TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
&
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ BƯỚC
NGOẶT TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Nguyễn Toàn Trung
Khóa : K21
Lớp : Đêm 5
STT : 127
TP. Hồ Chí Minh, 02/2012
MỤC LỤC
1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 5
1.1 Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác 5
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội 5
1.1.2 Tiền đề lý luận 6
1.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên 7
1.2 Những giai đoạn chủ yếu trong sự ra đời và phát triển của triết học Mác –
Lênin 8
1.2.1 Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa cộng sản (trước 1844) 8
1.2.2 Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 – 1848) 8
1.2.3 Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học 9
2 SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ BƯỚC NGOẶT CÓ Ý NGHĨA
CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 10
2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 10
2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử 11
2.3 Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn 12
2.4 Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng 12
2.5 Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể 13
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
3 KẾT LUẬN 16
3
LỜI MỞ ĐẦU
Đã từ lâu, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã là kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng và nhà nước Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng
và kiến thiết đất nước để sánh vai với các cường quốc năm châu thì việc tìm hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là những điều cực kỳ quan trọng
và cốt yếu. Đặc biệt là việc tìm hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin mà cơ sở là triết học
Mác đã được hình thành bởi C.Mác và Ph.Ăngghen từ thế kỷ XIX. Có thể nói sự
ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Nó
mang tính quy luật của sự phát triển của khoa học và triết học nói riêng, của toàn
bộ lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu và quán triệt
những nguyên lý cơ bản của triết học Mác về chủ nghĩa duy vật biện chứng, để
phát triển và vận dụng một cách khoa học và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn
là cực kỳ quan trọng và cấp thiết.
Trong nội dung của bài tiểu luận này, tôi xin được giới thiệu một cách ngắn
gọn về lịch sử hình thành và ra đời của triết học Mác và qua đó làm sáng tỏ tính
cách mạng của triết học Mác trong lịch sử triết học. Tài liệu tham khảo chính của
bài tiểu luận là cuốn giáo trình triết học phần I dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học của tiểu ban triết học –
trường Đại học Kinh Tế TP HCM.
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1.1 Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
Giữa thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước Tây Âu, đặc
biệt tại những nước như Anh, Pháp và một phần nước Đức Với những thành
tựu vượt bậc về khoa học và kỹ thuật, những quốc gia này không những trở thành
lá cờ đầu mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản ở Châu Âu. Chủ nghĩa tư bản đã chứng minh được tính ưu việt vượt trội so
với chế độ phong kiến, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất giúp
tạo ra cơ sở kinh tế cho sự phát triển mọi mặt về đời sống xã hội.
Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì lại tạo ra khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội ngày càng tăng lên, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày
càng rõ rệt, kéo theo đó là những xung đột giữa giai cấp tư sản – những người sở
hữu tư bản với giai cấp vô sản – những người công nhân sở hữu sức lao động do
những bất công, mâu thuẫn về mặt kinh tế trong xã hội. Những xung đột đó ngày
càng trở nên gay gắt và dần dần trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Từ đó
hình thành nên trong lòng chủ nghĩa tư bản một lực lượng đối lập là giai cấp vô
sản công nghiệp, hiện đại, tạo ra một mối quan hệ đối lập ngày càng gay gắt với
giai cấp tư sản Chính vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế
độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng
giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những người công nhân hiện
đại, những người vô sản.”
1
Lúc bấy giờ, ở Tây Âu, phong trào của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ
và rộng lớn. Để đảm bảo cho cuộc đấu tranh giai cấp thắng lợi, nhất thiết phải có
1
[2, tr.237]
5
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
một lý luận khoa học dẫn đường để đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự
phát tới đấu tranh tự giác. Và triết học lại thực hiện thêm một đơn đặt hàng của
lịch sử, triết học Mác ra đời để đáp ứng cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản,
phát huy hết vai trò và khả năng để cải tạo chủ nghĩa xã hội không tưởng thành
chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.1.2 Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát
triển của tư tưởng triết học của nhân loại và tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời
của triết học Mác là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết học Hêghen và
triết học Phoiơbắc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã triệt để phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong
triết học Hêghen và đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm thành phép biện
chứng duy vật để nó đóng vài trò công cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng đồng thời cũng phê phán tư duy siêu hình,
duy tâm về lịch sử của ông. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đã
nhận thức một cách chính xác những thành tựu và hạn chế của triết học
Phoiơbắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xây dựng thế giới quan duy vật
biện chứng của mình. Có thể nói sự ra đời của triết học Mác là kết quả của sự
phát triển của triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đồng
thời cũng là kết quả của sự phát triển của phép biện chứng trong cuộc đấu tranh
với phép siêu hình, trong lịch sử triết học.
