Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Hoàn thiện quản lý chi trả chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 122 trang )



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
–––––––––––––––––––––––––––––






TRƢƠNG BÁ UYÊN





HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI TRẢ
CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH PHÚ THỌ







LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ














THÁI NGUYÊN - 2013


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
–––––––––––––––––––––––––––––






TRƢƠNG BÁ UYÊN





HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI TRẢ
CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH. NGUYỄN VĂN CÔNG








THÁI NGUYÊN - 2013
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử
dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu
trong luận văn được tập hợp tại cơ quan Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh Phú Thọ
chưa từng được ai nghiên cứu và công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.


Ngƣời cam đoan



TRƢƠNG BÁ UYÊN










ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình viết luận văn tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các
thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh tế, Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học - Trường Đại
học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên; Ban Giám đốc, các

đồng chí, đồng nghiệp và cán bộ viên chức cơ quan BHXH tỉnh Phú Thọ. Đặc biệt
là sự quan tâm, tận tình hướng dẫn của GS. TS. Nguyễn Văn Công; sự ủng hộ, động
viên của gia đình và bè bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, các quý cơ
quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự giúp đỡ này đã cổ vũ và giúp tôi nhận
thức, làm sáng tỏ thêm cả lý luận và thực tiễn về lĩnh vực mà luận văn nghiên cứu.
Luận văn là quá trình nghiên cứu tâm huyết, sự làm việc khoa học và nghiêm
túc của bản thân, song do khả năng và trình độ có hạn nên không thể tránh khỏi
những sai sót nhất định.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô
giáo và những độc giả quan tâm đến đề tài này.


Tác giả



TRƢƠNG BÁ UYÊN




iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục từ viết tắt trong luận văn vii

Danh mục các bảng viii
Danh mục các sơ đồ ix
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 4
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 5
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu 5
5. Bố cục của luận văn 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ CHI TRẢ CHẾ
ĐỘ BHXH BẮT BUỘC 7
1.1. BHXH và nguyên tắc hoạt động của BHXH 7
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của BHXH 7
1.1.2. Bản chất và chức năng của BHXH 10
1.1.3. Vai trò của BHXH 12
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH 14
1.2. Vai trò và nguyên tắc quản lý chi trả chế độ BHXH 17
1.2.1. Vai trò quản lý chi trả chế độ BHXH 17
1.2.2. Nguyên tắc chi trả các chế độ BHXH 18
1.3. Nội dung quản lý chi trả BHXH bắt buộc 19
1.3.1. Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc 19
1.3.2. Quản lý điều kiện hưởng và mức hưởng BHXH 20
1.3.3. Quản lý việc chi trả chế độ cho người được thụ hưởng 22
1.3.4. Quản lý việc chấp hành các chế độ báo cáo 26
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1.4. Quy trình quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc 27
1.4.1. Phân cấp quản lý chi trả 27

