Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.57 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Tiểu luận Triết học:
Sự ra đời của Triết học Mác là bước
ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học




Người thực hiện : Hà Thị Ngọc Thúy
STT : 10
LỚP : Quản trị kinh doanh Đêm 5
KHÓA : 20
TP. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2012
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 3
1. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác 3
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 3
1.2. Tiền đề lý luận 4
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên 4
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác 5
PHẦN II: TRIẾT HỌC MÁC RA ĐỜI LÀ MỘT BƯỚC NGOẶT CÓ Ý NGHĨA
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI 6
Thứ nhất: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 6
Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử 8
Thứ ba: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 9
Thứ tư: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng 10
Thứ năm: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể 10


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn
chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới
xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị đích thực
của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ
bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách mạng vào
khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc khôi phục và bảo
vệ những giá trị của triết học mácxít cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng
định vị trí và vai trò của triết học mácxít trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc sống,
trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Trong bài tiểu luận ngắn này em xin trình bày một cách
ngắn gọn và sơ lược quá trình hình thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng
mácxít: “Sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch
sử Triết học”. Vì thời gian và trình độ có hạn, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong được sự chỉ bảo của các thầy và những ai quan tâm đến vấn đề này.
4
PHẦN I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XIX. Sự ra đời của triết học
Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của sự phát triển của
lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế- xã hội cũng như
trình độ phát triển của khoa học tự nhiên ở thế kỉ XIX.
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu. Phương
thức sản xuất tư bản chủ ngày càng tỏ ra ưu việt hốn với các chế độ xã hội khác trong lịch
sử. Nước Anh và nước Pháp trở thành những quốc gia tư bản hùng mạnh, làm động lực
cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản châu Âu.

Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản tất yếu tạo ra trong lòng nó
một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản hiện đại. Trong Tuyên ngôn đảng cộng sản
C.Mác và Ăngghen viết : “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ
phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư
sản không những rèn nhứng vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại, những người vô sản.”
Trong thời kỳ này, ở Tây Âu, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã phát
triển ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn. Để cuộc đấu tranh giai cấp thắng lợi cần có một lý
luận khoa học dẫn đường đua giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự
giác. Lúc bấy giờ, lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Ximông, Phuriê,
Ôoen,… không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Do
đó, triết học Mác phải ra đời để đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinh thần của giai cấp vô
sản. Và giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí vật chất của triết học Mác. Hơn nữa, chỉ có
triết học Mác mới có khả năng cải tạo chủ nghĩa xã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã
hội khoa học.
5
1.2. Tiền đề lý luận
Tiền đề về lý luận của triết học Mác là biểu hiện quá trình tiếp nhận, trên tinh thần
phê phán những giá trị nổi bật trong triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát triển
của tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật và của phép biện chứng. Đó là kết quả của sự phát triển của triết học duy vật
trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đồng thời cũng là kết quả của sự phát triển
của phép biện chứng trong cuộc đấu tranh với phép siêu hình, trong lịch sử triết học. Tuy
nhiên, cần phải khẳng định rằng tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác
là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc.
Sự ra đời của triết học Mác còn xuất phát từ những giá trị mà nhân loại đạt được
trong lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh (Đại biểu là A.Xmít và Đ.Ricácđô), chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp và Anh (đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Ôoen). Nhờ những

