Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.13 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt
cách mạng trong lịch sử triết học

Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Hồng Trang
Số thứ tự : 126
Nhóm : 13
Lớp : Đêm 5
Khóa : K21
Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 2 năm 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

MỤC LỤC

Lời mở đầu .…………………………………………………………………… 1
Chương I: Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác …………………… 2
1. Điều kiện kinh tế - xã hội ………………………………………………… 2
2. Tiền đề lý luận ………………………………………………………………2
3. Tiền đề khoa học tự nhiên ………………………………………………… 3
Chương II: Phân tích làm rõ tính bước ngoặt cách mạng của sự ra đời triết
học Mác trong lịch sử triết học ……………………………………………… 5
1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng …………………5
2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử ……………………………………….6
3. Thống nhất lý luận và thực tiễn …………………………………………… 7
4. Thống nhất tính khoa học và tính cách mạng ……………………………….8
5. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể ……… 9
Kết luận ……………………………………………………………………… 11
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………….12


Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
Lời mở đầu
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì
vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp
công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Mác & Ăngghen đã kế thừa
một cách có phê phán những thành tựu tư duy của nhân loại trong các lĩnh vực
triết học, văn học, khoa học tự nhiên, từ đó sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật triết
học triệt để, không điều hòa với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình, giúp con
người nhận thức và cải tạo thực tiễn xã hội. Triết học Mác - Lênin do Mác &
Ăngghen sáng lập ban đầu, Lênin bảo vệ và phát triển sau này đang đóng vai trò
ngày càng quan trọng trong công cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ trên toàn
thế giới nhằm hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì
vậy, việc nhận thức đầy đủ ý nghĩa về sự ra đời của triết học Mác đối với lịch sử
triết học là điều cần thiết. Do đó, em chọn đề tài “Sự ra đời của triết học Mác là
bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học” cho bài tiểu luận của mình.
Trên cơ sở tham khảo các tài liệu chính là Giáo trình triết học (dùng cho học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học) của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, NXB chính trị-hành chính, Hà Nội, 2008; Tài liệu Triết học
(Phần I: đại cương về lịch sử triết học), TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), 2011em đã
xem xét lại một cách khái quát về điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác,
từ đó phân tích làm rõ tính bước ngoặt cách mạng của sự ra đời triết học Mác
trong lịch sử triết học.
Triết học đã ra đời phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là quá trình không đơn giản, và
triết học Mác lại là một thành tựu nổi bật trong lịch sử triết học. Do đó, những
kiến thức mà em thu nhận được và trình bày trong tiểu luận này chỉ giới hạn
trong những tài liệu em tìm được và sự nhận thức của chính bản thân đọc những
tài liệu đó nên không tránh khỏi nhầm lẫn và thiếu sót. Kính mong nhận được sự
thông cảm và góp ý của Thầy để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

1
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
Chương I: Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu của lịch sử, nó ra đời do sự đòi
hỏi của thực tiễn kinh tế - xã hội, đồng thời dựa trên những tiền đề cần thiết về lý
luận và khoa học đạt được thời đó.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội:
Những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn
phát triển mới. Đặc biệt vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở
Anh, Pháp và một phần ở Đức. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển càng sản sinh ra
trong lòng nó một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản công nghiệp hiện đại. Sự
ra đời của giai cấp vô sản công nghiệp đã tạo ra một quan hệ đối lập ngày càng
gay gắt với giai cấp tư sản. Quan hệ này là biểu hiện của mâu thuẫn về mặt kinh
tế giữa trình độ phát triển cao và tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với
sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này được
biểu hiện thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp hết sức quyết liệt ở Tây Âu (tiêu
biểu là cuộc khởi nghĩa của công nhân thợ dệt ở LiÔng (Pháp) năm 1831 và
1834, phong trào hiến chương ở Anh những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX, cuộc
khởi nghĩa của công nhân thợ dệt Xilêdi (Đức) năm 1844). Để cuộc đấu tranh
giai cấp thắng lợi cần phải có một lý luận khoa học dẫn đường, đưa giai cấp công
nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác. Lúc bấy giờ, lý luận về chủ
nghĩa xã hội không tưởng của XanhXimông, Phuriê, Ôoen,…không đáp ứng
được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Vì vậy, triết học
Mác đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Và với sự ra đời của triết học Mác,
giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần của mình. Mác
viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai
cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình” [4; 589].
2. Tiền đề lý luận:
Triết học Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa có phê phán toàn bộ