1.4.2. Lập, xét duyệt dự toán chi 30
1.4.3. Tổ chức chi trả 30
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chi trả chế độ bảo hiểm xã hội 34
1.5.1. Nhóm yếu tố về thu 34
1.5.2. Nhóm các yếu tố sinh học 34
1.5.3. Nhóm yếu tố về quản lý tài chính bảo hiểm xã hội 35
1.5.4. Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội 36
1.6. Kinh nghiệm của các nước về chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội và bài học cho
Việt Nam 36
1.6.1. Mô hình tổ chức và hoạt động chi trả chế độ bảo hiểm xã hội 36
1.6.2. Bài học kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã
hội cho Việt Nam 38
Kết luận chương 1 40
Chƣơng 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ CHI TRẢ BHXH
BẮT BUỘC TẠI BHXH TỈNH PHÚ THỌ 41
2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết 41
2.2. Phương pháp nghiên cứu 41
2.2.1. Phương pháp định lượng 41
2.2.2. Phương pháp định tính 41
2.3. Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu 42
2.3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu 42
2.3.2. Phương pháp xử lý dữ liệu 46
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 47
2.4.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả chi trả các chế độ BHXH 47
2.4.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả chi trả các
chế độ BHXH 48
Kết luận chương 2 48
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ CHI TRẢ BHXH BẮT
BUỘC TẠI BHXH TỈNH PHÚ THỌ 49
3.1. Tổng quan về Phú Thọ và BHXH tỉnh Phú Thọ 49
3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Phú Thọ 49
3.1.2. BHXH tỉnh Phú Thọ 50
3.2. Thực trạng quản lý chi trả BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ 55
3.2.1. Tổ chức quản lý đối tượng hưởng và mức hưởng 55
3.2.2. Tổ chức công tác kế hoạch tài chính và chi trả BHXH 57
3.2.3. Tổ chức công tác quản lý chế độ chính sách 64
3.2.4. Tổ chức công tác giải quyết đơn thư khiếu nại 67
3.2.5. Quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc 68
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý chi trả BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ 71
3.3.1. Những thành tựu đạt được 71
3.3.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân 72
Kết luận chương 3 74
Chƣơng 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ BHXH
BẮT BUỘC TẠI BHXH TỈNH PHÚ THỌ 75
4.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của BHXH tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới 75
4.1.1. Định hướng phát triển 75
4.1.2. Mục tiêu phát triển 76
4.2. Một số giải pháp nhằm Hoàn thiện quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại
BHXH tỉnh Phú Thọ 77
4.2.1. Củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện 77
4.2.2. Hoàn thiện công tác cấp sổ BHXH 79
4.2.3. Hoàn thiện quy trình và thủ tục chi trả chế độ BHXH bắt buộc 80
4.2.4. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc81
4.2.5. Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ hoạt động 83
4.2.6. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH 84
4.3. Các điều kiện cần thiết để áp dụng các giải pháp Hoàn thiện quản lý chi trả chế
độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ 86

vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4.3.1. Về phía Nhà nước 86
4.3.2. Về phía BHXH tỉnh Phú Thọ 89
4.3.3. Đối với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương 97
Kết luận chương 4 97
KẾT LUẬN CHUNG 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
PHẦN PHỤ LỤC 105
Phụ lục số 1 : Phiếu khảo sát ý kiến và bảng câu hỏi điều tra 105
Phụ lục số 2: Tổng hợp kết quả khảo sát 110
Phụ lục số 3: Danh mục biểu mẫu, sổ nghiệp vụ sử dụng trong chi trả chế độ BHXH
bắt buộc 111


vii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ASXH
An sinh xã hội
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
ILO

Tổ chức Lao động quốc tế
KCN
Khu công nghiệp
LLVT
Lực lượng vũ trang
MSLĐ
Mất sức lao động
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
NSNN
Ngân sách nhà nước
TNLĐ - BNN
Tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp

viii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số lượng mẫu của các điểm điều tra 45
Bảng 3.1: Kết quả chi trả các chế độ BHXH bắt buộc từ năm 2009 đến năm 2012. 59
Bảng 3.2: Tốc độ phát triển các nguồn tài chính BHXH từ năm 2009 đến năm 2012 59
Bảng 3.3: Tỷ trọng các nguồn chi từ năm 2009 đến năm 2012 60
Bảng 3.4: Kết quả chi trả BHXH bắt buộc từ nguồn NSNN từ 2009 đến2012 61
Bảng 3.5: Kết quả chi trả BHXH bắt buộc từ nguồn quỹ BHXH từ năm 2009
đến năm 2012 63
Bảng 3.6: Kết quả chi trả chế độ ốm đau, thai sản từ năm 2009 đến năm 2012 68

Bảng 3.7: Kết quả chi trả chế độ TNLĐ- BNN từ năm 2009 đến năm 2012 69
Bảng 3.8: Kết quả chi trả chế độ hưu trí, tử tuất từ năm 2009 đến năm 2012 70










ix
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1. Quy trình chi trả các chế độ BHXH hàng tháng 23
Sơ đồ 1.2. Quy trình quản lý đối tượng hưởng các chế độ BHXH hàng tháng 24
Sơ đồ 1.3. Quy trình chi trả các chế độ BHXH 1 lần 25
Sơ đồ 1.4. Quy trình chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức 26
Sơ đồ 1.5. Bộ máy tổ chức của BHXH Việt Nam 29
Sơ đồ 3.1. Bộ máy cơ quan BHXH tỉnh Phú Thọ 54

