Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.24 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
&
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước
ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
Người thực hiện : Lê Thanh Phong
STT : 122
Lớp : CHKTĐ5
Khóa : 21
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh, Năm 2012
PHỤ LỤC
Lời mở đầu
1
I. Hoàn cảnh ra đời của triết học Mác
2
1. Điều kiện kinh tế xã hội
2
2. Tiền đề lý luận
2
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
3
II. Những bước ngoặt cách mạng của triết học Mác
4
1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen
4
2. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện
.7
2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng


7
2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
8
2.3 Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
9
2.4 Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
9
2.5 Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
10
Kết luận
11
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
“Triết học là đơn đặt hàng của lịch sử”, câu nói này quả thật không sai,
điều này đã được chứng minh ngay từ khi triết học ra đời, thông qua triết học
chúng ta có thể nắm bắt được các vấn đề của thời đại, tâm tư nguyện vọng của
con người, ứng với các trường phái triết học khác nhau nó sẽ có cách lý giải các
sự vật hiện tượng khác nhau, có các vấn đề nghiên cứu cơ bản khác nhau, chẳng
hạn như triết học của Trung Quốc gắn liền với vấn đề chính trị xã hội, triết học
Ấn Độ gắn liền với các vấn đề tôn giáo, triết học Hy Lạp gắn liền với các vấn đề
khoa học tự nhiên. . . và ngày nay khi nhắc đến triết học, chúng ta không thể
không nhắc đến triết học Mác, một cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan,
gắn liền với con người và hướng đến con người. Trong phần tiểu luận này chúng
ta chỉ tìm hiểu đến triết học Mác và chỉ tập trung vào “Sự ra đời của triết học
Mác là một bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử Triết học”. Chủ
nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn chỉnh, là
vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực
tiễn mới xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại
những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nắm bắt các nguyên lý cơ

bản của triết học duy vật biện chứng và vận dụng học thuyết cách mạng đó một
cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn là vấn đề cấp bách và cần thiết trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Để giải quyết các vấn
đề trên ta có thể dựa vào các tài liệu sau: Giáo trình triết học (Phần I, dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), TS.
Bùi Văn Mưa; C.Mác và Ăngghen toàn tập NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1995.
Vì thời gian và trình độ có hạn, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Em mong được sự chỉ bảo của thầy và những ai quan tâm đến vấn đề này.
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
I. Hoàn cảnh ra đời của triết học Mác
1. Điều kiện kinh tế xã hội
Đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh ở các nước Tây
Âu, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và
trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn
thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp.
Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được
củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó
mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân
hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng, dẫn đến sự hình thành của
giai cấp vô sản công nghiệp. Sự ra đời của giai cấp vô sản công nghiệp đã
tạo ra một quan hệ đối lập ngày càng gây gắt với giai cấp tư sản, phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ và
rộng lớn. Để cuộc đấu tranh giai cấp thắng lợi cần phải có một lý luận
khoa học dẫn đường, do đó triết học Mác ra đời để đáp ứng nhu cầu là vũ
khí tinh thần của giai cấp vô sản .
2. Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình
phát triển của tư tưởng triết học của nhân loại mà ảnh hưởng trực tiếp là

triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc
Đối với triết học của Hêghen, C.Mắc và Ph.Ăngghen đã triệt để phê phán
tính chất duy tâm, thần bí nhưng đồng thời cũng đánh giá cao tư tưởng
biện chứng trong triết học của ông, bằng thiên tài của mình C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm thành phép biện
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 5
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chứng duy vật để nó đóng vai trò công cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đối với triết học của Phoiơbắc tuy
còn mang nặng quan điểm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan
điểm duy vật. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc khắc
phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng thế
giới quan duy vật biện chứng của mình.
Nhờ những giá trị tư tưởng trong các lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh
(đại biểu là A.Xmít và Đ.Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
(đại biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Ooen) mà C.Mác và Ph. Ăngghen
đã xây dựng nên quan điểm duy vật lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hội
hiện thực trong tương lai
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về
khoa học tự nhiên với nhiều phát minh quan trọng như: Định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng (R.Maye và P.P.Giulơ), thuyết tế bào (Svan và
Slâyđen), học thuyết tiến hóa (Đắcuyn). Những phát minh khoa học đó đã
vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận
động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính
biện chứng của sự vận động và phát triển, phương pháp tư duy siêu hình
và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen
đã bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực, đặt ra yêu cầu cho thời đại là cần
có một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những tiền khoa
học trong giai đoạn này là cơ sở cho sự ra đời của triết học Mác mà điển