những thành tựu tư tưởng của nhân loại sáng tạo ra ở thế kỷ XIX, đó là triết học
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp -
Anh.
Triết học Mác đã kế thừa có phê phán toàn bộ triết học trước đó, đặc biệt là
triết học cổ điển Đức. Triết học cổ điển Đức với hai thành tựu gắn liền với tên
tuổi của hai đại biểu nổi tiếng, đó là: chủ nghĩa duy vật của Phoiơbăc và phép
biện chứng của Hêghen. Mác & Ăngghen đã kế thừa những lý luận tiến bộ của
hai vị tiền bối này nhưng phê phán tính chất duy tâm trong phép biện chứng của
Hêghen và tính chất siêu hình trong chủ nghĩa duy vật của Phoiơbăc để sáng tạo
nên chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì vậy, triết học cổ điển Đức được coi là
nguồn gốc lý luận trực tiếp cho sự ra đời triết học Mác vì nó đóng vai trò quan
trọng về mặt lý luận đối với sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của
Mác & Ăngghen.
Cùng với triết học cổ điển Đức, Mác & Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng
tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh (đại biểu là A.Xmít, Đ.Ricácđô)
và của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp - Anh (đại biểu là
Xanhximông, S.Phuriê, R.Ôoen). Nhờ những giá trị tư tưởng trong các lĩnh vực
này mà Mác & Ăngghen thấy rõ nền tảng vật chất của sự phát triển lịch sử xã
hội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hội
hiện thực trong tương lai.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên:
Ngoài tiền đề về kinh tế xã hội và tiền đề về lý luận, sự ra đời của triết học
Mác còn gắn liền với tiền đề về khoa học tự nhiên. Tiền đề khoa học tự nhiên của
triết học Mác là những phát minh lớn của nhân loại vào giữa thế kỷ XIX, đó là:
học thuyết tế bào (Svan & Slâyđen), học thuyết tiến hóa (Đácuyn), định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng (R.Maye & P.P.Giulơ).
Những thành tựu này đã làm lung lay tận gốc các quan niệm duy tâm, siêu

hình về nhận thức thế giới tự nhiên; đồng thời khẳng định các tư tưởng nền tảng
(nguyên lý) của phép biện chứng duy vật về mọi sự tồn tại (thống nhất vật chất,
liên hệ phổ biến, vận động, phát triển) trong thế giới. Khoa học tự nhiên mang
tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác; và
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
3
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
những khái quát của triết học Mác đã đặt cơ sở về thế giới quan và phương pháp
luận cho các lĩnh vực khoa học cụ thể trong nhận thức thế giới khách quan.
 Kết luận: Như vậy, triết học Mác cũng như chủ nghĩa Mác ra đời là sản
phẩm của lịch sử, đáp ứng yêu cầu của lịch sử đề ra. Nó mang tính quy luật về sự
phát triển của khoa học và triết học nói riêng, của toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân
loại nói chung. Chính Mác & Ăngghen là những thiên tài đã khái quát được toàn
bộ tiến trình lịch sử và văn hóa tinh thần mà loài người đã đạt được để xây dựng
học thuyết triết học duy vật biện chứng, đáp ứng được nhu cầu nhận thức và cải
tạo thực tiễn xã hội mà thời đại lịch sử mới đặt ra. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác…
không nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái
lại, toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề
mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự
thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong
triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội” [9; 49-50].
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
4
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
Chương II:
Phân tích làm rõ tính bước ngoặt cách mạng
của sự ra đời triết học Mác trong lịch sử triết học
Sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học. Điều đó thể hiện ở những điểm sau:
1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng:

Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học.
Các nhà triết học duy vật trước Mác, dù đã thể hiện những tư tưởng biện
chứng nhưng do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học nên họ vẫn chịu
sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng biện chứng đã đạt được
những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học
Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm, thần bí. Mác &
Ăngghen đã triệt để phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong triết học Hêghen,
nhưng đồng thời đánh giá cao tư tưởng biện chứng của ông. “Tính chất thần bí
mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản
Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những
hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị
lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân
hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó” [2; 494]. Bằng thiên tài của mình,
Mác & Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm trở thành phép biện chứng
duy vật triệt để nhất, để phép biện chứng duy vật trở thành công cụ nhận thức các
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Một đại biểu khác trong triết học cổ điển Đức có ảnh hưởng lớn đến sự hình
thành quan điểm triết học của Mác & Ăngghen là Phoiơbắc. Ông là nhà triết học
duy vật, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là chủ nghĩa duy vật nhân bản. Mác &
Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc nhưng đồng thời cũng
phê phán tư duy siêu hình và duy tâm về lịch sử của ông. Theo Ăngghen, đóng
góp của triết học Phoiơbắc là đã đưa “chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua ” [7;
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
5
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
41], đồng thời cũng chỉ ra nguyên nhân dẫn tới những hạn chế - tính chất máy
móc, siêu hình và duy tâm về mặt lịch sử của triết học này là do chưa vượt qua
được hạn chế của thời đại mình. Mác & Ăngghen đã nhận thức một cách chính
xác những đóng góp và hạn chế của Phoiơbắc, làm tiền đề cho sự hình thành và

