (tâm lý học) hay là cái tinh
thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó.
- Tinh thần khách quan là sự phủ định biện chứng tinh thần chủ quan, thể hiện
tính tự do của ý niệm tuyệt đối trước hết trong pháp quyền, nó lấy tự do ý chí làm
nền tảng lấy ý niệm pháp quyền và việc thực hiện pháp quyền làm đối tượng.
Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong phong hóa, là sự
thể hiện bản tính tự do của ý niệm tuyệt đối trong các hình thức thể hiện là gia
đình, xã hội công dân và nhà nước, trong đó nhà nước là cao nhất.
- Và thứ ba là tinh thần tuyệt đối đây chính là sự thống nhất của tinh thần chủ

quan và tinh thần khách quan, nó thể hiện đầu tiên trong nghệ thuật thông qua
việc đề cao cái đẹp tinh thần, sau đó nó thể hiện trong tôn giáo thông qua việc
thống nhất niềm tin với lý tính, và cuối cùng nó hoàn thiện chính mình trong hệ
thống khái niệm trừu tượng triết học.
Trong triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đa hoàn thành quá trình nhận thức
của mình, đã khám phá ra chính mình, và quay trở về với mình trong học thuyết
về tinh thần tuyệt đối. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối là kết quả tối cao, toàn diện và
triệt để của toàn bộ lịch sử thế giới. Trái lại với triết học tự nhiên, triết học tinh
thần là một thành tựu vĩ đại của triết học Hêghen. Xét về thực chất, đây là học
thuyết duy tâm bàn về sự phát triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự
phát triển trí tuệ, lý tính con người.
7
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
2.1. Những giá trị của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Triết học Hêghen được Plêkhanốp đánh giá: “Chắc chắn sẽ mãi mãi được
dành một trong những địa vị cao quí nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Trong các khoa học mà người Pháp gọi là “khoa tinh thần và chính trị”, không có
một khoa học nào là không chịu ảnh hưởng mãnh liệt và rất phong phú của thiên
tài Hêghen: “Phép biện chứng, logic học, luật học, mỹ học, lịch sử triết học và
tôn giáo - tất cả những khoa học đó đều có một hình thức mới nhờ sự tác động
của Hêghen”. Hêghen là một trong những triết gia vĩ đại nhất lịch sử, ông đã để
lại cho nhân loại toàn thế giới những tư tưởng hết sức tiến bộ, khởi nguồn cho
các triết gia thế hệ sau phát triển và hoàn thiện. Trong các tác phẩm của ông phải
kể đến là Hiện tượng học tinh thần (1807) là nguồn suối tiên khởi cho sự hình
thành học thuyết của Marx, cụ thể là các ý niệm về diễn trình biện chứng và tất
yếu của lịch sử, và về sự tha hóa.
Triết học đề cao và coi tinh thần là cơ sở giải quyết mọi vấn đề lý luận và
thực tiễn. Có thể nói, toàn bộ triết học của Hêghen xoay quanh phạm trù ý niệm
tuyệt đối và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của

ông được trình bày theo kiểu "suy lý ba bước" (tam đoạn luận).
2.1.1. Di sản về ý niệm tuyệt đối
Cho dù là nhà triết học duy tâm nhưng Hêghen đặc biệt đề cao con người,
không hạ thấp con người xuống, đó là điểm sáng của triết học Hêghen. Ông cho
rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu thuẫn bên trong
nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải qua sự phát triển,
thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự phong phú hơn (logic
học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái khác
nó hay là cái tha hoá, đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (tác phẩm triết học về tự
nhiên).
8
Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời sống có ý
thức của cá nhân con người và xã hội loài người và sự hoàn thành sự vận động
của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ thống triết học Hêghen (triết học về tinh
thần). Theo Hêghen, nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà ý niệm
tuyệt đối sử dụng để tự khám phá ra chính mình, để rũ bỏ mọi dấu vết vật chất
bám vào mình nơi trần gian mà quay về với mình, quay về với cái khởi đầu trong
tính toàn vẹn và đầy đủ của nó, trong đó, triết học là quá trình tự nhận thức đầy
đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối. Chính Hêghen khẳng định hoạt động
của con người và nhận thức của con người là chìa khóa để ý niệm tuyệt đối nhận
thức bản thân mình trở về với chính bản thân mình.
2.1.2. Phép biện chứng
Tư tưởng về mối liên hệ phổ biến – mọi cái đều liên hệ lẫn nhau và tư tưởng
về sự phát triển – quá trình phủ định biện chứng là mạch suối ngầm thấm chảy
qua toàn bộ hệ thống triết học Hêghen. Hêghen đã trình bày nhiều vấn đề quan
trọng của phép biện chứng, đặc biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu thuẫn là phổ
biến, là nguồn gốc và cơ sở của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Ông
khẳng định: “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó Mâu
thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong
chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận

động, phải có xung lực và hoạt động”.
Phát triển được Hêghen hiểu như một chuỗi các hành động phủ định biện
chứng, trong đó, cái mới liên tục thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những
yếu tố hợp lý của cái cũ, là quá trình thay đổi thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, bằng cách chuyển qua lại giữa Lượng và
Chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn trong các hình thức cụ thể của ý niệm
tuyệt đối tạo nên.
Từ việc phân tích quá trình tự vận động của ý niệm tuyệt đối, Hêghen đã trình
bày một cách xúc tích, nhưng đầy đủ và rõ ràng các luận điểm cơ bản của phép
biện chứng. Phép biện chứng là một linh hồn uyển chuyển của lôgích học; và
lôgích học là một cơ thể sống động, chứ không phải là tổng những phạm trù sơ
9
cứng. Do là một cơ thể sống động nên lôgích học luôn đào thải những phạm trù
không thể hiện bản chất sống động của tư duy, đồng thời trang bị cho con người
một phong cách tư duy biện chứng để khám phá ra chân lý, để đi đến tự do.
2.1.3. Phép tư duy
Đây là cống hiến vĩ đại của Hêghen cho kho tàng tư tưởng nhân loại. Triết
học Hêghen là cội nguồn của triết học Marx. Hêghen đã tổng kết hầu như toàn bộ
tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi chủ nghĩa với ý nghĩa lịch sử của nó,
bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi giai đoạn, những
mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên một trình độ cao hơn.
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối “suy lý ba bước”, Hêghen đã trình
bày về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa
là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù hợp
với ý niệm…
2.2. Những hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Vốn là triết gia mang tư tưởng biện chứng duy tâm, ngoài những đóng góp vĩ
đại của Hêghen đối với lịch sử triết học, tư tưởng của ông vẫn có một số hạn chế
nhất định đặc biệt là coi nhận thức chỉ là khám phá ra ý niệm tuyệt đối, xem thực
tiễn chỉ là hoạt động tinh thần của chủ thể sáng tạo ra tư tưởng. Đối với Hêghen

không có cái gì gọi là cái đặc thù mà chỉ là cái tổng thể. Ông dựa trên lý trí để
xây dựng những hệ thống bao trùm tất cả, lối suy tư ấy đã giản lược tính đặc thù
của con người vào một hệ thống, hợp lý hoá đời sống theo một khuôn khổ nào đó
đã có sẵn. Đời sống con người trở thành một mắt xích, một bộ phận trong một
toàn thể. Và như vậy, vô tình Hégel đã đã bóp chết cái cá biệt, cái đặc thù và hiện
sinh của từng cá nhân cụ thể trong hoàn cảnh sống của họ.
Phép biện chứng của Hêghen vừa là lý luận biện chứng về sự phát triển của ý
niệm vừa là phương pháp lý luận biện chứng nghiên cứu ý niệm, thông qua phép
biện chứng của ý niệm Hêghen đã đoán được phép biện chứng của sự vật, vì vậy,
nó là phép biện chứng duy tâm. Hêghen lại diễn tả quá trình mâu thuẫn một cách
trừu tượng trong phạm vi tinh thần, và do đó xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt
đối. Quá trình diễn biến tư tưởng trong tinh thần được coi như là một vận động
10
hoàn toàn độc lập và tự túc, tách rời cơ sở thực tế khách quan, thậm chí lại phủ
định thực tế khách quan. Tư tưởng của ông có nhiều yếu tố siêu hình, phản động,
phản khoa học và bảo thủ, và nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Hêghen phủ
nhận sự phát triển trong giới tự nhiên và nhiều thành tựu khoa
học tự nhiên lúc bấy giờ nếu chúng không hợp với ý niệm tuyệt
đối.
Do bản tính duy tâm nên phép biện chứng chứa đầy tính tư
biện, không triệt để và chứa nhiều yếu tố thần bí. Hêghen coi
nhà nước và văn minh Đức là đỉnh cao của ý niệm tuyệt đối trên
trần gian, là đích mà mọi dân tộc phải vươn đến. Đồng thời, theo
quan điểm lịch sử tư tưởng triết học Hêghen cho rằng lịch sử
nhân loại là một quá trình phát triển mà xét về bản chất thì
không thể tìm được đỉnh cao của nó về mặt trí tuệ trong việc
phát hiện ra cái gọi là chân lý tuyệt đối. Nhưng mặt khác, hệ
thống Hêghen lại khẳng định rằng nó là hiện thân của chính
ngay chân lý tuyệt đối ấy. Một hệ thống nhận thức về tự nhiên
và lịch sử bao quát tất cả và hoàn tất một lần là xong vĩnh viễn,

