Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.3 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 13:
“SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH
SỬ TRIẾT HỌC”
SVTH : Trần Thanh Tiến
STT :
Nhóm : 13
Lớp : Cao học Đêm 5 – K21
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
Tp. Hồ Chí Minh – 02/2012
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 4
CHƯƠNG II: BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC 6
KẾT LUẬN 12
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách
mạng hoàn chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong cuộc đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay,
cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới xây dựng đất nước đòi hỏi chúng
ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác
- Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ bản
2
của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách
mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy,
việc khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết học mácxít cũng như toàn
bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và vai trò của triết học mácxít
trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc sống, trở thành một nhiệm vụ


bức thiết. Trong bài tiểu luận ngắn này em xin trình bày một cách ngắn gọn
và sơ lược quá trình hình thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng
mácxít: “Sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt có tính cách
mạng trong lịch sử Triết học”. Từ đó nghiên cứu và quán triệt những nguyên
lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết
cách mạng và khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn trong
cuộc sống ngày nay.
3
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế- xã hội:
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó
cũng là thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của
cách mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã
hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế
TBCN phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý
tưởng cao đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu
khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt
những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân.
Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực
hiện sở hữu nhỏ, tức là đi ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” -
chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư
sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó.
Trước tình hình đó đòi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho
phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận
những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
2. Tiền đề về lý luận:
Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ
cổ đại đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh;
CNXH không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển

Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và
vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và
có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc
4
phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng
của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng
thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản
của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng
thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên
về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
3. Tiền đề về khoa học tự nhiên:
Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận
động; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này
đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi
sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết
cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú
của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên, lâu dài của chính giới tự
nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật
và phương pháp biện chứng ra đời.

Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều
kiện chủ quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của
chính Mác và Ăngghen
5
CHƯƠNG II: BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA
TRIẾT HỌC MÁC
1. Thứ nhất :Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng

Trong lịch sử triết học trước Marx, CNDV và phép biện chứng tách rời
nhau. Nhìn chung, lịch sử triết học trước Marx thể hiện thế giới quan duy vật
trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình hoặc là thế giới quan
duy tâm trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng. Triết học
Marx ra đời đã chúng minh tính thống nhất giữ thế giới quan và phương pháp
luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ với phương
pháp biện chứng duy vật. Kế thừa CNDV và phép biện chứng, Marx xây dựng
nên CNDVBC – hình thức phát triển cao nhất của CNDV trong lịch sử triết học-
và phép biện chứng duy vật với tích cách là khoa học về sự phát triển của thế giới
tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã
cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận
về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây
là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một
cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật
phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu
hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép
6
biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh
vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện

chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng
trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ
biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử- hệ
thống, nguyên nhân- kết quả, lượng- chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất,
quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ
định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
đó các nền triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển.
Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho
hành động.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về
mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân.
7
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và
phưng pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ
với phương pháp biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học cổ điển Đức, C.Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện
chứng, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lich sử triết học
và phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế

giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy.
2. Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Đáng giá về vấn đề này, Lenin có nói: “ trong khi nghiên cứu sâu và phát
triển CNDV triết học, Marx đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học
thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người.
CNDVLS của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận
khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện
vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị ”.
CNDVLS của Marx đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử xã hội lòai người, sự
thay thế của các hành thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên trong
các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng giũa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về kinh tế quyết định các
quan hệ về kiến trúc thượng tầng. Triết học lịch sử cũng phát hiện ra vai trò, sư
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người “đào huyệt chôn CNTB”, thực hiện
cách mạng XHCN, hướng đến mục tiêu giải phóng con người. Điều đó cho thấy
triết học Marx là triết học duy vật triệt để
3. Thứ ba: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất
biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần,
nên thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin
viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của
tính phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ,
thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được
8
áp dụng trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được
càng cao, càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết
khoa học muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm
tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá
trị tham gia vào qúa trình biến đổi hiện thực.

Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt
động thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận,
chủ nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại
của lý luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng
thì không có phong trào cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành
động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được những vấn đề của cuộc
sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với
thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý
luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận
động và phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học
làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”,
tự phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong
sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo
tưởng. Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không
được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có
nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.
4. Thứ tư: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng
Như chúng ta đã biết, học thuyết khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác, trong đó có triết học duy vật biện chứng, đã ra đời trên cơ sở kế thừa một
cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, mà trực tiếp nhất là triết
học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp; đồng thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời,
của thực tiễn lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội, mà còn là sự phát triển hợp
lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại.