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là nhu cầu khách quan của người lao động (NLĐ)

xuất hiện trên thế giới hàng trăm năm, được pháp luật của nhiều nước ghi nhận, đã
trở thành một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thừa
nhận ghi vào Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền ngày 10/12/1948 “Tất cả mọi người
với tư cách là một thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH ”, và “ Mọi
người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm
cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ
xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi
già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát
của mình”. [1]
Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu để giúp con người vượt
qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động
như bị ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc
làm, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết, bằng việc lập các quỹ BHXH từ sự
đóng góp của các bên tham gia BHXH và Nhà nước để trợ giúp cho họ khi gặp các
rủi ro trên. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội
(ASXH) của mỗi quốc gia, của mọi thể chế nhà nước và được thực hiện ở hầu hết
các nước trên thế giới.
Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách
có tính nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với cuộc sống con
người. Đảng và Chính phủ đã luôn quan tâm đến việc hình thành và phát triển chính
sách BHXH. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta xác định
“BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần bảo đảm ổn định
đời sống cho NLĐ, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc”. [2]
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, kể từ khi giành
được chính quyền cho đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về chính sách
BHXH. Chế độ chính sách BHXH đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiều lần bổ sung,

sửa đổi và cải tiến, từng bước phát triển thành một hệ thống chế độ BHXH tương
đối hoàn chỉnh. Đặc biệt, Luật BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có một bộ
luật về BHXH, đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng có ý nghĩa hết sức to lớn trong
việc thực hiện chính sách BHXH ở nước ta.
Đến nay, chính sách BHXH mới theo nguyên tắc “có đóng góp thì mới được
thụ hưởng các chế độ BHXH” đã đi vào cuộc sống và đã phát huy tác dụng tích cực
nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn thu nhập cho đông đảo NLĐ khi gặp rủi ro, ốm
đau, tai nạn lao động, khi về già Chính sách BHXH đã góp phần tích cực vào sự
ổn định chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước những
năm qua.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với
những quan hệ lao động phong phú đa dạng và phức tạp đã gây không ít khó khăn
cho việc thực hiện chính sách BHXH. Chính vì thế mà chính sách BHXH luôn cần
được nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện. Mặt khác, sau 6 năm thực hiện luật
BHXH (từ 01/01/2007 đến nay) cũng đã xuất hiện những vấn đề chưa phù hợp đòi
hỏi phải tổng kết thực tiễn để sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.
Xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước ta hiện nay với tốc độ công
nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh, lao động tham gia BHXH ngày càng đông, số đối
tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH nhiều, số tiền chi trả trợ cấp hàng tháng
ngày càng tăng lên .… Đồng thời, BHXH là chính sách xã hội rất đa dạng, phong
phú và có liên quan đến mọi NLĐ cũng như gia đình họ. Thời gian tham gia BHXH
lại rất dài, luôn chiếm khoảng 3/4 cuộc đời của mỗi con người. Hơn nữa, chính sách
BHXH và tổ chức thực hiện BHXH lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có cả yếu tố
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật và lịch sử văn hoá… Bởi vậy, việc thực hiện tốt

các chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc ổn định việc làm, thu nhập của NLĐ và gia đình họ, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ASXH.
Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ là cơ quan trực thuộc hệ thống BHXH Việt
Nam, có chức năng giúp Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam thực hiện các chế độ,
chính sách BHXH, Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và quản
lý quỹ BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Với địa bàn quản lý phức
tạp do điều kiện địa lý là một tỉnh trung du miền núi, dân cư của một số huyện miền
núi sống phân tán, không tập trung; mặt khác xét về điều kiện kinh tế chung của đất
nước, đang trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, các cụm, KCN xuất hiện trên
địa bàn tỉnh ngày càng nhiều, do đó số lượng các doanh nghiệp đặc biệt là các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, càng đa dạng. Đó cũng là
một trong những thách thức đối với cơ quan BHXH tỉnh trong việc quản lý thu và
thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho NLĐ.
Trong nhiều năm qua việc quản lý chi trả chế độ BHXH đã đạt được những
thành tựu quan trọng, số đơn vị sử dụng lao động và số người tham gia BHXH
không ngừng tăng lên. Mọi chế độ liên quan đến quyền lợi của NLĐ như lương hưu
và các khoản trợ cấp BHXH luôn được thực hiện kịp thời, đầy đủ, an toàn giúp
NLĐ yên tâm làm việc, nâng cao chất lượng sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Phú Thọ. Có thể nói việc thực thi các chính sách BHXH tại BHXH
tỉnh Phú Thọ đã được triển khai và thực hiện khá tốt, có nhiều đổi mới trong việc
quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc quản lý chi trả các chế
độ tại bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ còn gặp khó khăn và có những tồn tại nhất
định. BHXH tỉnh Phú Thọ đã tổ chức thực hiện việc phân cấp quản lý chi trả chế độ
cho người thụ hưởng về tuyến huyện song do điều kiện cơ sở vật chất chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn, khối lượng công việc của ngành ngày
càng lớn mà số lượng cán bộ có năng lực còn hạn chế, tình trạng quá tải công việc
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