là mâu thuẫn với những quy luật cơ bản của hệ tư duy biện
chứng.
Hêghen coi triết học của mình là đỉnh cao của tư duy triết học
mọi thời đại – ý niệm tuyệt đối đã khám phá ra chính mình từ cái
không phải là mình để quay về với mình do đó tại đây mọi sự
phát triển đều chấm dứt. Ông cho rằng, triết học của ông là
khoa học của mọi khoa học - học thuyết về tinh thần tuyệt đối là
sự tổng hợp toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước
đó, thuộc mọi lĩnh vực nghiên cứu hoạt động tinh thần của con
người.
11
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là một thành tựu vĩ đại của triết học
toàn thế giới. Mặc dù, tư tưởng triết học còn chứa đựng nhiều nhược điểm là mâu
thuẫn giữa phép biện chứng có tính cách mạng với hệ thống duy tâm có tính chất
bảo thủ nhưng triết học của Hêghen thực sự là một hệ thống đồ sộ, kỳ vĩ nhất
trong lịch sử trước Marx nói chung và trong triết học cổ điển Đức nói riêng. Hệ
thống triết học được trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh và nó đã khép lại
một giai đoạn phát triển triết học đầy sôi động, đồng thời mở ra một giai đoạn
cách mạng mới trong lịch sử triết học – giai đoạn gắn tư tưởng triết học với thực
tiễn cách mạng.
Hêghen phê bình một cách rất quả quyết nền triết học từ trước cho tới lúc bấy
giờ. Cho tới thời điểm đó, biện chứng pháp của Hêghen là một đòn tấn công
mạnh mẽ nhất chống lại truyền thống triết học theo khuynh hướng Aristote, một
truyền thống triết học kéo dài mãi cho tới Kant, chủ trương rằng sự nhận thức là
kết quả của sự phán đoán. Nghĩa là sự nhận thức chứa đựng một địa vị ưu thắng
nào đó trong hình thức luận lý học.
Theo thuyết biện chứng của Hêghen thì biểu hiện của thế giới mang dấu ấn
của mâu thuẫn – luận đề và phản luận đề – phát triển tương hỗ trở thành hợp đề.
Các hợp đề này là động lực thúc đẩy “hiện thực khách quan” và vì thế là ‘quyết

định” tương lai, cho đến khi nó không còn chứa đựng mâu thuẫn nữa và được
“bãi bỏ” trong khái niệm của sự tuyệt đối. Đối với nhà triết học duy tâm thì sự
tiến bộ này, tiến bộ mà có tác động đến toàn bộ thế giới vật chất, là một sản
phẩm của trí tuệ con người mà trong sự tự hiểu về chính mình sẽ tương đồng với
“trí tuệ thế giới” tuyệt đối.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006.
2. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu
sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Trường Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh, 2010.
3. Bùi Văn Nam Sơn (dịch và chú giải), Georg Wilhelm Friedrich Hêghen:
Hiện tượng học tinh thần (Phänomenologie des Geistes), NXB Văn học, Hà
Nội, 2006.
Một số thông tin trên website
4. />5. />13

×