giá trị tư tưởng trong các lĩnh vực này mà C.Mác và Ph.Ăngghen thấy rõ nền tảng vật
chất của sự phát triển lịch sử xã hội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo
về chủ nghĩa xã hội hiện thực trong tương lai.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Những năm 40 của thế kỷ XIX, R.Maye và P.P.Giulơ đã phát hiện ra định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, cho phép khẳng định: năng lượng không tự nhiên
sinh ra và cũng không bao giờ mất đi mà nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Năng lượng luôn gắn liền với sự vận động của vật chất; thế giới vật chất vận động và
phát triển thông qua quá trình chuyển hóa từ thấp đến cao của các dạng năng lượng.
Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, Svan và Slâyđen xây dựng học thuyết tế bào
cho phép khẳng định: tế bào là cơ sở vật chất thống nhất của mọi sinh thể (thực vật và
động vật), tức thống nhất toàn bộ quá trình lịch sử của sự sống từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp. Bản chất của sự sống là một quá trình phát triển biểu hiện tính thống
nhất, tính liên hệ của thế giới tự nhiên.
6
Năm 1859, Đácuyn đã xây dựng học thuyết tiến hóa cho phép khẳng định: quá
trình vận động, biến đổi từ thấp đến cao của động vật và thực vật, thông qua quá trình
chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo, tức khẳng định nguồn gốc, nguyên nhân vật chất
của mọi sự phát triển trong thế giới sinh thể và phủ nhận vai trò sáng thế của chủ nghĩa
duy tâm, tôn giáo.
Những thành tựu này đã làm lung lay tận gốc các quan niệm duy tâm, siêu hình về
nhận thức thế giới tự nhiên; đồng thời, khẳng định các tư tưởng nền tảng của phép biện
chứng duy vật về mọi sự tồn tại trong thế giới. Khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận
trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác; và những khái quát của
triết học Mác đã đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp luận cho các lĩnh vực khoa
học cụ thể trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Như vậy, triết học Mác ra đời là sản phẩm của lịch sử. Nó mang tính quy luật của
sự phát triển của khoa học và triết học nói riêng, của toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại
nói chung.
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác

Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá trình
trải qua các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy
tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa;
+ Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử;
+ Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học;
+ Giai đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác.
7
PHẦN II: TRIẾT HỌC MÁC RA ĐỜI LÀ MỘT BƯỚC NGOẶT CÓ Ý NGHĨA
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC NHÂN LOẠI
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử triết
học nhân loại. Toàn bộ hệ thống triết học do C.Mác và Ăngghen thực hiện đã chứng
minh một cách bản chất và sinh động giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao của học thuyết
Mác.
Thứ nhất: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách
rời nhau. Các nhà duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng, nhưng suy cho cùng
do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học cho nên họ vẫn bị chi phối bởi
phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng bịên chứng đã đạt được những thành tựu lớn lao
trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ
thồng triết học duy tâm thần bí. Do đó, nhìn chung, lịch sử triết học trước Mác thể hiện
thế giới quan duy vật trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình, hoặc là
thế giới duy tâm trong mối quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng.
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp thực tiễn
cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng. Dựa
trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ
thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho
sự ra đời của phép biện chứng duy vật.

Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép biện chứng và
vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần thánh hoá tư
duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm
Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình (Triết học
cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy vật không
8
chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các ông đã xây
dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư
duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác
nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen
"đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ biến trong
tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện chứng là "học thuyết
về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự
vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn
tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự
giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ
được khái quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả,
lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của
các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ
lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết
học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm
người thiểu số trong xã hội.

Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được
bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính sự
phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận
chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh"
(1876 -1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số
tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"
(1908 -1909), "Bút ký triết học".
9
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về mặt
lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu
về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện
chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của
V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa
như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và phưng
pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ với phương pháp
biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học cổ điển
Đức, C.Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình thức phát triển cao nhất của
chủ nghĩa duy vật trong lich sử triết học và phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa
học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy. Chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng trong triết học C.Mác và Ph.Ăngghen là cơ sở hình thành nên
triết học vĩ đại nhất trong lịch sử : triết học Mac-Lênin. Đánh giá về tính triệt để trong
triết học Mác, V.I.Lênin viết: “ Triết học của Mác là một triết học hoàn bị, nó cung cấp
cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
Thứ hai: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở rộng
chue nghĩa duy vật sang xã hội loài người, hình thành nên chủ nghĩa duy vật lịch sử
.V.I.Lenin đánh giá rằng : “ Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật

triết học, Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chõ hoàn bị và mở rộng nhận thức ấy từ chỗ
nhận thức giới tự nhiên đến chõ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức
hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự tuỳ tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các
quan niệm về lịch sử và chính trị ”
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử
xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử – tự
nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng giữa lực lượng sản xuất
10
và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ
về kiến trúc thượng tầng. Triết học lịch sử cũng đã phát hiện vai trò sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” thực hiện cách mạng xã
hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu giải phóng con người. Với bản chất duy vật triệt để
trong lĩnh vực xã hội, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế
giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một bước nhảy vọt so với các hệ thống triết học
khác trong lịch sử.
Thứ ba: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Triết hoc Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự
vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm mục đích
cải tạo thế giới.Vì vậy sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc cơ bản của triết học Mác.
Trong lịch sử các hệ thống triết học trước Mác, kể cả các hệ thống triết học tiến
bộ, đều chưa thấy vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu
chuẩn của chân lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là hướng
đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Vì vậy tách rời giữa lý luận và thực tiễn là
đặc điểm vốn có của triết học trước Mác.
Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn mới được xem là một nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động.
C.Mác viết : “ Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến
nay- kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc- là sự thật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ

được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không nhận thức
là hoạt động cảm giác con người, là thực tiễn không nhận thức về mặt chủ quan”. “ Vấn
đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con
người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính
trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực và tính không hiện thực của
tư duy tách rời hiện tượng, là một vấn đề kinh viện thuần tuý”. “ Các nhà triết học đã chỉ
11
giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề cải tạo thế giới”. Đó là biểu
hiện của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong triết học Mác- Lênin
Thứ tư: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. tính khao học
càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính cách mạng
càng cao, càng triệt để.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở từng bản chất khoa học của học thuyết,
trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Triết
hoc Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng, sự thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy
vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải đi theo để thoát khỏi
chế độ nô lệ về mặt tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ
trước tới nay”. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản
là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai.
Tính cách mạng của triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách mạng
của phép biện chứng. C.Mác cho rằng : “ Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ
đem lại sự giận giữ và kinh hoàng cho cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều
của chúng mà thôi, vì trong tính tích cực của cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng bao
đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong
tất yếu của nó; Vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét trong sự vận
động, tức là xét cả mặt tức thời trong sự vận động hình thái đó; vì phép biện chứng không
khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và tính cách

mạng”
Thứ năm: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi: “triết học là khoa
học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm đó, đồng thời xác
định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên ,
xã hội và tư duy. Vì vậy không những không tách rời mà trái lại triết học Mác càng có
mối quan hệ thống nhất và độc lập với các chuyên ngành. Sự phát triển của các khoa học
12
khác nhau trong nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát
mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác những kết luận của triết học trở thành thế giới
quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của của các lĩnh khoa
học. Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu khoa học của
tự nhiên và xã hội là tiền đề cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày càng vận
động, phát triển, đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng
cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau. Không có triết học
duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến lên. Ph.Ăngghen viết: “ Sinh lý học,
-tế bào( quá trình phát triển hữu cơ của một cá thể riêng lẻ cũng như của các loài, giống
bằng con đường phân hoá là chứng cớ hiển nhiên nhất của phép biện chứng hợp lý); và
cuối cùng, sự đồng nhất giữa lực lượng của tự nhiên và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
chúng chấm dứt tính cố định của các phạm trù phép biện chứng trở thành một sự cần
thiết tuyệt đối cho khoa học tự nhiên ”. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay
càng chứng minh cho mối quan hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con
đường nhận thức và cải tạo thế giới.
13
KẾT LUẬN
Bằng việc trình bày sự ra đời của triết học Mác cùng với bước ngoặt vĩ đại trong
triết học, có thể khẳng định: Học thuyết Mác – Lênin là hệ tư tuởng cách mạng nhất
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Học thuyết đó là khối thống nhất vững
chắc của ba bộ phận cấu thành là Triết học, Kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học trong đó Triết học đóng vai trò thế giới quan và phương pháp luận nói

chung. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan và phương pháp luận khọa học nhất,
cách mạng nhất; là thành quả vĩ đại của triết học thế giới.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin một cách có hệ
thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của
phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định hướng tư
tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu
hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
Nghiên cứu triết học Mác- Lênin là một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi có
nhiều công sức của các nhà triết học với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn
khổ một bài viết nhỏ không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn như
vậy, do đó em rất mong sự đóng góp ý kiến khoa học của các thầy cô giáo và các bạn học
viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Lê Doãn Tá.
Triết học Mácxít quá trình hình thành và phát triển (giai đoạn Mác Ăngghen và Lênin)
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin (Giáo trình dùng trong các trường Đại học, Cao đẳng -
NXB chính trị quốc gia 2002)
3. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin (Khoa triết học Trường ĐHKHXH & NV -
1998)
4. Triết học (Phần I) dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học.
15

×