đã xảy ra tại một số đơn vị BHXH các huyện, thành thị khiến công tác quản lý gặp
nhiều khó khăn. Điều đó dẫn đến việc khai thác tiềm năng phát triển chính sách
BHXH nói riêng, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ nói chung
bị hạn chế. Bên cạnh đó, do còn có những điểm chưa hợp lý trong việc quản lý chi
trả chế độ BHXH nên đã chưa tạo điều kiện tối đa cho NLĐ tham gia BHXH và thụ
hưởng các chính sách BHXH… Trong khi đó, Việt Nam đang hội nhập ngày càng
sâu rộng với nền kinh tế thế giới, thị trường lao động ngày càng phát triển, các quan
hệ lao động cũng ngày càng trở nên phức tạp. Người lao động và chủ sử dụng lao
động phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Thực tế đó đòi hỏi việc quản lý chi trả chế
độ BHXH phải tiếp tục được hoàn thiện và đổi mới mạnh hơn nữa, việc nghiên cứu
và đưa ra những giải pháp hoàn thiện là hết sức quan trọng với yêu cầu của thực
tiễn. Điều đó cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quản lý chi trả
chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ” để nghiên cứu
làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đề tài là tìm ra giải pháp phù hợp để hoàn
thiện quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc, đề ra các giải pháp và biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
Từ mục tiêu cơ bản đó các mục tiêu nghiên cứu chính được xác định là:
- Làm rõ bản chất và vai trò của quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc;
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ;
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình tham gia và thụ hưởng các chế
độ BHXH của đối tượng và người lao động;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi trả các chế độ
BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc. Với đối tượng

này đề tài đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tiến hành khảo sát thực
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

trạng quản lý chi trả BHXH bắt buộc cùng với việc đề xuất giải pháp Hoàn thiện
quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến lý luận và
thực tiễn công tác chi trả các chế độ BHXH bắt buộc, không bao gồm BHXH tự
nguyện, BHYT và hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Về không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại khu vực Thành phố
Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ. Trong đó, tập trung vào một số doanh nghiệp tại KCN
Thụy Vân, từ đó suy rộng ra cả địa bàn nghiên cứu.
- Về thời gian: Đề tài thực hiện dựa vào thu thập tài liệu có liên quan đến
nội dung nghiên cứu từ năm 2009 đến năm 2012. Thông qua việc phân tích dữ
liệu thu thập được để chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại từ đó đưa ra giải pháp
nhằm Hoàn thiện quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú
Thọ trong thời gian tới.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
- Thông qua đề tài nghiên cứu, tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận
cơ bản về quản lý chi trả các chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích và đánh giá một cách khách quan thực trạng công tác chi trả chế
độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú thọ, từ đó nêu lên những kết quả đạt được,
những vấn đề còn tồn tại và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi trả
các chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và khách quan tác động
tới quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất các giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp Hoàn thiện quản lý
chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
5. Bố cục của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, phụ lục,… Kết cấu luận
văn được chia thành 4 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc
tại BHXH tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại
BHXH tỉnh Phú Thọ.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện quản lý chi trả chế độ BHXH bắt buộc tại
BHXH tỉnh Phú Thọ.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
CHI TRẢ CHẾ ĐỘ BHXH BẮT BUỘC
1.1. BHXH và nguyên tắc hoạt động của BHXH
1.1.1. Tính tất yếu khách quan của BHXH
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt
nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra. Từ thời xa xưa, để chống lại những
rủi ro, thiên tai của cuộc sống con người đã biết đoàn kết tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường là
trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có
sự phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với
nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi
đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng
thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau

trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này
đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người
nông dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng
nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì
lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ sống
không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm,
ốm đau, tai nạn lao động đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết
tương thân tương ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp
đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá trình sản
xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích
thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải
chu cấp cho NLĐ thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động,
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

mất việc Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với những đòi hỏi đảm
bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của mỗi nước.
Trước tình cảnh đó Chính phủ mỗi nước không thể không quan tâm đến tình cảnh
của NLĐ. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc
sống của NLĐ dần được quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp
các địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi
ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham
gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới. BHXH
ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao
động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952.
Bảo hiểm xã hội bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1930 của thế
kỷ XX. Các chế độ trợ cấp đầu tiên cho quân nhân và viên chức làm việc trong bộ
máy hành chính và KCN của Pháp ở đông Dương là ốm đau, già yếu hoặc chết. Tuy

nhiên, đối với công nhân Việt Nam, gần như chính quyền Pháp phủ nhận quyền lợi
BHXH của họ. điển hình là công nhân làm việc trong các đồn điền, các nhà máy…
bị ốm đau bệnh tật hay chết đều không được hưởng chế độ chữa bệnh, mai táng…
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm và
thực hiện chính sách BHXH đối với NLĐ thông qua một loạt các sắc lệnh: Sắc lệnh
số 54 ngày 03/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời quy định những căn cứ,
điều kiện để các công chức Nhà nước được hưởng chế độ hưu trí; Sắc lệnh số 105
ngày 14/06/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ấn định việc cấp
hưu bổng cho công chức Nhà nước; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong đó có quy định cụ thể về các chế độ
thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, trợ cấp hưu trí và tiền tuất đối với công
chức Nhà nước Như vậy, trong thời kỳ này, đối tượng tham gia và hưởng các chế
độ BHXH chỉ gồm hai đối tượng là công chức Nhà nước và công nhân, các chế độ
BHXH áp dụng gồm trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, mất sức lao động,
hưu trí và tử tuất. Sau khi hoà bình lập lại trên Miền Bắc, ngày 27/12/1961, Chính
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

phủ ban hành Nghị định 218/CP về "Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH
đối với công nhân viên chức”. Hệ thống chế độ BHXH ở Việt Nam lúc này bao
gồm: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp TNLĐ và BNN,
chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp MSLĐ và chế độ trợ cấp tử tuất. Chính sách
BHXH ban hành kèm theo Nghị định 218/CP có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo ổn định đời sống cho NLĐ, thu hút và động viên hàng triệu lao động tham gia
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chính sách BHXH đã không còn phù hợp. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ
đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho
các thành phần kinh tế, đánh dấu bước đổi mới quan trọng của BHXH ở Việt Nam.
Theo Nghị định 43/CP, chế độ trợ cấp MSLĐ đã bị loại bỏ và chỉ thực hiện 5 chế độ

còn lại. Trong thời gian này, BHYT Việt nam ra đời theo Nghị định 299/HĐBT
ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). BHYT thực chất là
một nhánh của BHXH tách ra, nhưng ở Việt Nam BHYT vẫn mới mẻ đối với NLĐ
nói riêng và dân cư nói chung. Do chưa có kinh nghiệm nên hoạt động BHYT phải
vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tuy vậy, BHYT ra đời đã thể hiện được vai trò của
mình thông qua việc chăm sóc, hồi phục sức khỏe cho người dân và góp phần đảm
bảo công bằng xã hội.
Sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách BHXH lại được
Đảng và Nhà nước tiếp tục sửa đổi và bổ sung. Những nội dung cơ bản về BHXH
thể hiện ở Bộ luật Lao động được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá IX
ngày 23/06/1994 [10]. Trên cơ sở những quy định của Bộ luật Lao động, ngày
26/01/1995, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP.
Đồng thời, ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập hệ
thống BHXH Việt Nam [4].
Theo thời gian, các văn bản pháp quy về BHXH được ban hành, sửa đổi và
bổ sung làm cho BHXH ngày càng được hoàn thiện, chẳng hạn: Nghị định của
Chính phủ số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP; Nghị định của
Chính phủ số 208/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 về việc điều chỉnh lương hưu và
trợ cấp BHXH Năm 2006, sự phát triển của BHXH được đánh dấu bằng cột mốc
quan trọng, đó là Luật BHXH được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2007 [11]. Riêng đối với BHXH tự nguyện thực hiện từ ngày
01/01/2008 và BHTN thực hiện từ 01/01/2009. Để cụ thể hoá Luật BHXH, Chính
phủ ban hành Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số
điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc; Quyết định số 41/2007/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 29/03/2007 về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam…
Như vậy, BHXH Việt Nam được hình thành và đã có hành lang pháp lý vững