phát triển thế giới quan duy vật biện chứng của mình.
Như vậy, Mác & Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn
chế của nó là tính siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy
tâm. Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật và phương pháp siêu hình đều được các
ông nâng lên về chất để trên cơ sở đó sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Mác & Ăngghen là cơ sở
để hình thành nên hệ thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử: triết học Mác -
Lênin. Đánh giá về tính chất triệt để trong triết học Mác, Lênin viết: “Triết học
của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người
và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” [9; 54].
2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử:
Trước triết học Mác, đã có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã
hội; tuy nhiên, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học
thuyết đó mới chỉ nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể nào đó mà chưa nghiên cứu
toàn diện xã hội. Do đó đã không thể tìm ra được quy luật phát triển chung của
xã hội loài người. Mác & Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện
chứng để nghiên cứu toàn diện xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã
hội loài người và tiến trình phát triển tất yếu của nó. Từ đó xây dựng và sáng lập
ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là một bộ phận của triết học Mác.
Lênin đánh giá rằng: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật
triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ
chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận
khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện,
vẫn ngự trị từ trước tới nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị ” [9; 53].
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
6
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
Trong khi các nhà triết học trước Mác giải thích lịch sử theo tính chất duy
tâm; kể cả nhà duy vật nổi tiếng trong lịch sử là Phoiơbắc, Phoiơbắc đã đứng trên

quan điểm duy vật để giải thích các hiện tượng tự nhiên, còn khi chuyển sang
lĩnh vực lịch sử xã hội thì ông không còn đứng vững trên quan điểm duy vật nữa
mà sử dụng quan điểm duy tâm để giải thích. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác
đã làm được điều trước đó không ai làm được, đó là mang lại cho xã hội loài
người cái nhìn duy vật và phép biện chứng duy vật. Điều này thể hiện ở chỗ Mác
chỉ ra nền tảng vật chất của xã hội là phương thức sản xuất “Phương thức sản
xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái
lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển
nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách
mạng xã hội” [6; 14 - 15].
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của
lịch sử xã hội loài người, sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ
về kinh tế, cơ sở hạ tầng quyết định các quan hệ về chính trị, kiến trúc thượng
tầng. Triết học duy vật lịch sử cũng phát hiện ra vai trò sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, thực hiện cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người
khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh -
chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy có thể nói, sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã loại bỏ được
cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.
3. Thống nhất lý luận và thực tiễn:
Triết học Mác khác về chất so với triết học trước kia, các học thuyết triết
học trước đó thường mới dừng lại ở việc giải thích thế giới nên họ chưa đề cập
đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận, do đó lý luận thường tách rời
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
7

Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
với thực tiễn. Vì vậy, các học thuyết triết học trước Mác thường không tránh khỏi
tình trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả trong triết học
Phoiơbắc, tuy coi vấn đề con người là trung tâm thế giới nhưng đây chỉ mới là
con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải là con người với tính cách là chủ
thể hoạt động cải tạo thế giới. Khi phê phán cách hiểu trừu tượng về con người
của Phoiơbắc, Ăngghen viết: “Về hình thức, ông là một người hiện thực chủ
nghĩa, ông lấy con người làm xuất phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến
thế giới trong đó con người ấy sống, vì vậy, con người mà ông nói, luôn luôn là
con người trừu tượng” [7; 420]. Còn triết học Mác đã xác định rõ: “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới” [5; 12]. Do đó, triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã
hội, cải tạo thế giới của con người làm điểm xuất phát và thông qua quá trình
hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự
gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự
quyết định của thực tiễn và khi ra đời, lý luận quay về định hướng hoạt động thực
tiễn.
4. Thống nhất tính khoa học và tính cách mạng:
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm trong mình bản tính cách
mạng của nó; và bản chất cách mạng của triết học Mác cũng đã thể hiện trong
bản tính khoa học của nó.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở trong bản chất khoa học của học
thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản. Thông qua hoạt động cải tạo thế giới, qua vai trò và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản, triết học Mác đã chứng minh sự thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy vật
triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi
chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ
trước tới nay” [9; 57 - 58]. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản,

còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh vì
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
8
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
xã hội tương lai. Đồng thời, thông qua hoạt động cải tạo thế giới, triết học Mác
không ngừng được điều chỉnh, bổ sung để phản ánh đúng thế giới khách quan.
Bản tính khoa học và cách mạng trong triết học Mác biểu hiện ở bản chất
khoa học và cách mạng của phép biện chứng, Mác cho rằng: “Dưới dạng hợp lý
của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản
và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về
cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về
sự phủ nhận cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình
thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét
cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước
một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng” [3; 35 -
36].
5. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể:
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước Mác coi “triết học là
khoa học của mọi khoa học”. Khi quan điểm này sụp đổ, người ta xem triết học
không là gì cả, triết học bị tẩy chay. Còn Mác thì cho rằng: “triết học không phải
là khoa học của mọi khoa học nhưng có thể là khoa học”, nghĩa là triết học chi
phối các quy luật vận động phát triển của xã hội, nhưng khác với các khoa học
chuyên ngành chỉ nghiên cứu và giải thích một lĩnh vực cụ thể, triết học nghiên
cứu những quy luật chung nhất chi phối tự nhiên và đời sống con người. Do đó,
không những không tách rời mà trái lại, triết học Mác càng có mối liên hệ thống
nhất và độc lập với các khoa học chuyên ngành. Mối quan hệ giữa triết học Mác
với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các
khoa học chuyên ngành cung cấp cho triết học Mác các thông số, dữ liệu khoa
học, tài liệu khoa học để triết học Mác khái quát, còn triết học Mác đóng vai trò
thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học chuyên ngành.

Không có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến lên.
Ăngghen viết: “Hóa học, tính có thể phân chia trừu tượng của cái vật lý thuyết
nguyên tử. Sinh lý học tế bào (quá trình phát triển hữu cơ của một cá thể riêng lẻ
cũng như của các loài, giống bằng con đường phân hóa là chứng cớ hiển nhiên
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
9
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
nhất của phép biện chứng hợp lý) và cuối cùng, sự đồng nhất giữa những lực của
tự nhiên và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng đã chấm dứt tính cố định của các
phạm trù phép biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối cho khoa học
tự nhiên ” [2; 685]. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng chứng
minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường
nhận thức và cải tạo thế giới.
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
10
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
Kết luận
Như vậy, sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học, đem lại cho giai cấp công nhân thế giới quan và phương pháp luận để
thực hiện vai trò sứ mệnh lịch sử của mình - thực hiện cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác, thế giới ngày nay đang đứng trước
nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết
nếu không có sự hợp tác đa phương, đó là: xung đột sắc tộc, tôn giáo; khủng bố
thế giới; khủng hoảng môi trường sinh thái, dịch bệnh liên quan đến sức khỏe
con người; chiến tranh cục bộ giữa các nước Do đó, cần phải liên tục bổ sung
và phát triển triết học Mác - Lênin; vận dụng sáng tạo nội dung thế giới quan và
phương pháp luận của triết học mácxít để làm cơ sở giải quyết đúng những vấn
đề do thời đại hiện nay đặt ra, thúc đẩy lịch sử xã hội loài người phát triển theo
xu thế tiến bộ, hợp quy luật. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang từng bước vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi
mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta
yêu cầu: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”, “làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân”.
Cơ sở lý luận đó là điều kiện cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định để Đảng và nhân
dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là sự chứng minh
hùng hồn cho những giá trị, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho sức
sống mãnh liệt của nó.
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
11
Đề tài: Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học Trang:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học) - NXB chính trị - hành
chính, Hà Nội - 2008
2. C.Mác và Ph.Ănghen - Toàn tập, tập 20 - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội -
1995
3. C.Mác và Ph.Ănghen - Toàn tập, tập 23 - NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội -
2004
4. Sđd, tập 1
5. Sđd, tập 3
6. Sđd, tập 13
7. Sđd, tập 21
8. Tiểu ban triết học, khoa lý luận chính trị trường đại học kinh tế thành phố Hồ
Chí Minh - Tài liệu Triết học (Phần I: đại cương về lịch sử triết học) - 2011
9. V.I.Lênin - Toàn tập, tập 23 - NXB Tiến Bộ, Mátxcơva – 1980
10. />option=comcontent&task=view&id=378&Itemid=265

11. />12. />_L%C3%AAnin
SVTH: Phạm Thị Hồng Trang-K21-Đêm 5 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
12

×