Ngoài ra, nhờ những giá trị tư tưởng mà nhân loại đã đạt được trong lĩnh vực
kinh tế chính trị học Anh, chũ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh, mà C.Mác
và Ph.Ăngghen thấy rõ nền tảng vật chất của sự phát triển lịch sử xã hội, sáng tạo
nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hội hiện thực trong
tương lai
2
.
2
[2, tr.240]
6
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt
là những thành tựu về khoa học tự nhiên như:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của R.Maye và P.P.Giulơ
trong những năm 40 của thế kỷ XIX, cho phép khẳng định: năng lượng
không tự nhiên sinh ra và cũng không bao giờ mất đi mà nó chỉ chuyển
hóa từ dạng này sang dạng khác.
- Trong những năm 30 của thế kỷ XIX, Svan và Slâyđen đã xây dụng học
thuyết tế bào khẳng định tế bào là cơ sở vật chất thống nhất của mọi sinh
thể.
- Năm 1859, Đácuyn đã xây dựng học thuyết tiến hóa khẳng định nguyên
nhân và nguồn gốc vật chất của mọi sự phát triển trong thế giới sinh thể,
phủ nhận vai trò sáng thế của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Chính những thành tự này đã làm lung lay tận gốc các quan điểm duy tâm,
siêu hình về nhận thức thế giới tự nhiên; đồng thời khẳng định các tư tưởng nền
tảng của phép biện chứng duy vật về mọi sự tồn tại trong thế giới. Chính vì vậy
khoa học tự nhiên mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra
đời của triết học Mác.
3
Có thể nói triết học Mác ra đời là sản phẩm của lịch sử. Nó mang tính quy
luật của sự phát triển khoa học và triết học nói riêng, của toàn bộ lịch sử tư tưởng
nhân loại nói chung.
3
[2, tr.241]
7
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
1.2 Những giai đoạn chủ yếu trong sự ra đời và phát triển của triết học
Mác – Lênin
1.2.1 Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa cộng sản (trước 1844)
Trong bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, C.Mác (5/5/1818
-14/3/1883) và Ph.Ăngghen (18/11/1820 – 5/8/1895) đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy tâm và quan điểm dân chủ cách mạng do cả C.Mác và Hêghen đều
tham gia vào nhóm Hêghen trẻ nên đều ảnh hưởng bởi chủ nghĩa duy tâm.
Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Qua
hoạt động báo chí, C.Mác phê phán triết học Hêghen đồng thời viết bài bảo vệ lợi
ích của giai cấp vô sản, lên án các tệ nạn bóc lột, áp bức lao động. C.Mác coi triết
học là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội.
Trong khi đó, Ph.Ăngghen cũng phê phán chế độ tư hữu mặc dù ông là một nhà
tư bản, đồng thời khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Tháng
8/1844, C.Mác và Ph.Ăngghen gặp nhau, bắt đầu một tình bạn, tình đồng chí vĩ
đại và cảm động trong suốt cả cuộc đời để sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
4
.
1.2.2 Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 – 1848)
Hai ông đã trình bày một cách toàn diện những vấn đề về triết học, kinh tế
chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học trên nền tảng thế giới quan duy vật triệt để
và cách mạng, làm rõ những quy luận cơ bản của xã hội, từ đó triết học Mác đã
trở thành thế giới quan và phương pháp luận để nhận thực và cải tạo thực tiễn
5
.
4
[2, tr.245]
5
[2, tr.245]
8
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
C.Mác và Ph.Ăngghen thể hiện những nguyên lý triết học của mình thông
qua những tác phẩm : Bản thảo kinh tế - triết học (1844), Luận cương về
Phoiơbắc (1845), Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản
(1848).
1.2.3 Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học
Từ những thất bại của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động ở Châu Âu những năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra
những kinh nghiệm chua xót từ thực tiễn cách mạng, và đã cho ra đời những tác
phẩm làm sáng tỏ những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
C.Mác cho ra đời bộ sách Tư bản đồ sộ trình bày về quá trình vận động và
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội qua việc phân tích tư bản chủ nghĩa trên
tinh thần duy vật lịch sử. từ đó chỉ rõ quy luật thay thế nhau một cách khách quan
của các hình thái kinh tế - xã hội.
Ph.Ăngghen cho ra đời tác phẩm Chống Đuyrinh (1876 – 1878) thể hiên thế
giới quan duy vật biện chứng về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã
hội khoa học.
9
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2 SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ BƯỚC NGOẶT CÓ Ý
NGHĨA CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
triết học nhân loại. Nó thể hiển giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn của học
thuyết Mác
6
.
