Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 159 trang )



1





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG




NCS. ĐỖ HOÀI NAM






CHÍNH SÁCH THU HÚT CÔNG NGHỆ
NƢỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM




TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Mã số: 62. 31. 07. 01





Hà Nội, 2011








2






MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 8
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án 10
4. Tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 12
6. Đóng góp của Luận án 12
7. Bố cục của Luận án: 12
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH
SÁCH THU HÚT CÔNG NGHỆ NƢỚC NGOÀI 14
1.1. Công nghệ và chuyển giao công nghệ 14

1.1.1 Công nghệ (Technology) 14
1.1.2. Quản lý công nghệ 18
1.1.3. Đổi mới và phát triển công nghệ 20
1.1.4. Chuyển giao công nghệ 21
1.2. Chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài trong Chiến lƣợc phát triển khoa
học và công nghệ quốc gia 27
1.2.1. Chính sách thu hút công nghệ và phát triển công nghệ quốc gia 28
1.2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách thu hút công nghệ
nước ngoài 31
1.2.3. Tính tất yếu khách quan phải có chính sách thu hút chuyển giao công nghệ
nước ngoài vào Việt Nam 43
1.3 Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới về thu hút công nghệ nƣớc ngoài 49
1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 49
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 54
1.3.3. Kinh nghiệm thu hút công nghệ nước ngoài của Nhật Bản 62
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ CHÍNH SÁCH THU HÚT CÔNG NGHỆ
NƢỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 69
2.1. Thực trạng thị trƣờng công nghệ Việt Nam trong những năm qua 69
2.2. Thực trạng thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam trong những năm qua
90
2.2.1. Thực trạng thu hút CGCN nước ngoài vào Việt Nam qua kênh đầu tư trực
tiếp nước ngoài 90
2.2.2. Thực trạng thu hút CGCN vào Việt Nam qua các dự án đầu tư hoàn toàn
bằng vốn trong nước và vốn vay nước ngoài (kênh trực tiếp mua công nghệ nước
ngoài) 108
2.3. Thực trạng môi trƣờng pháp lý hiện hành cho hoạt động chuyển giao công nghệ
nƣớc ngoài vào Việt Nam 112
2.4. Thực trạng chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam hiện nay
117
2.4.1. Chính sách về công nghệ và CGCN chưa phù hợp với yêu cầu của xu thế hội

nhập kinh tế quốc tế 117


3





2.4.2. Thực tiễn quản lý Nhà nước trong lĩnh vực CGCN còn nhiều bất cập 123
2.4.3. Thực tiễn CGCN cho đến nay còn nhiều điểm bất cập: 125
CHƢƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
THU HÚT CÔNG NGHỆ NƢỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI 128
3.1. Những định hƣớng lớn về chính sách chuyển giao công nghệ trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế trong chiến lƣợc phát triển Khoa học và Công nghệ Việt
Nam đến 2020. 128
3.1.1. Quan điểm cơ bản của Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ Việt
Nam đến 2020. 128
3.1.2. Các hướng công nghệ trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội làm cơ
sở cho chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt nam 129
3.2 Khuyến nghị việc hoàn thiện những nội dung của chính sách phát triển công
nghệ quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 136
3.3. Khuyến nghị việc đổi mới chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam trong thời gian tới (thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua mua bán thiết
bị, máy móc có chứa đựng công nghệ và qua các kênh khác, ) 139
3.3.1. Hệ thống các pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ phải tiếp tục
được hoàn thiện và thể hiện rõ : 139
3.3.2. Đổi mới các nguyên tắc ứng xử với đầu tư nước ngoài 141
3.3.3. Khuyến khích hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu

khoa học. Khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho việc thành lập các cơ sở nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ nước ngoài ở Việt Nam 142
3.3.4. Triệt để khai thác và tận dụng hiệu quả các công nghệ tiền tiến và kinh
nghiệm quản lý qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật và dự án đầu tư bằng nguồn vốn phát
triển chính thức - ODA 142
3.3.5. Hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện cho các nhà khoa học, các chuyên gia kỹ
thuật trong mọi lĩnh vực, không phân biệt thành phần kinh tế, tham gia các hội
nghị, hội thảo quốc tế , trao đổi học thuật, giao lưu với cộng đồng khoa học và công
nghệ quốc tế 143
3.3.6. Xây dựng hệ thống thông tin công nghệ quốc gia để có thể đảm nhận tốt các
vai trò tình báo công nghệ, thu thập, phân tích và dự báo các thành tựu công nghệ,
đảm bảo cung cấp các thông tin thiết thực cho đổi mới, mua bán công nghệ của
các cơ sở nghiên cứu và sản xuất trong nước 144
3.4 Các giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài
vào Việt Nam 144
3.4.1 Giải pháp hoàn thiện các văn bản pháp luật 144
3.4.2 Giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý nhập khẩu công nghệ
mới, công nghệ cao đến năm 2020. 146
3.4.3 Giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập
khẩu công nghệ mới, công nghệ cao, cụ thể: 146
3.4.4 Giải pháp đổi mới và hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp nhận và
làm chủ công nghệ mới, công nghệ cao, bao gồm: 147
3.4.5 Xây dựng kế hoạch chi tiết để thực hiện thành công chiến lược phát triển công
nghệ quốc gia 147
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐƢỢC CÔNG BỐ 151


4






TÀI LIỆU THAM KHẢO 152


5





DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
- Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt bằng tiếng Việt
VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT
CGCN
Chuyển giao công nghệ
CNSH
Công nghệ sinh học
CNTT-TT
Công nghệ thông tin-truyền thông
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
KH&CN
Khoa học và Công nghệ
MITI
Bộ Thƣơng mại và Công nghiệp quốc tế
QLNN

Quản lý Nhà nƣớc
- Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt bằng tiếng Anh
VIẾT TẮT
TIẾNG ANH
TIẾNG VIỆT
ESCAP
Economic and Social Commission for
Asia and the Pacific
Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực
Châu Á-Thái Bình Dƣơng
EU
Europe Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
OECD
Organization Economic Cooporation
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D
Research and Development
Nghiên cứu và Phát triển
S&T
Science and Technology
Khoa học và Công nghệ
WB

World Bank
Ngân hàng thế giới
UNIDO
United Nations Industrial
Development Organization
Tổ chức Phát triển của Liên hợp quốc
UNCTAD
United Nations Conference on Trade
and Development
Hội nghị phát triển thƣơng mại quốc tế
của Liên hợp quốc