chắc để tổ chức triển khai mọi hoạt động của mình. Chính sách của Nhà nước Việt
Nam đối với BHXH là khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham
gia BHXH ngày càng đông đảo.
1.1.2. Bản chất và chức năng của BHXH
Bảo hiểm xã hội là phạm trù kinh tế xã hội tổng hợp, là một trong những
chính sách kinh tế xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó thể hiện trình độ văn
minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia.
Bảo hiểm xã hội là hình thức bảo hiểm thu nhập cho NLĐ, là sản phẩm tất
yếu khách quan của xã hội phát triển. Khi kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng
và hoàn thiện. Vì thế có thể khẳng định sự phát triển kinh tế là nền tảng của BHXH.
Bảo hiểm xã hội là hình thức dịch vụ công để quản lý và đáp ứng nhu cầu
chia sẻ rủi ro trong cộng đồng. Những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm trong BHXH diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động, có thể là
những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau,
TNLĐ và BNN hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn
ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản
Bảo hiểm xã hội vừa thực hiện các mục đích xã hội, vừa thực hiện các mục
đích kinh tế. Cả hai mục đích này luôn được thực hiện đồng thời, đan xen lẫn nhau
và là hai mặt không thể tách rời nhau. Khi đề cập đến các lợi ích kinh tế của BHXH
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

đối với NLĐ và đối với xã hội là đã bao hàm cả mục đích xã hội của nó. Ngược lại,
các mục đích xã hội của BHXH cũng chỉ đạt được khi nó đồng thời mang lại các lợi
ích kinh tế thiết thực cho người tham gia.
Bảo hiểm xã hội là quyền cơ bản của NLĐ. Bởi vì, mục tiêu của BHXH là
nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ trong trường hợp bị giảm hoặc
mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được ILO cụ thể hoá, đó là: đền bù cho
NLĐ những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ;
chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật; xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu

của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với
những mục tiêu đó, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10
tháng 12 năm 1948: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và
văn hoá cần thiết cho nhu cầu về nhân cách và sự tự do phát triển con người".
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của
NLĐ khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất
việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tạm thời hay dài hạn thì mức
trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ,
tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH bao gồm NLĐ và NSDLĐ, cả hai đối tượng này
cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho NLĐ khi gặp
phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân phối lại thu
nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa NLĐ khoẻ mạnh với NLĐ ốm đau, già
yếu , giữa những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập
thấp phải đóng ít. Như vậy, với chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực
hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà NLĐ luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc, nâng
cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu trước đây,
sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp
đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này
giúp gắn bó mối quan hệ giữa NLĐ và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ
đối với xã hội.
Trong thực tế giữa NLĐ và NSDLĐ có những mâu thuẫn nội tại, khách quan

về tiền lương, tiền công, thời gian lao động BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã
điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là
mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, NLĐ thì được đảm bảo cuộc sống,
NSDLĐ thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà
nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn
về đời sống của NLĐ và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
1.1.3. Vai trò của BHXH
Bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò
của mình trên nhiều phương diện khác nhau trong thực tế cuộc sống cũng như trong
phát triển kinh tế - xã hội.
- Đối với NLĐ:
Bảo hiểm xã hội đã trực tiếp góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia
đình họ khi họ gặp rủi ro vì bị ốm đau, bệnh tật, già yếu hoặc chết,… Đồng thời,
BHXH cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó
khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro trong lao động sản xuất và trong đời
sống NLĐ được hạn chế và dàn trải. Hậu quả của rủi ro được bù đắp kịp thời.
Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi dùng cá nhân,
giúp họ tiết kiệm những khoản tiền nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi
dùng khi già cả hay MSLĐ… Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là
nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ
ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già… Nhờ có BHXH,
cuộc sống của những thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người
tàn tật, goá bụa… cũng được đảm bảo an toàn hơn.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Đối với NSDLĐ:
Mặc dù phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định cho NLĐ
mà mình sử dụng, ít nhiều gây ảnh hưởng đến thu nhập của họ, song về lâu dài, điều
đó lại giúp họ đảm bảo nguồn nhân lực, ổn định phát triển sản xuất kinh doanh. Nếu