2.1 Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
tách rời nhau. Trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen, tư
tưởng biện chứng đã đạt đươc nhiều thành tựu lớn lao – phép biện chứng tư duy,
tuy nhiên nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm, thần bí. Như khi luận
về cơ học, Hêghen trình bày những vấn đề về không gian, thời gian, vật chất, vận
động, lực hấp dẫn vũ trụ theo tinh thần duy tâm, thậm chí còn mang màu sắc
siêu hình. Nhìn chung, do những hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội và khoa
học, lịch sử triết học trước Mác luôn thể hiện và gắn kết thế giới quan duy vật với
nhận thức siêu hình, hoặc nhìn nhận thế giới quan duy tâm trong mối quan hệ với
phương pháp luận nhận thức biện chứng.
Khi triết học Mác ra đời, thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng mới được thống nhất, C.Mác đã kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học cổ điển Đức, gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt
nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy
vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới
hình thức hoàn bị nhất. Do vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình thức phát
triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, với tính cách là khoa
học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử loài người và tư duy
7
.
6
[2, tr.279]
7
[2, tr.279]
10
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2.2 Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Trong lịch sử triết học trước Mác, xét về thực chất, là thế giới quan, ý thức
hệ, nhân sinh quan của giai cấp tư sản hiện đại trong giai đoạn thống trị xã hội
của nó, do vậy trong lĩnh vực lịch sử xã hội, các nhà triết học càng xa rời truyền
thống duy vật và tư tưởng biện chứng mà chuyển sang chủ nghĩa duy tâm khá
thông minh và phép siêu hình tinh vi. Chủ nghĩa duy vật chỉ còn thể hiện trong
quan niệm về tự nhiên, ngay cả nhà triết học duy vật kiệt xuất là Phoiơbắc cũng
không ngoại lệ. Chính vì vậy, một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của triết học Mác
trong cuộc cách mạng của lịch sử triết học là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang
lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình thành nên chủ nghĩa duy vật lịch sử.
V.I.Lenin đánh giá rằng : “ Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy
vật triết học, Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chõ hoàn bị và mở rộng nhận thức
ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa
duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý
luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự tuỳ tiện, vẫn ngự trị
từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị ”
8
Theo C.Mác, sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên. Trong quá trình phát triển của mình, các hình thái kinh tế -
xã hội sẽ thay thế lẫn nhau trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động này của lịch sử xã hội loài người. Triết
học duy vật lịch sử cũng phát hiện ra vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân là
người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, hướng đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức,
bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh, đó là chủ nghĩa
cộng sản
9
. Với bản chất duy vật triệt để, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để
nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy vọt
so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
8
[2, tr.280]
9
[2, tr.280-281]
11
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2.3 Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Trong lịch sử triết học trước Mác, các hệ thống triết học chưa nhận thức được
hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải
phóng con người, mà chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới theo những quan
điểm và lý luận khác nhau. Vô hình chung, các hệ thống triết học hoàn toàn tách
rời giữa lý luận và thực tiễn. C.Mác đã nhận định về khiếm khuyết của toàn bộ
chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay không nhìn nhận con người như là chủ thể,
những nhân tố chính đóng vai trò xây dựng và cải tạo thế giới. Để từ đó C.Mác
xem tư duy của con người hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một
vấn đề thực tiễn. Và chính con người phải chứng minh chân lý, thức minh tính
hiện thực, sức mạnh và tính trần tục của tư duy của mình.
Ngoài ra, C.Mác coi triết học là vũ khí để cải tạo thế giới, là động lực cải tạo
xã hội. Do vậy, triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất,
quy luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà triết học Mác còn trở
thành thế giới quan và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo thế giới. Vì vậy,
sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
triết học Mác, chi phối mọi hoạt động của con người, là nền tảng căn bản để nhận
thức và cải tạo thế giới. Đó là biểu hiện của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng
sâu sắc trong triết học Mác
10
.
2.4 Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Khi so với các hệ thống triết học trước Mác, Triết học Mác thể hiện một cách
hòa hợp tính khoa học và tính cách mạng. Điều này được thể hiện rõ:
- Trong triết học Mác, các quy luật khách quan chi phối sự phát triển của
thế giới được thể hiện rất rõ, nhờ sự thuận tiện của điều kiện lịch sử, khoa học tự
nhiên phát triển (đặc biệt là ba phát minh vĩ đại – thuyết tế bào, định luật chuyển
hóa năng lượng và thuyết tiến hóa), triết học Mác đã xây dựng được những
nguyên lý và phạm trù để miêu tả các hiện tượng, sự vật trong thế giới, khi hiểu
10
[2, tr.282]
12
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
rõ thì quá trình vận dụng nó vào hiện thực để cải tạo thế giới càng diễn ra hiệu
quả, khi đó tính cách mạng được thể hiện cao và triệt để
11
.