hình là triết học duy vật biện chứng, đáp ứng được nhu cầu nhận thức và
cải tạo thực tiễn xã hội mà thời đại lịch sử mới đặt ra. Như vậy, triết học
Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống thực tiễn mà
còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 6
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
II. Những bước ngoặt cách mạng của triết học Mác
1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen
Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa cộng sản (trước năm 1844)
Trong giai đoạn đầu hoạt động khoa học và chính trị C.Mác và Ăngghen
chịu sự ảnh hưởng bởi tư tưởng của triết học Hêghen và Phoiơbắc, hai ông
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm dân chủ cách
mạng. Từ quá trình hoạt động báo chí và tìm hiểu phong trào công nhân
C.Mác đã thấy được bản chất của giai cấp tư sản là bốc lột, ông đã đứng ra
bảo vệ lợi ích của những người lao động nghèo khổ, cổ vũ cuộc đấu tranh
vì tự do dân chủ, phê phán sự áp bức bốc lột. Quá trình này đã giúp ông
nhận thức sâu sắc hơn về những mặt hạn chế của triết học Hêghen và từ
đó C.Mác đã chuyển dần từ khuynh hướng duy tâm và lập trường dân chủ
cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản,
từng bước hoàn chỉnh hệ thống triết học của mình cả về thế giới quan và
phương pháp luận
Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1848)
Năm 1844 qua tác phẩm “Bản thảo kinh tế-triết học” C.Mác tiếp tục phê
phán triết học của Hêghen đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là
phép biện chứng. C.Mác đã phát hiện ra bản chất của chủ nghĩa tư bản –
xã hội đối kháng giữa người công nhân và nhà tư bản. Ông nhận xét sở
hữu tư nhân trong xã hội tư bản là nguyên nhân của sự tha hóa của lao

động và con người, biến sức lao động thành hàng hóa, muốn khắc phục sự
tha hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Với sự phân tích trên,
Mác luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 7
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
triển xã hội. Theo Mác “chủ nghĩa cộng sản coi như chủ nghĩa tự nhiên
hoàn bị = chủ nghĩa nhân đạo”( 3, trang 128)
Năm 1845, C.Mác đã phát thảo “Luận cương về Phoiơbắc” nêu lên những
khuyết điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước đây trong việc nhận thức
về con người, lịch sử và phương pháp nhận thức.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức". Hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ
thống. Nội dung của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư
cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử
nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, đó là
những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên
của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã
hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ
hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.
( />option=com_content&task=view&id=378&Itemid=265). Hai ông quan
điểm việc sản xuất ra đời sống vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại, mà
yếu tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, sẽ quyết định mọi trạng thái
của lịch sử xã hội, điều đó càng làm rõ hơn quan điểm duy vật về lịch sử
của hai ông, đây là cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tháng 2 năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Cộng sản về chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong đó trình bày một cách triệt
để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Trong chương I Tư sản và Vô sản, hai ông đã nêu ra những quy

luật chi phối sự phát triển của xã hội vạch ra sứ mệnh của giai cấp vô sản
là những người đào huyệt chôn giai cấp Tư sản, và sự sụp đỗ của giai cấp
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 8
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Tư sản cũng như sự thắng lợi của giai cấp Vô sản là điều tất yếu “Cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp
tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sạch dưới
chân giai cấp tư sản. Trước hết giai cấp tư sản sinh ra những người đào
huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai
cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” (2, trang 613). Trong chương II
Những người vô sản và những người cộng sản hai ông đã làm sáng tỏ vai
trò của Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo cuộc
đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản, với mục tiêu trước mắt là tổ chức
cuộc đấu tranh chính trị để lật đổ giai cấp tư sản giành chính quyền về tay
mình và mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản
(1, trang 251). Trong chương III Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa, hai ông đã phê phán sâu sắc các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản và
tư sản đang ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào đấu tranh của gia
cấp công nhân như “Chủ nghĩa xã hội phản động”, “Chủ nghĩa xã hội bảo
thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản”, “Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
không tưởng phê phán”(1, trang 252). Trong chương IV thái độ của những
người cộng sản đối với các đảng đối lập, hai ông đã trình bày chiến lược
sách lược phương pháp và mục tiêu cách mạng (1, trang 252). Với Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung đã
hình thành và sẽ được C.Mác và Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong
thời gian sau.
Giai đoạn C.Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, học thuyết Mác tiếp tục được bổ
sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách
mạng mà Mác và Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh tụ

thiên tài của phong trào công nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình,
Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 9
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó, học
thuyết của các ông cũng không ngừng được phát triển.
Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng,
C.Mác đã bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và
triết học Mác nói riêng. Điều đó được biểu hiện qua một số tác phẩm như:
"Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh
Gôta". Đặc biệt là bộ “Tư bản”, bằng phương pháp biện chứng duy vật ,
C.Mác đã làm rõ quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài
người thông qua việc phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong khi
đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác phẩm
như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v Trong các tác phẩm đó,
ngoài việc phê phán các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật
tầm thường, ông đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống
lý luận hoàn thiện hơn.
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử triết học nhân loại. Nó thể hiện giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn to
lớn của học thuyết Mác.
2. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện
2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Các nhà duy vật trước Mác dù đã thể hiện được tinh thần biện chứng
nhưng vẫn mang trong nó tính chất siêu hình do hạn chế bởi điều kiện lịch
sử và khoa học. Trong khi đó phép biện chứng lại được phát triển trong
cái vỏ tư duy thần bí của một số đại biểu triết học cổ điển Đức, mà điển
hình là triết học Hêghen. C.Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách có

phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 10
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
vật triết học triệt để, không điều hòa với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu
hình. Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và
phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học; tạo ra hình thức cao
nhất của chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo ra hình
thức cao nhất của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng trong triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen là
cơ sở để hình thành nên hệ thống triết học Mác – Lênin.
2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Giải thoát chủ nghĩa duy tâm khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã làm
cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ
nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Lần đầu tiên
trong lịch sử triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa quan điểm duy vật
biện chứng vào việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Đó là sự sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng về xã hội (chủ nghĩa duy vật lịch sử): "Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
học”( 6, trang 53). Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định.
Triết học duy vật lịch sử đã nêu cao vai trò lịch sử của giai cấp công nhân
là người “đào nguyệt chôn chủ nghĩa tư bản” xây dựng một xã hội công
bằng, bình đẳng, văn minh – chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của triết học
duy vật lịch sử được xem là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học
về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
2.3 Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 11
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Lịch sử triết học trước Mác đã tách rời giữa lý luận và thực tiễn, không

thấy được vai trò của thực tiễn cũng như ý nghĩa thực tiễn cao nhất của
triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Với sự
ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. Triết học Mác
không chỉ giải thích thế giới, mà chủ yếu vạch ra những con đường
những phương tiện cải tạo thế giới, . “Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”( 2,
trang 12). Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết
học của ông với các học thuyết triết học trước kia. Vì vậy sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác.
2.4 Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp
tiến bộ và khoa học nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ
bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội. Mác cho thấy sự thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử,
phù hợp với quy luật khách quan. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của
giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác
trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai. Sự thống nhất giữa tính khoa
học với tính cách mạng trong triết học Mác được thể hiện thông qua lợi
ích của giai cấp công nhân không đối lập mà phù hợp với tiến trình phát
triển của lịch sử vì vậy giai cấp công nhân luôn luôn quan tâm đến sự
nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan. Sự kết hợp lý luận của chủ
nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất
của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác không ngừng
được bổ sung và phát triển do những thành tựu của các ngành khoa học,
hoạt động thực tiễn mang lại.
2.5 Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 12
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Sự ra đời của triết học Mác đã làm thay đổi hoàn toàn quan điểm truyền

thống xem triết học là “khoa học của các khoa học”, hòa lẫn hoặc tách rời
với các khoa học cụ thể. Triết học Mác không xem triết học là khoa học
của mọi khoa học, không hòa lẫn với các khoa học cụ thể mà cũng không
tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác
không chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái
quát những thành tựu của khoa học cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú cho
triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách
quan. Ngược lại, triết học Mác lại trở thành thế giới quan khoa học và
phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học cụ
thể. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần
thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý
luận triết học Mác dựa trên thành tựu của khoa học hiện đại.
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 13
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Kết luận
Sự ra đời của triết học Mác đã đánh dấu một bước ngoặt cách mạng vĩ đại
trong lịch sử triết học thế giới, nó đã làm cho vị trí của triết học trong hệ
thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản. Từ khi
ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô
sản, là cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội, từ đó định ra
đường lối chiến lược và đề ra biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu
quả. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư
sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng
tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự ra
đời của triết học Mác đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi “triết
học là khoa học của mọi khoa học”, triết học Mác đã trở thành thế giới
quan khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của
các khoa học.
Ngày nay việc nghiên cứu triết học Mác có một vai trò hết sức quan trọng

trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Việc nắm
vững triết học Mác sẽ giúp chúng ta có được một nền tảng lý luận cách
mạng, có một cơ sở khoa học vững chắc, tạo điều kiện cho chúng ta có
khả năng nắm bắt cũng như tiếp cận các vấn đề của thời đại một cách
nhanh chống và hiệu quả.
Người thực hiện: Lê Thanh Phong Trang 14
Tài liệu tham khảo
1. TS. Bùi Văn Mưa , Giáo trình triết học Phần I, dùng cho học viên cao học
và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học, Khoa Lý luận
chính trị, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
2. C.Mác và Ăngghen toàn tập NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
3. C.Mác, Bản thảo kinh tế-triết học 1844, NXB Sự thật Hà nội 1962
4. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vui, Giáo trình Triết
học Mác - Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng, tái bản lần thứ
ba có sửa chữa, bổ sung)
5. Đề cương bài giảng triết học Mác – Lênin, Khoa triết học Trường
ĐHKHXH & NV – 1998
6. V.I. Lênin, Toàn tập, NXb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980
7. />option=com_content&task=view&id=378&Itemid=265

×