6





DANH MỤC BẢNG, BIỂU


Tên bảng, biểu
Trang
Bảng 1.1
Nhập khẩu trang thiết bị công nghệ của Trung Quốc những năm 50
49
Bảng 1.2
Số lƣợng nhập khẩu công nghệ mới của Trung Quốc
50

Bảng 1.3
Chuyển giao công nghệ quốc tế
52
Bảng 1.4
Số vụ nhập công nghệ qua các năm
53
Bảng 1.5
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
54
Bảng 1.6
Tình hình các ngành nhập công nghệ
54
Bảng 1.7
Con đƣờng học tập công nghệ mới và công nghệ nƣớc ngoài của các
doanh nghiệp Hàn Quốc
55
Bảng 1.8
Quy mô tƣơng đối của du nhập công nghệ
57
Bảng 1.9
Loại hình công nghệ tiếp nhận
58
Bảng 1.10
Xu hƣớng trong chuyển giao công nghệ ở Hàn Quốc
59
Bảng 2.1
Tình hình chào bán công nghệ, thiết bị ở một số Techmart
71
Bảng 2.2
Số lƣợng các đơn vị tham gia một số Techmart

72
Bảng 2.3
Số liệu thống kê của các kỳ Techmart khu vực và quốc gia
73
Bảng 2.4
Phân loại các doanh nghiệp theo trình độ công nghệ
74
Bảng 2.5
Những nguyên nhân khiến thị trƣờng công nghệ ở Việt Nam chƣa
phát triển
82
Bảng 2.6
Bằng độc quyền sáng chế đã đƣợc cấp từ 1981-2009
83
Bảng 2.7
Bằng độc quyền giải pháp hữu ích đã đƣợc cấp từ 1990 -2009
84
Bảng 2.8
Giấy chứng nhận đăng ký NHHH đã đƣợc cấp từ 1982-2009
85
Bảng 2.9
Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý dã đƣợc cấp từ 2001-2009
86
Bảng 2.10
Số lƣợng hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tƣợng SHCN từ
1995-2009
87


7






Bảng 2.11
Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010
89
Bảng 2.12
Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010 theo hình thức đ.tƣ
92
Bảng 2.13
Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến tháng 7/2010 phân theo các nƣớc
và vùng lãnh thổ
93
Bảng 2.14
Số Hợp đồng CGCN đã đƣợc phê duyệt, đăng ký đến tháng 8/2010
97
Bảng 2.15
Số Hợp đồng đƣợc phê duyệt theo lĩnh vực, ngành kinh tế đến năm
2005
99
Bảng 2.16
Số Hợp đồng đƣợc phê duyệt theo nƣớc chuyển giao đến 2005
100
Bảng 2.17
Số Hợp đồng CGCN đƣợc đăng ký theo lĩnh vực
101
Bảng 2.18
Số Hợp đồng CGCN đã đăng ký theo nƣớc

102



8





PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, khoa học và công nghệ không chỉ là lực lƣợng sản xuất trực tiếp,
mà còn là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trung ƣơng lần
thứ 2 Khoá VIII đã nêu rõ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về phát triển khoa
học và công nghệ: "Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ".
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, để đổi mới và nâng cao trình độ
công nghệ của từng ngành và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đối với một nƣớc
đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế nhƣ Việt Nam, trong những năm tới chủ
yếu phải dựa vào việc nhập các công nghệ tiên tiến từ các nƣớc phát triển nhằm
tranh thủ và tận dụng lợi thế của nƣớc đi sau, tiết kiệm chi phí R & D trong điều
kiện đất nƣớc còn có nhiều khó khăn về nguồn vốn cho phát triển và có thể tiếp cận
ngay đƣợc những công nghệ hiện đại, tiên tiến trên thế giới mà trong nƣớc chƣa có.
Trong những năm qua, đồng thời với việc ban hành và thực hiện các chính
sách đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nƣớc ta đã chú trọng đến việc thu hút công nghệ
từ nƣớc ngoài và đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ của đất nƣớc. Cùng với Luật
Đầu tƣ (2005) (trƣớc đó là Luật đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam ban hành tháng 12
năm 1987 đƣợc sửa đổi, bổ sung nhiều lần), các văn bản quy phạm pháp luật về

khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ cũng đã đƣợc ban hành: Luật Khoa
học và công nghệ (2000), Luật Sở hữu trí tuệ ( 2005), Luật Chuyển giao công nghệ
(2006), Luật công nghệ cao (2008) v.v…
Tuy nhiên, hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công
nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam nói riêng thời gian qua vẫn chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong bối cảnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Trình độ công nghệ trong các ngành kinh tế kỹ
thuật chuyển biến chậm. Hàm lƣợng công nghệ trong các sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ đặc biệt là các hàng hóa xuất khẩu còn thấp. Năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp chậm đƣợc nâng cao. Một trong những nguyên nhân làm cho hoạt


9





động chuyển giao công nghệ chƣa thực sự đƣợc đẩy mạnh là do hệ thống các chính
sách về chuyển giao công nghệ và thu hút công nghệ chƣa đồng bộ, còn nhiều bất
cập, mức độ tác động còn hẹp và hiệu quả thực hiện chƣa cao. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra là cần nghiên cứu một cách hệ thống, cả lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực
trạng chuyển giao công nghệ nói chung và đặc biệt chuyển giao công nghệ từ nƣớc
ngoài vào Việt Nam nói riêng, phân tích, làm rõ nguyên nhân của các hạn chế từ
khía cạnh chính sách. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục đẩy
mạnh việc thu hút công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, góp phần thực hiện
thành công mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, thu hẹp dần khoảng
cách công nghệ giữa nƣớc ta với các nƣớc trong khu vực trên thế giới.
Luậ n á n “Chính sách thu hút công nghệ nước ngoài vào Việt Nam” đƣợc
thực hiện nhằm giải quyết vấn đề đặt ra này.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục tiêu của Luận án
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận, đồng thời phân tích, đánh giá thực
trạng chính sách thu hút công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, phân tích nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu đổi mới, phát triển công nghệ của các ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là các hƣớng công nghệ ƣu tiên, Luận án đề xuất hệ thống đồng
bộ các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, hoàn thiện chính sách thu hút công nghệ từ
nƣớc ngoài vào Việt Nam. Trên cơ sở đó, hình thành các chính sách đủ mạnh, có
tính thực thi cao, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo môi trƣờng thuận lợi, thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ, thu hút đƣợc công nghệ tiên tiến
của nƣớc ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2015.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
- Nghiên cứu và phát triển cơ sở lý luận liên quan đến chuyển giao công
nghệ và chính sách thu hút công nghệ từ nƣớc ngoài.
- Đánh giá thực trạng chuyển giao công nghệ thông qua đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài tại Việt Nam thời gian qua, đặc biệt từ khi thực hiện chính sách đổi mới, phân