không có BHXH, các đơn vị sử dụng lao động trả tiền bảo hiểm cùng với tiền lương
hàng tháng để NLĐ tự lo thì nguồn tiền này có thể bị sử dụng vào những nhu cầu,
những mục đích khác. Đến khi NLĐ ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập,
không có chi phí thuốc men…, đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động,
chất lượng lao động sẽ bị ảnh hưởng. Qua việc phân phối chi phí cho NLĐ hợp lý,
BHXH sẽ góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản xuất
diễn ra liên tục, hiệu quả, các bên trong quan hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn.
Bảo hiểm xã hội còn làm cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không chỉ
khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời họ. Nếu không tham gia
BHXH bắt buộc thì nhiều khi chỉ vì những khoản lợi trước mắt mà NSDLĐ cắt xén
quyền lợi, vô trách nhiệm với NLĐ.
Bảo hiểm xã hội còn giúp cho NSDLĐ ổn định nguồn chi, ngay cả khi có rủi
ro lớn xảy ra thì cũng không lâm vào tình trạng nợ nần hay phá sản. Nhờ đó, các chi
phí được chủ động hạch toán, ổn định và tạo điều kiện để phát triển không phụ
thuộc nhiều vào hoàn cảnh khách quan. Tuy nhiên, BHXH hầu như không mang lại
các lợi ích trực tiếp nên không phải bao giờ NSDLĐ cũng nhận thức đúng được vai
trò của nó.
- Đối với nền kinh tế - xã hội:
Trước tiên, BHXH tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã
hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Điều
đó đã thúc đẩy sự ra đời và trở thành lý do tồn tại của BHXH. Tuy không nhằm mục
đích kinh doanh, kiếm lời nhưng BHXH là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ
dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế
- xã hội. Thông qua BHXH, những rủi ro trong đời sống của NLĐ được dàn trải
theo nhiều chiều, tạo ra khả năng giải quyết an toàn nhất, với chi phí thấp nhất.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Mặt khác, BHXH còn thu hút một lực lượng lao động đáng kể và tạo thêm
công ăn việc làm cho NLĐ, điều này làm giảm bớt tình trạng lao động bị thất

nghiệp trong xã hội. Về phương diện tâm lý, bảo hiểm còn là chỗ dựa tinh thần cho
những bên tham gia, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong lao động và hoạt động
sản xuất kinh doanh, góp phần đảm bảo ASXH.
Là một hợp phần cơ bản và quan trọng nhất trong hệ thống ASXH, BHXH là
cơ sở để phát triển các bộ phận ASXH khác. Chính phủ các nước thường căn cứ vào
mức độ bao phủ của chính sách BHXH để xác định những đối tượng nào còn gặp
khó khăn, cần cộng đồng chia sẻ nhưng chưa được tham gia BHXH để thiết kế
những mạng lưới khác của ASXH như: cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội… Trên cơ sở
đó, BHXH là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro của từng quốc gia và mức
độ đảm bảo ASXH đạt được ở mỗi nước.
Hoạt động BHXH còn góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị
trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt, với bảo hiểm hưu
trí, nguồn vốn tích luỹ trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có thể đầu tư vào
các hoạt động nhằm tăng trưởng quỹ BHXH, mang lại lợi ích cho tất cả các bên:
người tham gia BHXH, cơ quan BHXH và nền kinh tế xã hội nói chung.
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc có đóng, có hưởng, chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của
người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH: Đây là nguyên
tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm, là quỹ góp chung của số đông bù cho số
ít, là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong
BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn
có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
- Mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải
đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó: Việc quy định
trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp

×