- Thông qua hoạt động cải tạo thế giới, qua vai trò và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản, triết học Mác đã chứng minh sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng
chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yêu lịch sử
12
. Chính sự đấu tranh của giai cấp
vô sản vì xã hội tương lai là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã
hội. Triết học Mác trở thành là “vũ khí lý luận” của giai cấp này trong công cuộc
cải tạo xã hội, giải phóng bản thân nói riêng và giải phóng xã hội loài người nói
chung. Đồng thời qua đó, triết học Mác cũng không ngừng được điều chỉnh, bổ
sung để phán ảnh đúng thế giới hiện thực khách quan
3
.
Bản tính khoa học và cách mạng trong triết học Mác cũng được biển hiện ở
bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng
13
. C.Mác cho rằng: “Dưới
dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho
giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, phép biện
chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định các hiện đang tồn
tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được
phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình
thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực
chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”
14
.
2.5 Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống coi “triết học là khoa học của mọi khoa học” trong
các hệ thốnglịch sử triết học trước Mac đã bị phê phán và lên án mạnh mẽ, đặc
biệt ngay cả hệ thống triết học đồ sộ nhất, chặt chẽ nhất và hợp lý nhất là hệ
11
[2, tr.282]
12
[2, tr.282]
13
[2, tr.241]
14
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, T.23, tr.35-36
13
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thống triết học Hêghen cũng không thể bảo vệ được chính quan niệm này. Sự ra
đời của triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm này, nhưng cũng đồng thời
không cho phép chủ nghĩa thực chứng bị cô lập, tách triết học ra khỏi khoa học
cụ thể. Điều này được thể hiện rõ khi triết học Mác xác định đúng đối tượng của
triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy,
triết học Mác không những không tách rời, mà trái lại, nó đòi hỏi phải thực hiện
mối liên hệ mật thiết, đúng đắn giữa triết học với các khoa học chuyên ngành
1
.
Triết học Mác khẳng định tư duy biện chứng là chìa khóa, là con đường để
dẫn tới sự phát triển của khoa học, để khoa học làm tròn sứ mệnh cao cả của nó.
Phép biện chứng đòi hỏi phải thống nhất giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Chính sự phát triển của các lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội đã đặt cơ sở cho
những khái quát mang tính phổ biến của triết học, còn những khái quát của triết
học lại trở thành cơ sở và phương pháp luận cho khoa học tự nhiên đi sâu vào
nghiên cứu thế giới khách quan khoa học. Thực tiễn khoa học đã chứng minh
rằng, những thành tựu nghiên cứu của các khoa học về tự nhiên và xã hội là tiền
đề, cơ sở khoa học cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học, đồng thời ngược lại,
hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật
của các lĩnh vực khoa học khác nhau
15
.
“Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể
không có tư duy lý luận… chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học
tự nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý luận”
16
. Chính vì vậy, nếu không có
triết học duy vật biện chứng thì khoa học hiện đại đã không thể có những đột
phát đỉnh cao với những bước tiến dài và vững chắc như ngày nay. Chính sự phát
triển của khoa học hiện đại ngày nay lại càng là một minh chứng hùng hồn cho
mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường nhận thức
và cải tạo thế giới.
15
[2, tr.284]
16
[2, tr.270]
14
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
15
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
3 KẾT LUẬN
Triết học Mác ra đời thực sự là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học. Từ việc thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng để hình
thành nên một hệ thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử đến việc tạo ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trở thành “vũ khí tinh thần” cho giai cấp vô sản đấu tranh
nhằm cải tạo lại thế giới, hướng giai cấp vô sản từ đấu tranh tự phát sang đấu
tranh tự giác với những lý luận dẫn đường là triết học Mác. Ngoài ra, triết học
Mác cũng thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, trở thành một học thuyết nhằm
cải tạo lại thế giới. Đồng thời thẳng thắn chấm dứt quan điểm coi “triết học là
khoa học của mọi khoa học”, nhưng cũng không tách rời triết học ra khỏi khoa
học mà coi triết học và các ngành khoa học là một sự bổ trợ tương hỗ cho nhau
trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
16
Tiểu luận triết học GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các
trường đại học và cao đẳng), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
2. Tiểu ban Triết học, Triết học (Phần I , dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB Trường ĐH Kinh tế
TP.HCM, 2010
3.
option=com_content&task=view&id=378&Itemid=265
4.
5.
17