10





tích các nguyên nhân thành công và chƣa thành công về mặt chính sách đối với hoạt
động thu hút chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Trên cơ sở phân tích xu thế phát triển khoa học và công nghệ, các xu hƣớng
phát triển của các tập đoàn, các Công ty xuyên quốc gia trên thế giới, đánh giá nhu
cầu phát triển công nghệ của Việt Nam, kết hợp với việc tìm hiểu kinh nghiệm về
chính sách chuyển giao công nghệ của một số nƣớc, Luận án kiến nghị hệ thống các

giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút chuyển giao công nghệ trong
đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam và thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Đối tƣợng nghiên cứu là chính sách thu hút công nghệ từ nƣớc ngoài vào
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận án tập trung vào việc phân tích các chính
sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam và các kênh khác nhau từ khi thực hiện chính sách đổi
mới đến nay.
4. Tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án
Ở nƣớc ngoài, hầu hết các nghiên cứu chỉ đề cập tới chính sách phát triển
công nghệ và chuyển giao công nghệ, hầu nhƣ rất ít công trình chuyên nghiên cứu
chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài. Đáng chú ý nhất trong số các công trình
đã đƣợc công bố (có dịch sang Tiếng Việt) là cuốn “Phát triển công nghệ và chuyển
giao công nghệ ở Châu Á” (Nhà xuất bản Bunshindo, Nhật bản) của tác giả Lâm
Trác Sử. Các tác giả chủ yếu phân tích các mô hình và chính sách phát triển công
nghệ nói chung của một số các quốc gia Đông Á, điển hình nhất là mô hình Trung
Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Công trình nghiên cứu “Technological
Independence–The Asian Experence” của United Nations University, Nhật Bản chủ
yếu nghiên cứu về chính sách công nghệ các quốc gia Châu Á trong các thời kỳ các
nƣớc tiếp nhận công nghệ của Hoa kỳ và Châu Âu. Nhìn chung, các công trình đã
công bố trên thế giới chủ yếu tập trung nghiên cứu chính sách phát triển công nghệ


11






các nƣớc nhằm mục đích tăng trƣởng, trong đó đƣa ra các mô hình thành công trong
chính sách công nghệ nhƣ “Đàn nhạn bay” của Nhật Bản, …
Ở Việt Nam, có một số công trình đã công bố phải kể đến là cuốn “ Đổi mới
cơ chế quản lý Khoa học và Công nghệ ở Việt Nam” do TS. Lê Đăng Doanh chủ
biên. Tác giả đã phân tích và kiến nghị khoa học và công nghệ ở Việt Nam cần đổi
mới theo hƣớng nào, kênh nào trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Các tác giả cũng đặc biệt chú ý tới công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động
khoa học và công nghệ.
Cuốn “Quan hệ giữa phát triển khoa học công nghệ với phát triển kinh tế - xã
hội trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam” (NXB Khoa học xã hội,
1999) của tác giả Nguyễn Danh Sơn đã phân tích đƣợc mối quan hệ qua lại giữa
phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp hóa nền kinh tế. Tác giả Nguyễn
Danh Sơn cũng làm rõ đƣợc vai trò quan trọng của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật trong chiến lƣợc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Ngoài ra, còn một
số công trình đã công bố nghiên cứu về các chính sách hỗ trợ khoa học công nghệ ở
Việt Nam nhƣ tác giả Hoàng Trọng Cừ với đề tài “Nghiên cứu vấn đề thuế trong
hoạt động khoa học và công nghệ” (Đề tài NCKH của Viện Nghiên cứu chiến lƣợc
và chính sách khoa học công nghệ); tác giả Nghiêm Thị Minh Hòa “Đầu tƣ tài
chính cho khoa học công nghệ ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” (Báo cáo tại
Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và đào tạo sau đại học ở Việt Nam”, 2000), v.v
Trong các công trình này, các tác giả chủ yếu đƣa ra các giải pháp và kiến nghị
nhằm hỗ trợ hoạt động khoa học công nghệ ở Việt Nam, chƣa có đề tài nào nghiên
cứu chuyên sâu về chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Nhóm
nghiên cứu đề tài cấp Bộ Thƣơng mại do Nguyễn Văn Hoàn làm chủ nhiệm với đề
tài “Chính sách nhập khẩu công nghệ mới, công nghệ cao đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam - thực trạng và giải pháp”, mã số 2002-78-
018. Đề tài nghiệm thu năm 2002 và đã nghiên cứu và đánh giá tình hình nhập khẩu
công nghệ của Việt Nam trong chiến lƣợc công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế.
Tuy nhiên, các tác giả đề tài này chƣa phân tích đƣợc chính sách thu hút công nghệ

nƣớc ngoài vào Việt Nam và cũng chỉ dừng lại xem xét tình hình nhập khẩu công


12





nghệ nói chung vào Việt Nam giai đoạn trƣớc năm 2001 và chính sách nhập khẩu
công nghệ dƣới góc độ chính sách thƣơng mại.
Với mục đích nghiên cứu thực trạng chính sách thu hút công nghệ nƣớc
ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua đề tìm ra những mặt đƣợc và chƣa đƣợc
của chính sách, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
chính sách, NCS đã chọn đề tài “Chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt
Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phƣơng pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; dựa vào những quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
về hội nhập kinh tế và phát triển đất nƣớc làm cơ sở để phân tích đánh giá hoạt
động chuyển giao công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam.
Đồng thời, luận án còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ thống
kê, tổng hợp và phân tích, tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp của Luận án
Luận án có những điểm mới và các đóng góp về mặt lý luận cũng nhƣ thực
tiễn sau:
- Xác lập một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghệ, chuyển giao công nghệ và
chính sách thu hút công nghệ. Luận án chứng minh sự cần thiết xây dựng
chiến lƣợc công nghệ quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay của Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam
trong thời gian từ sau khi thực hiện đƣờng lối đổi mới đến nay. Lần đầu tiên
luận án đã đánh giá sự bất cập trong chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài
vào Việt Nam thông qua kênh FDI.
- Đề xuất các giải pháp cấp bách và lâu dài có tính khả thi nhằm đẩy mạnh việc
thu hút chuyển giao công nghệ từ nƣớc ngoài vào Việt Nam, hoàn thiện hệ
thống chính sách phát triển công nghệ tại Việt Nam.
7. Bố cục của Luận án:


13





Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
đƣợc trình bày trong 3 chƣơng:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thu hút công nghệ
nƣớc ngoài
Chƣơng II: Thực trạng chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài vào Việt
Nam
Chƣơng III: Các giải pháp đổi mới chính sách thu hút công nghệ nƣớc ngoài
vào Việt Nam trong thời gian tới



14






CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
THU HÚT CÔNG NGHỆ NƢỚC NGOÀI

1.1. Công nghệ và chuyển giao công nghệ
1.1.1 Công nghệ (Technology)
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về công nghệ, sau đây luận án chỉ
đƣa ra những cách hiểu thông dụng nhất để trên các khái niệm đó phục vụ cho quá
trình nghiên cứu:
Theo UNIDO: “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng
cách sử dụng những nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phƣơng
pháp”(Trần Văn Thọ 2006, tr.5).
“Công nghệ là hệ thống kiến thức có thể áp dụng đƣợc vào việc sản xuất ra
các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới” (OECD, 1968, tr.3).
“Công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực đƣợc chuyển thành hàng
hóa”(OECD, 1970).
“Công nghệ là hệ thống các kiến thức về một quy trình hoặc/và các kỹ thuật
chế biến cần thiết để sản xuất ra các vật liệu, cấu kiện và sản phẩm hoàn chỉnh”
(OECD, 1972, tr.5).
“Công nghệ là sự áp dụng khoa học vào các ngành nghề thực tiễn bằng cách
sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý có hệ thống, có phƣơng pháp” (ESCAP,
1986).
“Công nghệ là mọi loại kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phƣơng pháp có hệ thống
đƣợc sử dụng trong sản xuất và dịch vụ” (PRODEC, 1982).
“Công nghệ là các giải pháp dùng để biến đổi các nguồn lực tự nhiên thành
các nguồn lực đƣợc sản xuất có giá trị”(APCTT-Bộ Khoa học và Công nghệ, 2001).
“Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật liệu

và thông tin” và “Công nghệ bao gồm tất cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị, chế tạo


15





hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý” (APCTT-Bộ Khoa học và Công nghệ,
2001).
“Công nghệ là phƣơng pháp chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm gồm
03 yếu tố: a) Thông tin về phƣơng pháp; b) Phƣơng tiện, công cụ sử dụng phƣơng
pháp để thực hiện việc chuyển hóa; c) Sự hiểu biết về phƣơng pháp hoạt động nhƣ
thế nào và tại sao (Ngân hàng thế giới, WB, 1985).
“Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất và nhƣ vậy nó đƣợc mua
bán trên thị trƣờng nhƣ một hàng hóa, thể hiện ở những dạng sau: a) Tƣ liệu sản
xuất, sản phẩm trung gian đƣợc mua bán trên thị trƣờng, đặc biệt nó gắn liền với các
thiết bị đầu tƣ; b) Con ngƣời, thông thƣờng là có trình độ và có trình độ cao, chuyên
môn sâu với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và làm chủ đƣợc bộ máy; c) Thông
tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thƣơng mại, đƣợc đƣa ra trên thị
trƣờng hay đƣợc giữ bí mật nhƣ một phần của sự độc quyền (UNCTAD, 1972).
Theo Luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2000, tại Chƣơng I, Điều
1 nêu rõ “Công nghệ là tập hợp các phƣơng pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phƣơng tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” (Quốc hội nƣớc
CHXHCN Việt Nam, 2000).
Qua những định nghĩa trên và hàng trăm định nghĩa khác tƣơng tự nhƣ vậy
đƣợc các tác giả công bố trong các giai đoạn từ những năm 1960 cho tới nay, cho
thấy công nghệ là một khái niệm đang phát triển và có xu hƣớng ngày càng mở
rộng, ngày càng định hình hơn. Tuy nhiên, cho đến nay xuất phát từ các góc nhìn

khác nhau, các hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, các tác giả vẫn không hoàn toàn
thống nhất với nhau về định nghĩa công nghệ.
Để làm rõ và đi đến thống nhất khái niệm này, luận án sẽ phân tích trên 03
khía cạnh chủ yếu: 1) Về bản chất công nghệ là gì? 2) Công nghệ có đặc điểm chủ
yếu gì? 3) Công nghệ phục vụ cho cái gì?
Thứ nhất, cần làm rõ bản chất của công nghệ. Hầu nhƣ tất cả các tác giả đều
thống nhất với nhau rằng công nghệ là các cách thức, các kiến thức, các kỹ năng,
các quy trình, các thiết bị, các công cụ, các phƣơng tiện, các dịch vụ công nghiệp,
các dịch vụ quản lý, vv và vv… mà ta gọi chung, trong luận án này, là các phƣơng


16





pháp. Nhƣng không phải là các phƣơng pháp nói chung, mà là các phƣơng pháp
đƣợc “áp dụng vào”, “đƣợc chuyển thành”, “đƣợc sử dụng” … tức là các phƣơng
pháp có một giá trị thực tiễn nhất định để giải quyết một nhiệm vụ nhất định mà
thực tiễn đặt ra. Đó chính là giải pháp (Giải pháp: Phƣơng pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể nào đó) (Viện Ngôn ngữ học, 2003, pp.387).
Thực chất của công nghệ chính là giải pháp thực tiễn mà con ngƣời dùng
trong quá trình giải quyết một nhiệm vụ nhất định. Theo Nawaz Sharif (Công nghệ -
công cụ biến đổi các nguồn lực, Viện Thông tin khoa học Trung ƣơng, Ủy ban khoa
học và kỹ thuật Nhà nƣớc, số 7, năm 1988), công nghệ có 04 thành phần cơ bản:
- Thành phần vật chất (Technoware, còn gọi là “Giải pháp đã đƣợc vật chất
hóa”): đó là công nghệ hàm chứa trong các vật thể nhƣ: máy móc, trang thiết bị,
công cụ, kết cấu, vật liệu, nhà máy, cơ sở hạ tầng, xe cộ …
- Thành phần thông tin (Inforwave, công nghệ hàm chứa trong thông tin),

