Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.72 KB, 17 trang )

Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học
**********
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ
BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Người thực hiện : Nguyễn Phan Thái Hằng
STT : 133
Lớp : Cao học Đêm 5
Khoá : 21
Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Văn Mưa
TP.HCM, ngày 27 tháng 02 năm 2012
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần I. Hoàn cảnh ra đời của triết học Mác 2
1.1. Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác 2
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 2
1.1.2. Tiền đề lý luận 3
1.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên 4
1.2. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen trong sự hình thành và phát triển của triết
học Mác - Lênin 4
1.2.1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa cộng sản (trước năm 1844) 4
1.2.2. Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1848) 5
1.2.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học 6
Phần II. Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học 7


2.1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 7
2.2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử 8
2.3. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 9
2.4. Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng 10
2.5. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể 12
Kết luận 14
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học Mác - Lênin từ khi ra đời cho đến nay luôn phát triển và ngày càng
thể hiện vai trò to lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Và vì
thế, trong thời đại ngày nay, mỗi người trong chúng ta phải không ngừng hoàn thiện
bản thân, phải biết vận dụng sáng tạo nội dung thế giới quan và phương pháp luận
của triết học Mác để phát triển hợp quy luật và hợp thời. Qua đó, góp phần vào công
cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Để làm được như vậy, đòi hỏi bản
thân mỗi người phải nắm vững cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết
học mácxít. Mà trước tiên là phải hiểu được tầm quan trọng của triết học Mác, bởi
sự ra đời của nó đã tạo nên một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Do đó,
đề tài “Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học”
được đặt ra.
Bài tiểu luận hoàn thành được là nhờ sự trợ giúp của một số tài liệu tham
khảo mà trọng tâm là Đại cương về lịch sử triết học và Hệ thống câu hỏi triết học
Mác - Lênin do các giảng viên khoa Triết học của trường Đại học kinh tế TP.HCM
biên soạn cùng với một số website và ebook.
Để chứng minh được “Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng
trong lịch sử triết học”. Trước tiên, tôi xin trình bày đôi nét về hoàn cảnh ra đời của
triết học Mác cùng với giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen trong sự hình thành và phát
triển của triết học Mác - Lênin. Sau đó sẽ tập trung phân tích qua 5 khía cạnh sau để
làm rõ tính bước ngoặt cách mạng của triết học Mác đối với lịch sử triết học. Một là
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Hai là sự sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ba là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bốn là sự thống

nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Năm là xác định đúng mối quan hệ giữa
triết học với các khoa học cụ thể.
1
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
Phần I
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự ra đời của triết học Mác phản ánh bối cảnh kinh tế xã hội Tây Âu những
năm 40 của thế kỉ XIX. Đây là thời kỳ của chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh do tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp. Đồng thời, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã thực sự đi vào giai đoạn phát triển mới và trở thành lực lượng kinh tế thống
trị ở các nước Châu Âu như Anh, Pháp, Đức.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thể hiện tính hơn hẳn của nó so với
phương thức sản xuất phong kiến trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
nhưng lại làm cho những mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt hơn. Do áp dụng
các thành tựu của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sự giàu có và thừa thãi của giai cấp
tư sản và đối lập với nó là sự bần cùng hoá của giai cấp vô sản. Xung đột giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước này dẫn tới xuất hiện các cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, quyết liệt. Đó là biểu hiện của mâu thuẫn về mặt kinh tế giữa trình
độ phát triển cao và tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất với sự chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản ở các nước tư bản
ngày càng phát triển và lan rộng. Giai cấp vô sản Châu Âu dần trưởng thành và trở
thành một lực lượng chính trị - xã hội độc lập trên vũ đài lịch sử.
“Sự ra đời của giai cấp vô sản và sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công
nhân đã tạo cơ sở xã hội cho sự ra đời lý luận tiến bộ và cách mạng của C.Mác và
Ph.Ăngghen, trong đó, triết học Mác là hạt nhân, lý luận chung của nó. Chính sự ra
đời của lý luận này đã lý giải một cách khoa học về sự xung đột không thể điều hoà
2

Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
giữa tư bản và lao động, về sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản”
1
và đã dẫn
đường đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát sang tự giác. Như vậy, triết
học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật
chất của triết học Mác.
Có thể nói, sự ra đời của triết học Mác chính đã phản ánh và đáp ứng được
nhu cầu, đòi hỏi về mặt lý luận của thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách
mạng của giai cấp vô sản ở giai đoạn 30 - 40 thế kỷ XIX nói riêng.
1.1.2. Tiền đề lý luận
Triết học Mác ra đời không chỉ là sản phẩm tất yếu của điều kiện kinh tế - xã
hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm tất yếu của sự
phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Nó là hình thức phát
triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học Hêghen và Phoiơbắc, là nguồn gốc
lý luận trực tiếp của triết học Mác. Đối với triết học Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen
một mặt phê phán tính chất duy tâm thần bí, mặt khác đánh giá cao tư tưởng biện
chứng của nó. Đối với triết học Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen một mặt đánh giá
cao chủ nghĩa duy vật, mặt khác phê phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của
triết học này. Nhận thấy được những thành tựu và hạn chế đó, bằng tài năng của
mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm thành phép
biện chứng duy vật, đồng thời cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình
và những hạn chế lịch sử của nó. Từ đó, hình thành nên triết học mới mà trong đó
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau
2
.
Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình
C.Mác kế thừa, cải tạo các lý luận về kinh tế và về chủ nghĩa xã hội. Việc kế thừa và
cải tạo kinh tế chính trị học Anh (đại biểu là A.Xmít và Đ.Ricácđô), chủ nghĩa xã

hội không tưởng Pháp (đại biểu là Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê) đã tạo điều kiện cho
1
[2, tr. 28]
2
[2, tr. 29]
3
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
C.Mác hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử cũng như xây dựng nên học thuyết về
kinh tế và lý luận khoa học của mình về chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, triết học Mác đã kế thừa có phê phán toàn bộ triết học trước đó nhất
là triết học duy vật và phép biện chứng. Và đây là những tiền đề lý luận không thể
thiếu của triết học Mác.
1.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những tiền đề lý luận, sự ra đời của triết học Mác còn dựa vào
những tiền đề khoa học tự nhiên. Những thành tựu về khoa học tự nhiên đã bộc lộ
tính hạn chế, bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế
giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học cho sự phát triển tư duy biện chứng,
hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, Ph.Ăngghen nêu bật ý
nghĩa của 3 phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng. Một là
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của R.Maye và P.P.Giulơ vạch ra mối
liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động của vật chất. Hai là học thuyết tế bào
của Svan và Slâyđen chứng minh về sự thống nhất và phát triển của sự sống từ thấp
lên cao, từ đơn giản tới phức tạp. Ba là học thuyết tiến hoá của Đácuyn đã lý giải về
tính biện chứng của sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài.
1.2. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen trong sự hình thành và phát triển của
triết học Mác - Lênin.
1.2.1. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa cộng sản (trước năm 1844)