Chủ nghĩa Mác, triết học Mác trước hết là thành tựu vĩ đại nhất của tư
9
tưởng khoa học loài người, là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy và vì thế, nó
trở thành một “hình thức tư duy quan trọng nhất”, cao nhất, thích hợp nhất đối
với sự phát triển của khoa học. Bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác, triết học
Mác không chỉ thể hiện ở hệ thống quy luật chung nhất của thế giới mà nó phản
ánh, mà còn thể hiện ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận khoa học
trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Rõ ràng là,
chủ nghĩa Mác, triết học Mác đã đem lại cho khoa học hiện đại một phương pháp
luận đúng đắn trong việc xem xét, lý giải bản thân sự phát triển của nó. Đó là
chức năng luận chứng và giải thích khoa học, chức năng tổng hợp tri thức, định
hướng và tiên đoán khoa học.
Là một học thuyết khoa học lý luận - đỉnh cao của trí tuệ loài người, chủ
nghĩa Mác, triết học Mác đã đem lại cơ sở khoa học đúng đắn cho việc luận
chứng và giải thích những hiện tượng của đời sống xã hội và quá trình lịch sử,
nhất là cho việc cải tạo thế giới hiện thực. Đúng như C.Mác đã từng khẳng định:
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn
đề là cải tạo thế giới”(1). Bởi thế, bản chất khoa học thống nhất về cơ bản với
bản chất cách mạng trong chủ nghĩa Mác, triết học Mác. Là thế giới quan khoa
học của giai cấp công nhân - giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, giữ vai trò trung
tâm của thời đại, chủ nghĩa Mác, triết học Mác đã trở thành vũ khí lý luận của
giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng mình, đồng
thời giải phóng toàn thể nhân loại. Bởi thế, như chính C.Mác đã khẳng định: Vũ
khí vật chất của triết học là giai cấp vô sản, cũng giống như vũ khí tinh thần của
giai cấp vô sản là triết học(2). Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa
Mác mà linh hồn của nó là phép biện chứng duy vật đã “đem lại sự giận dữ và
kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng…, vì
trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời
cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt

vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng
xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện
10
chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất
phê phán và cách mạng”(3).
Nói một cách khái quát, học thuyết Mác, triết học Mác đã trang bị cho
chúng ta hệ thống quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển và
thực tiễn trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm cải biến
cách mạng thế giới hiện tồn.
Bất chấp thực tiễn thăng trầm của thời đại, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng,
trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác, triết học Mác, với những luận điểm,
quan điểm và tư tưởng cơ bản thực sự khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên
giá trị, vẫn là lý tưởng cao đẹp nhất của loài người, là cách thức thay đổi và cải
tạo thế giới vì mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội.
5. Thứ năm: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Triết học Mac xác định được mối quan hệ giữa triết học với các khoa học
cụ thể khác. Trước Mac, người ta xem “triết học là khoa học của các khoa học”.
Tuy nhiên, triết học Mac ra đời đã chấm dứt quan điểm đó, đồng thời xác định
đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Vì vậy, không những không tách rời mà trái lại, triết học Mac càng
có mối liện hệ thống nhất và độc lập với các khoa học chuyên ngành. Mối liên hệ
đó thể hiện ở chỗ, sự phát triển của các khoa học khác đặt cơ sở cho những khái
quát mang tính phổ biến của triết học. Ngược lại, những kết luận của triết học trở
thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển
của các lĩnh vực khoa học. Chính vì đặc điểm này của triết học mà nhiều người
lầm tưởng “triết học là khoa học của các khoa học”!
Không những mang đến bản chất mới cho triết học, cuộc cách mạng trong triết
học do Mac và Engels thực hiện còn có ý nghĩa rất to lớn. Đó là CNDV và phép
biện chứng trong cuộc cách mạng triết học do Mac và Engels thực hiện đã đưa
triết học đến giai đoạn phát triển cao nhất và triệt để. ”Triết học của Mac là một

11
CNDV triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công
nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” (Lenin). Triết học Mac là công cụ vĩ đại
để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy
vvojt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử. Cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mac đưa CNXH phát triển từ không tưởng đến
khoa học và đưa phong trào công nhân đấu tranh từ tự phát lên tự giác. Triết học
Mac cũng đưa triết học nhân loại bước sang giai đoạn mới, giai đoạn cao nhất
của nó, giai đoạn CNDV biện chứng. Triết học Mac cũng đã xác định đúng đắn
đối tượng nghiên cứu của triết học, mở đường cho sự phát triển rực rỡ của triết
học về sau.
KẾT LUẬN
Trết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là
phép biện chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế
giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố
12
nhiên, trong chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận
điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện
xã hội và trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược
điểm chung của nó. Do vậy, quan điểm duy vật của những học thuyết đó thường
thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh
chống lại. Còn phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần
bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng
chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ
nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải
thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới
- chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nên có thể kết luận là “SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT BƯỚC NGOẶT TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC”

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa -Triết học Phần II Đại cương về Lịch sử Triết học - TS. Bùi
Văn Mưa (chủ biên), 2010.
2. PGS. TS. Lê Doãn Tá Triết học Mácxít quá trình hình thành và phát triển
(giai đoạn Mác Ăngghen và Lênin).
13
3. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin (Khoa triết học Trường ĐHKHXH
& NV - 1998).
4. Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và cao học thuộc ngành không chuyên
triết học tập I, II, III - NXB chính trị Quốc gia).
5. />6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006.
7. Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Văn Mưa (chủ biên), Giáo trình Đại cương lịch sử
Triết học, Nhà xuất bản Tổng hợp TP HCM, 2003.
8. Bùi Văn Mưa, Lê Thanh Sinh (chủ biên), Triết học – Phần 2 (dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB,
Trường ĐH Kinh tế TPHCM, 2008.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các
trường đại học và cao đẳng), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
10.Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử Triết học, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002.
14

×