nhƣ: tài liệu thiết kế, công thức, quy trình, tiêu chuẩn, định mức, cẩm nang, khái
niệm, kế hoạch …
- Thành phần con ngƣời (Humanwave, công nghệ hàm chứa trong con
ngƣời), nhƣ: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, khả năng lãnh đạo, đạo
đức nghề nghiệp.
- Thành phần thể chế (Orgawave- công nghệ hàm chứa trong thể chế), nhƣ:
cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, quan hệ trách nhiệm/quyền hạn, lề lối làm việc, kỷ
luật, sự phối hợp, chế độ thƣởng phạt, vv và vv …
Tất cả 04 thành phần công nghệ đó (thành phần vật chất: Technoware, thành
phần con ngƣời: Humanware, thành phần thông tin: Inforware, thành phần thể chế:
Orgaware) đều bổ sung lẫn cho nhau và tác động qua lại với nhau một cách phức
tạp. Không thể có sự biến đổi nào (từ nguồn lực tự nhiên thành các sản phẩm hay
dịch vụ đƣợc sử dụng), mà có thể thiếu hẳn một thành phần nào đó, tức là có một
giới hạn tối thiểu cho mỗi một trong 04 thành phần, và cũng nhƣ vậy, có một giới
hạn tối đa cho mỗi thành phần. Vƣợt quá những giới hạn nhất định đó, công nghệ sẽ
không còn là tối ƣu hay thậm chí sẽ không có hiệu quả và vì vậy ngƣời ta luôn luôn


17





đòi hỏi một hệ thống công nghệ đồng bộ. Nhƣ vậy, bản chất của công nghệ là giải
pháp.
Thứ hai, cần làm rõ công nghệ có đặc điểm chủ yếu gì. Đi sâu vào thuộc tính
hoặc đặc điểm của công nghệ có thể thấy rằng công nghệ có nhiều đặc điểm hoặc
thuộc tính khác nhau. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi bật mà phần đông các tác giả
đều nhất trí là đặc điểm có hệ thống. Điều đó có nghĩa là, một giải pháp công nghệ

riêng lẻ hoặc một tập hợp những giải pháp công nghệ hoàn chỉnh để tạo ra một sản
phẩm hay một dịch vụ nào đó đều đòi hỏi phải đƣợc chỉ rõ trật tự của giải pháp đó
nằm ở vị trí nào trong toàn hệ thống hoặc những giải pháp đó đƣợc sắp xếp nhƣ thế
nào để thành hệ thống và có thể áp dụng ngay đƣợc mà không bị sai lầm. Nếu trái
lại, giải pháp đó không còn giá trị của công nghệ.
Thứ ba, mục tiêu của công nghệ là gì và phục vụ cho cái gì. Khi nghiên cứu
nguồn gốc công nghệ, cho thấy không một tác giả nào bỏ qua vấn đề này. Về cơ
bản, các tác giả đều cho rằng, mục tiêu sơ cấp của công nghệ là để làm ra đƣợc
những sản phẩm, những hàng hóa, những dịch vụ có trình độ công nghệ nhất định
(và càng ngày, mục tiêu “dịch vụ” càng đƣợc nhiều tác giả quan tâm). Từ mục tiêu
sơ cấp đó, công nghệ có rất nhiều mục tiêu thứ cấp khác nhau và nhiều khi chính vì
mục tiêu thứ cấp này mà công nghệ cần đƣợc cập nhật, thay đổi và phát triển, thậm
chí phát triển rất nhanh chóng.
Từ những phân tích nói trên, tác giả luận án đƣa ra định nghĩa một cách ngắn
gọn, đơn giản, dễ hiểu về công nghệ: Công nghệ là tập hợp các giải pháp có hệ
thống được sử dụng trong quá trình tạo ra một sản phẩm, hoàn thành một công
trình hay thực hiện một dịch vụ nhất định nhằm phục vụ cho một mục tiêu xác định.
Các giải pháp có hệ thống đó bao gồm 04 thành phần cơ bản (thành phần vật chất
hay giải pháp đƣợc vật chất hóa, thành phần thông tin, thành phần con ngƣời, thành
phần thể chế). Thông thƣờng, để hoàn thành một mục tiêu thứ cấp (nhƣ: chế tạo một
sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ) hệ thống các giải
pháp phải bao gồm cả 04 thành phần nói trên. Nhƣng trong thực tế có những mục
tiêu sơ cấp hoặc mục tiêu trung gian mà để thực hiện chúng không nhất thiết cả 04
thành phần đó phải xuất hiện trong một hệ thống công nghệ cụ thể.


18






Trong thời đại ngày nay, mỗi sản phẩm, mỗi công trình, mỗi dịch vụ đều
nhằm một mục tiêu cụ thể, xác định. Hàng ngày, trên thế giới có hàng triệu sản
phẩm, hàng triệu công trình, hàng triệu dịch vụ đƣợc tạo ra, đƣợc hoàn thành, đƣợc
thực hiện, chúng đều có mục tiêu cụ thể, xác định, không mục tiêu nào hoàn toàn
giống mục tiêu nào. Tuy nhiên, trong cơ chế kinh tế thị trƣờng, công nghệ, suy cho
cùng, phải nhằm mục đích chủ yếu là phục vụ kinh doanh (trừ một số trƣờng hợp
đặc biệt, trong bối cảnh đặc biệt sẽ đƣợc đề cập trong một chuyên đề khác) và trong
khuôn khổ của hoạt động kinh doanh thì công nghệ nào cũng phải đạt đƣợc một
mục tiêu chung là :
- Giành thắng lợi trong cạnh tranh
- Tối đa hóa lợi nhuận
- Phát triển Thƣơng hiệu
Chỉ có nhƣ vậy, công nghệ mới có thể tồn tại và phát triển để phục vụ cho các
mục tiêu khác.
1.1.2. Quản lý công nghệ
Ở tầm vi mô (doanh nghiệp), quản lý công nghệ nhằm bảo đảm cho doanh
nghiệp luôn luôn giành thắng lợi trong cạnh tranh, tối đa hóa đƣợc lợi nhuận, xây
dựng đƣợc thƣơng hiệu của doanh nghiệp ngày càng mạnh và luôn luôn phát triển
bền vững. Quản lý công nghệ ở doanh nghiệp là hệ thống các hoạt động khả thi để
làm cho công nghệ luôn luôn đƣợc duy trì và phát triển phù hợp với mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Nội dung của quản lý công nghệ trong doanh nghiệp bao gồm:
- Xây dựng hệ thống cập nhật thông tin công nghệ và xác lập các tài liệu để
có căn cứ quản lý;
- Thực hiện các nội dung quản lý kỹ thuật và quản lý chất lƣợng toàn diện
(nhƣ: quản lý quy trình, quản lý tiêu chuẩn, định mức, quản lý cơ điện …);
- Kiểm kê, đánh giá công nghệ và tình hình cạnh tranh;
- Dự báo công nghệ;



