Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.26 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13:
“SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH
SỬ TRIẾT HỌC”
SVTH : Vũ Hòang Hải Phú
STT : 6
Nhóm : 13
Lớp : Cao học đêm 12 - K20
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Tp. Hồ Chí Minh – 02/2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Triết học Mác là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hòan chỉnh, chính vì vậy nó đã
trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học vủa giai cấp công nhân và nhân lọai tiến
bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kết thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý
khoa học giúp con người nhận thức đúng và cải tạo thế giới 3
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết học của
nhân lọai. Mác đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân lọai, sang tạo nên
chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hòa với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình.
Mác đã thay đổi chủ nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là cuộc cách
mạng thật sự trong lịch sử triết học mà triết học Mác đã tạo ra. 3
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 4
CHƯƠNG II: BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC 6
KẾT LUẬN 12
2
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân lọai là một quá trình không đơn


giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó
là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực- phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình- tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm
nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó
lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hòan chỉnh,
chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học vủa
giai cấp công nhân và nhân lọai tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kết
thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người
nhận thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng
trong lịch sử triết học của nhân lọai. Mác đã kế thừa một cách có phê phán những
thành tựu tư duy nhân lọai, sang tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để,
không điều hòa với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Mác đã thay đổi chủ
nghĩa duy vật cũ và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là cuộc cách mạng
thật sự trong lịch sử triết học mà triết học Mác đã tạo ra.
Để làm rõ hơn bước ngoặt lịch sử do triết học Mac tạo ra với lịch sử triết
học nhân lọai em nghiên cứu đề tài tiểu luận “SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC
MÁC LÀ MỘT BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC”. Từ đó nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ bản của triết học duy
vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách mạng và khoa học đó
một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn trong cuộc sống ngày nay.
3
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế- xã hội:
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX. Quê hương của
triết học Mác là ở nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở
Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hơn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song
cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp - xã hội

vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là
mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt
xã hội của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ.
Cuộc đầu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành các cuộc khởi nghĩa
với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông
(Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm
1834 và phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm
40 của thế kỷ XIX đã thu hút được sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các
tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, trước hết là C. Mác và Ph.Ăngghen tới vấn đề
nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp - xã hội và những triển
vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp
ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những năm 30 - 40 của thế kỷ
XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội - giai cấp và
những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi để xuất hiện một thế
giới quan triết học mới - triết học mácxít.
4
2. Tiền đề về lý luận:
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu
hiện rõ ràng nhất là kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp, triết học cổ điển Đức. Tring đó những học thuyết ấy chứa đựng những giá
trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những
dự đóan thiên tài của Xanh Ximông và Phuriee về một số đặc điểm của xã hội
chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết
học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao
của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội lòai người trong thời kì trước Mác. Sự

phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học
và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song,
rõ rang những thành tựu đã đạt tới của nhân lọai lại là những tiền đề lý luận tất
yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học
Mác nói riêng.
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên:
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những đỉnh cao trong khoa học
tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên như R. Maye (Đức), P.P. Giulơ (Anh), E.
Kh. Lenxơ (Nga), L.A. Cônđinh ( Đan Mạch) đã xác định sự thật về chuyển hoá
năng lượng. R.Meye và P.P. Giulơ đã nêu lên thành định luật bảo toàn và chuyển
hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận
của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các nhà sinh vật học
người Đức như Svan và Slâyđen đã đề ra lý luận tế bào, đã chứng minh rằng các
tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động vật và thực
vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể động vật, thực vật đều là
sự phát triển bằng sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học người Anh Đác Uyn cũng đã phát hiện ra lý luận duy vật về
nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất hiện và phát
5
triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
Sự phát triển mạnh mẽ của hoa học tự nhiên, nhất là trên lĩnh vực vật lý
học và sinh học đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về thế giới tự nhiên; đồng
thời khẳng định tính biện chứng khách quan của mọi quá trình trong sự vận động
và phát triển của thế giới. Khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận trong giai
đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác; cũng như những khái quát
của triết học Mác đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp luận cho các lĩnh
vực khoa học cụ thể trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy

luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là
kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của
sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do Mác và Ăngghen sáng lập là một học
thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh
tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác cũng đồng thời là quá trình
nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra
trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong
trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê
phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
CHƯƠNG II: BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA
TRIẾT HỌC MÁC
1. Thứ nhất :Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng tách rời nhau. Các nhà duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng,
6
nhưng suy cho cùng do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học cho nên
họ vẫn bị chi phối bơi phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng bịên chứng đã đạt
được những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học
Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thồng triết học duy tâm thần bí. Do đó,
nhìn chung, lịch sử triết học trước Mác thể hiện thế giới quan duy vật trong mối
quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình, hoặc là thế giới duy tâm trong mối
quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã
cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận
về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây
là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.

Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một
cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật
phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu
hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép
biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh
vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng
trên nền tảng duy vật.
7
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ
biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử- hệ
thống, nguyên nhân- kết quả, lượng- chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất,
quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ
định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
đó các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.

Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển.
Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho
hành động.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân.
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và
phưng pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ
với phương pháp biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học cổ điển Đức, C.Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện
chứng, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lich sử triết học
và phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế
giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy.
8
2. Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở
rộng chủ nghĩa duy vật sang xã hội loài người, hình thành nên chủ nghĩa duy vật
lịch sử . Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chỗ hoàn thiện và mở rộng nhận thức ấy
từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý
luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự tuỳ tiện, vẫn ngự trị
từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động
của lịch sử xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các
quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ về kiến trúc thượng tầng. Triết học
lịch sử cũng đã phát hiện vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người
“đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng

tới mục tiêu giải phóng con người. Với bản chất duy vật triệt để trong lĩnh vực xã
hội, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra
bước phát triển mới về chất, một bước nhảy vọt so với các hệ thống triết học
khác trong lịch sử.
3. Thứ ba: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật
của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết
nhằm mục đích cải tạo thế giới.Vì vậy sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác.
Trong lịch sử các hệ thống triết học trước Mác, kể cả các hệ thống triết
học tiến bộ, đều chưa thấy vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao
9
nhất của triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Vì vậy
tách rời giữa lý luận và thực tiễn là đặc điểm vốn có của triết học trước Mác.
Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn mới được xem là một nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động.
C.Mác viết : “ Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước đến nay- kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc- là sự thật, hiện thực, cái
cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không nhận thức là hoạt động cảm giác con người, là thực tiễn không
nhận thức về mặt chủ quan”. “ Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt
tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý,
nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của
mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực và tính không hiện thực của tư duy tách rời
hiện tượng, là một vấn đề kinh viện thuần tuý”. “ Các nhà triết học đã chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề cải tạo thế giới”. Đó là
biểu hiện của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong triết học Mác-
Lênin

4. Thứ tư: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. tính
khoa học càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì
tính cách mạng càng cao, càng triệt để.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở từng bản chất khoa học của học
thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản. Triết hoc Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của phương pháp biện
chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu
lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản
con đường phải đi theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về mặt tinh thần, trong đó tất
cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”. Triết học Mác là vũ khí
10
tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học
Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai.
Tính cách mạng của triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách
mạng của phép biện chứng. C.Mác cho rằng : “ Dưới dạng hợp lý của nó, phép
biện chứng chỉ đem lại sự giận giữ và kinh hoàng cho cho giai cấp tư sản và bọn
tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong tính tích cực của cái hiện đang
tồn tại, phép biện chứng bao đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái
hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; Vì mỗi hình thái đã hình
thành đều được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt tức thời
trong sự vận động hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một
cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và tính cách mạng”
5. Thứ năm: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi : “ triết
học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm
đó, đồng thời xác định tính đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên , xã hội và tư duy. Vì vậy không những không tách
rời mà trái lại triết học Mác càng có mối quan hệ thống nhất và độc lập với các
chuyên ngành. Sự phát triển của các khoa học khác nhau trong nghiên cứu thế

giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của
triết học. Mặt khác những kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học
và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của của các lĩnh khoa học.
Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu khoa học
của tự nhiên và xã hội là tiền đề cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày
càng vận động, phát triển, đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết
học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác
nhau. Không có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến
lên. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng chứng minh cho mối
11
quan hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường nhận thức và
cải tạo thế giới.
KẾT LUẬN
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Mác và Ăngghen đã giải thóat chủ
nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên hòan bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội lòai người. Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản
ánh bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng
hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích cải tạo thế giới vì một nguyen tắc cơ bản
của triết học Mác là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Triết học
Mác đã thống nhất tính khoa học và tính cách mạng, tính khoa học càng sâu sắc,
càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính cách mạng càng
12
cao, càng triệt để. Triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các
khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác
định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển
chung nhát của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nên có thể kết luận là “SỰ RA ĐỜI
CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT BƯỚC NGOẶT TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC”

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa
Triết học Phần II Đại cương về Lịch sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa (chủ
biên), 2010.
2. PGS. TS. Lê Doãn Tá.
Triết học Mácxít quá trình hình thành và phát triển (giai đoạn Mác Ăngghen
và Lênin).
3. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin (Khoa triết học Trường ĐHKHXH
& NV - 1998).
13
4. Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và cao học thuộc ngành không chuyên
triết học tập I, II, III - NXB chính trị Quốc gia).
5.
%BFt-h%E1%BB%8Dc/ - đề tài số 24
14

×