19





- Đổi mới và phát triển công nghệ.
Ở tầm vĩ mô (quốc gia), quản lý công nghệ nhằm đảm bảo cho quốc gia có
một nền công nghệ luôn hƣớng tới tính cạnh tranh và hiệu quả cao đồng thời nâng
cao đƣợc vị thế của quốc gia trên trƣờng quốc tế. Quản lý công nghệ ở tầm vĩ mô là
việc Nhà nƣớc thực thi những công cụ luật pháp và chính sách để làm cho sự phát
triển công nghệ của đất nƣớc (trƣớc hết là các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu
triển khai, các trƣờng Đại học và Cao đẳng,…) luôn luôn phù hợp với những yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và sự phát triển đó không để lại
những hậu quả tiêu cực (nhƣ ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái, phá hoại cảnh
quan,…).
Ở tầm quốc gia, quản lý công nghệ có những nội dung chủ yếu sau:
- Xác lập và đƣa vào hoạt động một hệ thống thống kê, theo dõi công nghệ ở
cấp quốc gia để thƣờng xuyên đánh giá đƣợc trình độ công nghệ của quốc gia so với
trình độ chung trên thế giới;
- Tạo ra một nhận thức chung trong xã hội về sự cần thiết phải phát triển trên
cơ sở công nghệ (đặc biệt là trong giới doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà
nƣớc, các cơ quan nghiên cứu, triển khai);
- Xây dựng Chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Chính
sách phát triển công nghệ quốc gia;
- Xây dựng và phát triển các cơ cấu hạ tầng của công nghệ, bao gồm: Các
trung tâm nghiên cứu - triển khai, marketing công nghệ (thuộc Nhà nƣớc và các
thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là kinh tế tƣ nhân); các trung tâm đánh giá

năng lực, nhu cầu công nghệ và dự báo công nghệ (ở tầm quốc gia, ngành, khu
vực); các trung tâm liên kết giữa các Bên sử dụng công nghệ với các Bên có công
nghệ (tƣ vấn, môi giới …); các trung tâm dịch vụ thông tin công nghệ phục vụ cho
giám sát, đánh giá và ra quyết định công nghệ; các cơ sở đào tạo và bồi dƣỡng
nguồn nhân lực làm công tác quản lý công nghệ ở tầm vi mô và vĩ mô cho các thành
phần kinh tế; các trƣờng Đại học và các cơ sở bồi dƣỡng chuyên gia về công nghệ;
ban hành các chính sách của luật pháp để hƣớng toàn xã hội vào việc phát triển


20





công nghệ theo những trọng tâm mà “Chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ
quốc gia” và “Chính sách phát triển công nghệ quốc gia” đã vạch ra.
- Lập và đƣa vào hoạt động các Quỹ để hỗ trợ và khuyến khích việc phát
triển công nghệ.
- Lập và đƣa vào hoạt động Hội đồng tƣ vấn công nghệ quốc gia có uy tín để
định kỳ đánh giá tình hình quản lý công nghệ ở tầm vĩ mô và đề xuất những biện
pháp điều chỉnh cần thiết.
1.1.3. Đổi mới và phát triển công nghệ
Đổi mới công nghệ là một phần quan trọng của quá trình quản lý công nghệ,
trong quá trình đổi mới công nghệ, ngƣời ta lựa chọn, thay thế một phần hoặc toàn
bộ những giải pháp (hàm chứa trong 04 thành phần: vật thể, thông tin, con ngƣời,
thể chế) tập hợp trong một hệ thống đang đƣợc sử dụng bằng những biện pháp mới
để tạo ra một sản phẩm, một công trình hoặc một dịch vụ tiến bộ hơn, với tiêu hao
vật tƣ, năng lƣợng và làm ô nhiễm môi trƣờng ít hơn; Đổi mới công nghệ cũng có
nghĩa là tạo dựng những hệ thống công nghệ hoàn toàn mới theo hƣớng hiện đại của

thế giới để làm ra những sản phẩm, những công trình, những dịch vụ mới thích hợp
với yêu cầu của thời đại.
Đổi mới công nghệ (đổi mới một phần hoặc toàn bộ những giải pháp đang
đƣợc áp dụng) có các nội dung chủ yếu sau:
- Đánh giá công nghệ đang sử dụng (xét khả năng công nghệ có còn làm ra
sản phẩm, công trình, dịch vụ đƣợc thị trƣờng chấp nhận không, công nghệ còn
mang lại hiệu quả không, duy trì công nghệ có ảnh hƣởng đến công nghệ không,
nếu không thì phải đổi mới những gì, đổi mới một phần hay toàn bộ hệ thống công
nghệ).
- Nghiên cứu quy cách, mức chất lƣợng của sản phẩm, công trình, dịch vụ;
Nghiên cứu thị trƣờng mục tiêu của sản phẩm, công trình, dịch vụ; Nghiên cứu, làm
rõ môi trƣờng hoạt động của công nghệ; Nghiên cứu xác định tính cạnh tranh và
hiệu quả của công nghệ (trƣờng hợp làm ra những sản phẩm, công trình, dịch vụ
hoàn toàn mới hoặc có những tính năng mới với giá cả mới).


21





- Nghiên cứu nhận dạng những đặc điểm chủ yếu của công nghệ sẽ tạo dựng
(đặc biệt, làm rõ tính đồng bộ của công nghệ, tính hiện đại của công nghệ, tính thích
hợp của công nghệ, tính thân thiện môi trƣờng của công nghệ …) và định hƣớng lựa
chọn vào một vài dạng công nghệ, chủ yếu là những công nghệ còn đang sung sức
trong vòng đời của nó.
- Nghiên cứu khả thi Dự án Đổi mới công nghệ để bảo đảm chắc chắn rằng
dự án là khả thi và không có những rủi ro ngoài tầm kiểm soát, phê duyệt dự án
đồng thời chuẩn bị những điều kiện để đầu tƣ (vốn, ngƣời quản lý dự án, các nguồn

cung cấp cho dự án …).
- Thực hiện dự án: ký các Hợp đồng tƣ vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị, xây
lắp, đào tạo, chuyển giao công nghệ, vv và vv… quản lý Hợp đồng để bảo đảm cho
dự án hoàn thành đúng tiến độ và có chất lƣợng.
- Vận hành và khai thác dự án.
- Định kỳ đánh giá, rút kinh nghiệm về quá trình đổi mới công nghệ.
Các nguồn cung cấp công nghệ cho hoạt động đổi mới công nghệ ở hầu hết
các nƣớc thông thƣờng bao gồm:
- Các nguồn tại chỗ (các nguồn trong Công ty, Tập đoàn …).
- Từ ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài và ngƣời nƣớc ngoài sinh sống
và làm việc tại Việt Nam.
- Từ các cơ sở nghiên cứu - triển khai nhƣ: các Viện, các Trung tâm nghiên
cứu, các trƣờng Đại học (thƣờng là ở trong nƣớc).
- Từ các doanh nghiệp trong và nhất là các doanh nghiệp ngoài nƣớc (nếu
chuyển giao từ các doanh nghiệp ngoài nƣớc cho các doanh nghiệp trong nƣớc, thì
gọi đó là “chuyển giao công nghệ nƣớc ngoài vào Việt Nam”).
1.1.4. Chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là mang kiến thức kỹ thuật vƣợt qua sự giới hạn
trong hay ngoài nƣớc từ các công ty, các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu, các
phòng thí nghiệm, các doanh nghiệp khoa học ƣơm tạo công nghệ,… đến những nơi


22





có nhu cầu tiếp nhận công nghệ. Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa về chuyển
giao công nghệ, luận án chỉ xin nêu một số định nghĩa nhƣ sau:

Chuyển giao công nghệ là sự trao đổi tri thức kỹ thuật, dữ liệu, các bản vẽ
thiết kế, các phát minh, sáng chế, các bí quyết, các thiết bị, các quy trình sản xuất,
vận hành và các kỹ năng quản lý từ một tổ chức này sang một tổ chức khác.
Chuyển giao công nghệ là việc có đƣợc công nghệ nƣớc ngoài và là một quá
trình vật chất về cơ bản, một mặt đi liền với việc đào tạo toàn diện và mặt khác là sự
hiểu biết và học hỏi (ESCAP, 1986).
Chuyển giao công nghệ thƣờng là cách gọi việc mua công nghệ mới. Nó
thƣờng xảy ra do có sự tồn tại của “ngƣời mua” và “ngƣời bán”. Ngƣời bán thƣờng
đƣợc gọi là “ngƣời giao hay bên giao công nghệ” và ngƣời mua thƣờng đƣợc gọi là
“ngƣời nhận hay bên nhận công nghệ” của quá trình hoạt động chuyển giao công
nghệ.
Ở quy mô toàn cầu, chuyển giao công nghệ thƣờng diễn ra: giữa hai nƣớc
phát triển; giữa hai nƣớc đang phát triển; giữa một nƣớc phát triển và một nƣớc
đang phát triển.
Theo quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2005 (Chƣơng III, Phần thứ 6), các
đối tƣợng chuyển giao công nghệ trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm:
- Các đối tƣợng sở hữu công nghiệp nhƣ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa có hoặc không kèm theo máy móc,
thiết bị mà pháp luật cho phép chuyển giao.
- Các bí quyết (Know-how) hay kiến thức kỹ thuật về công nghệ dƣới dạng
phƣơng án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, phần
mềm máy tính, tài liệu thiết kế, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ
kỹ thuật có hoặc không kèm theo máy móc, thiết bị.
- Các dịch vụ kỹ thuật, đào tạo nhân viên kỹ thuật, cung cấp thông tin về công
nghệ chuyển giao.
- Các giải pháp hợp lý hóa sản xuất.


23






Nhƣ vậy, có thể rút ra những đặc trƣng bản chất của chuyển giao công nghệ
gồm 3 điểm sau đây:
Thứ nhất, chuyển giao công nghệ phải là một hoạt động bao gồm hai bên:
Bên giao và Bên nhận. Nếu chỉ có một bên thì không thể tạo nên hoạt động CGCN
và cũng rất hiếm trƣờng hợp (nói đúng hơn là không có trƣờng hợp nào) có từ ba
bên trở lên trong chuyển giao công nghệ và nếu có thì các bên đó cũng cấu tạo
thành các Bên giao và các Bên nhận, tức là thực chất chỉ có hai bên. Tuy nhiên,
ngoài khái niệm chuyển giao công nghệ, trong thực tế còn có khái niệm “chuyển
dịch công nghệ” (ví dụ trƣờng hợp doanh nghiệp nƣớc ngoài đƣa công nghệ vào
thực hiện dự án của họ tại Việt Nam dƣới hình thức doanh nghiệp 100% vốn của
họ).
Thứ hai, trong hoạt động đó, đối tƣợng đƣợc Bên giao “chuyển giao” cho
Bên nhận chính là các giải pháp (có thể bao gồm các giải pháp đƣợc vật thể hóa, tức
là máy móc, thiết bị hoặc không bao gồm).
Thứ ba, tại sao thƣờng gọi là “chuyển giao công nghệ” mà không gọi là mua
bán công nghệ (ít nhất là trên đa số trƣờng hợp). Vậy thì chuyển giao công nghệ có
những đặc điểm gì để phân biệt với những trƣờng hợp mua, bán thông thƣờng khác.
Xét một cách tổng thể ta thấy “chuyển giao công nghệ” có hai đặc điểm cơ
bản mà những trƣờng hợp mua, bán thông thông thƣờng không có, đó là:
Trong những trƣờng hợp mua, bán thông thƣờng, Bên bán trao hàng (sản
phẩm hoặc dịch vụ cuối cùng) cho Bên mua và Bên mua trao tiền cho Bên bán,
cuộc mua, bán coi nhƣ hoàn thành. Còn trong “chuyển giao công nghệ”, thì Bên
giao chuyển giao cho Bên nhận một tập hợp giải pháp công nghệ để Bên nhận có
thể sản xuất một sản phẩm (chẳng hạn, chiếc xe máy Honda) giống y nhƣ của Bên
giao thì cũng chỉ là bƣớc đầu. Bên giao phải bằng những kết quả nghiên cứu, triển
khai, chuyển giao tiếp cho Bên nhận hàng loạt giải pháp công nghệ để trình độ công

nghệ của Bên nhận luôn luôn “tƣơng đƣơng” với trình độ của Bên giao trong nhiều
năm sau này nữa. Chỉ có nhƣ vậy, Bên nhận mới không sa vào cái “Bẫy công nghệ”
của Bên giao hoặc của một bên thứ ba khác. Trong quá trình chuyển giao nhƣ vậy,
Bên nhận phải theo dõi chặt chẽ mọi động thái cạnh tranh của Bên giao để đòi hỏi


24





Bên giao làm đúng nghĩa vụ của mình. Bởi vì, nghĩa vụ của Bên giao là phải giúp
Bên nhận cập nhật đƣợc công nghệ, thông thƣờng là ngang bằng với trình độ của
Bên giao trong mọi thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng CGCN. Tuy nhiên, trong
từng thời gian lại thƣờng có những yếu tố bất trắc mà không ai có thể quy định cụ
thể trƣớc đƣợc (một trong những yếu tố đó là tình hình cạnh tranh: ta không biết sức
cạnh tranh của các đối thủ khi nào mạnh, khi nào yếu, sức cạnh tranh đó đến từ các
đối thủ nào, thủ đoạn cạnh tranh cụ thể là gì, vv và vv…). Nhƣ vậy, hai Bên phải
phối hợp chặt chẽ để cập nhật và xử lý các tình huống sao cho có sức cạnh tranh tốt
nhất. Chuyển giao công nghệ phải là một quá trình lâu dài hai bên tiếp tục quan hệ
với nhau, trao đổi với nhau, chuyển giao cho nhau, chứ không phải chỉ chuyển giao
một đợt là xong (vì nếu nhƣ vậy, rất có thể Bên nhận sẽ rơi vào chiếc “Bẫy công
nghệ” nhƣ trên đã nói). Về nguyên tắc, quá trình chuyển giao chỉ chấm dứt khi Bên
nhận đã “tự túc đƣợc công nghệ”. Bên cạnh đó, bản thân Bên nhận cũng phải nỗ lực
tối đa để tiếp nhận thành công “hàng hóa” của Bên giao, thực tế, không phải Bên
nhận nào cũng tiếp nhận thành công. Quá trình mua, bán hàng hóa thƣờng không có
đặc điểm này.
Trong mua, bán hàng hóa thông thƣờng, giá cả đƣợc thỏa thuận ngay từ lúc
giao kết Hợp đồng, kể cả trƣờng hợp mua, bán trả góp, thì giá cả và nói chung là

những nghĩa vụ, quyền lợi của hai bên cũng đã tƣơng đối rõ ràng. Còn trong “chuyển
giao công nghệ”, ngƣời ta rất khó nói trƣớc Hợp đồng chuyển giao công nghệ đó có
giá bao nhiêu, bởi vì:
Thứ nhất, quy mô sản xuất (dịch vụ) của các Bên nhận là rất khác nhau.
Trong chuyển giao công nghệ, có một nguyên tắc là, Bên nhận thu lợi càng nhiều từ
công nghệ chuyển giao (cũng có nghĩa là, Bên nhận có quy mô càng lớn) thì “phí
chuyển giao” phải trả cho Bên giao cũng càng lớn.
Thứ hai, cho dù quy mô (công suất) sản xuất (dịch vụ) không đổi, nhƣng phí
chuyển giao (mà Bên nhận phải trả cho Bên giao) là một số tiền thay đổi hàng năm
(vì phí chuyển giao theo “kỳ vụ” thƣờng tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) của giá bán
tịnh hoặc lợi nhuận hoặc doanh thu mà những khoản tiền này còn phụ thuộc thị
trƣờng, cạnh tranh,… chứ không hoàn toàn phụ thuộc Bên giao hay Bên nhận nên


25





không định trƣớc đƣợc). Đó là chƣa kể giá của “chuyển giao công nghệ” còn phụ
thuộc một phần rất lớn vào công nghệ đƣợc chuyển giao đang ở thời kỳ nào (thƣơng
mại hóa, đang sung sức, ở đỉnh điểm, hay bắt đầu có dấu hiệu bão hòa và lỗi thời).
Chính vì những điểm khác nhau đó, mà ngƣời ta thƣờng gọi là “chuyển giao
công nghệ” chứ ít gọi là “mua đứt, bán đoạn” hay “mua, bán” công nghệ. Lƣu ý ở
đây chuyển giao chứ không phải cho không, hay biếu tặng công nghệ, vì bản chất là
mua bán công nghệ - một loại hàng hóa đặc biệt.
Với 03 đặc điểm nổi bật nhƣ vậy, có thể định nghĩa một cách ngắn gọn, dễ
hiểu: Chuyển giao công nghệ là hoạt động bao gồm 2 bên (Bên giao và Bên
nhận), trong đó, hai bên phối hợp các hoạt động thực tiễn và/hoặc các hành vi

pháp lý sao cho Bên nhận có được một năng lực công nghệ cần thiết, trong suốt
thời gian cần thiết để thực hiện được mục tiêu đã xác định.
Hoạt động chuyển giao công nghệ thƣờng diễn ra dƣới 02 hình thức chủ yếu
sau:
Chuyển giao công nghệ theo chiều ngang (Horizontal Technology Tranfer) là
đƣa công nghệ đang đƣợc áp dụng ở một đơn vị (doanh nghiệp) này sang áp dụng ở
một đơn vị (doanh nghiệp) khác. Trong chuyển giao ngang, các hành vi Bên giao và
Bên nhận, tƣơng quan quyền lợi/nghĩa vụ giữa các bên, đều có thể xác định tƣơng
đối rõ. Rủi ro trong chuyển giao ngang rất ít xảy ra và nói chung có thể kiểm soát
đƣợc, vì công nghệ chuyển giao đã đƣợc áp dụng thành công ở Bên giao và Bên
giao đã sở hữu kinh nghiệm trong quá trình vận hành.
Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc (Vertical Technology Transfer) hay
triển khai công nghệ là hoạt động trong đó công nghệ không chỉ đƣợc chuyển từ
đơn vị này sang đơn vị khác, mà quan trọng hơn là, cùng với điều đó, công nghệ
đƣợc chuyển hóa từ giai đoạn thấp hơn sang giai đoạn cao hơn trong “vòng đời” của
nó (các trƣờng hợp thƣờng gặp từ giai đoạn thử nghiệm - trình diễn sang giai đoạn
ứng dụng - thƣơng mại hóa).
Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc thƣờng là chuyển giao công nghệ từ
một đơn vị nghiên cứu, triển khai sang một đơn vị sản xuất. Hình thức chuyển giao
này đòi hỏi:

×