− Trong bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm dân chủ cách mạng.
C.Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu đều nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia phái
Hêghen trẻ.
4
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
− Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
“Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác bắt đầu từ quá trình hoạt động báo chí và sự
phê phán triết học Hêghen về nhà nước pháp quyền, tôn giáo và vai trò của triết
học”
3
. Thông qua báo Sông Ranh (1842 - 1843) và tác phẩm Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen (1943). Còn Ph.Ăngghen đã đăng tải trong Niên
giám Pháp - Đức một số tác phẩm như Tình cảnh nước Anh; Tômát Cáclây để phê
phán chế độ tư hữu và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tháng 8/1844,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã trở thành bạn và bắt tay vào sáng tạo nên chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhìn chung, quá trình chuyển biến tư
tưởng của C.Mác và Ăngghen là một quá trình phức tạp, họ đã đặt nền móng vững
chắc cho một cuộc cách mạng trong triết học, từng bước hoàn chỉnh về cả thế giới
quan và phương pháp luận.
1.2.2. Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 - 1848)
− “Hai ông trình bày toàn diện vấn đề về triết học, kinh tế chính trị học và
chủ nghĩa xã hội khoa học trên nền tảng thế giới quan duy vật triệt để và cách mạng.
Triết học Mác trở thành thế giới quan và phương pháp để nhận thức và cải tạo thực
tiễn”
4
.
− Một số tác phẩm tiêu biểu: Bản thảo kinh tế - triết học (1844), Luận

cương về Phoiơbắc (1845), Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846), Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản (1848).
1.2.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học
3
[1, tr. 243]
4
[1, tr. 245]
5
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
− Kể từ khi phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở Châu Âu bị thất bại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho ra đời một số tác phẩm để
làm sáng tỏ những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
− C.Mác đã cho ra đời bộ sách Tư bản, mà quan niệm duy vật lịch sử
được biểu hiện ở phạm trù khoa học là “hình thái kinh tế - xã hội”. Và bằng phương
pháp biện chứng duy vật, ông đã làm rõ quy luật vận động và phát triển của lịch sử
loài người qua việc phân tích kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đây là bộ sách thể hiện rõ
vai trò chính yếu về mặt thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác. Sau
đó, ông lại cho ra đời tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta phát triển đầy đủ học
thuyết duy vật lịch sử, đặt cơ sở khoa học lý luận để hướng đến xã hội tương lai.
− Ph.Ăngghen thì cho ra đời các tác phẩm: Chống Đuyrinh thể hiện thế
giới quan duy vật biện chứng về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội
khoa học; Biện chứng của tự nhiên vận dụng biện chứng duy vật giải quyết vấn đề
tự nhiên và lịch sử và Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức
(1886 - 1888).
Phần II
6
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ BƯỚC NGOẶT
CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Triết học Mác ra đời đã tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát
triển của triết học nhân loại. Nó làm cho quá trình phát triển của triết học có những
bước đột biến và nhảy vọt. Và điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
2.1. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Đóng góp của Hêghen trong lịch sử triết học là phát triển phép biện chứng từ
trình độ tự phát trở thành một khoa học, đem đến cách hiểu hiện đại về phép biện
chứng cũng như học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Tuy nhiên,
phép biện chứng Hêghen lại được hình thành trên cơ sở thế giới quan duy tâm, do đó
tỏ ra không triệt để và đầy mâu thuẫn. Nhà duy vật kiệt xuất Phoiơbắc đã phê phán
chủ nghĩa duy tâm tư biện Hêghen, khôi phục truyền thống duy vật nhưng lại chịu
sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình.
Dựa trên cơ sở kế thừa triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc) đồng thời cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình theo tinh thần
biện chứng cũng như cải tạo phép biện chứng duy tâm theo tinh thần duy vật. Triết
học Mác ra đời đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học trước đó. Kết quả là tạo ra chủ nghĩa
duy vật biện chứng - hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
duy vật - hình thức cao nhất của phép biện chứng
5
. Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã xây dựng nên một nền triết học mới - triết học duy vật biện chứng. Và điều đó đã
tạo nên một sự thay đổi vượt bậc và táo bạo trong tiến trình phát triển triết học.
Đồng thời cũng là cơ sở để hình thành hệ thống triết học Mác - Lênin vĩ đại nhất
trong lịch sử.
2.2. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
5
[5, tr. 8]
7
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
Trước đây, các nhà triết học đã lý giải thế giới theo quan điểm duy tâm kể cả

nhà duy vật kiệt xuất Phoiơbắc. Trong khi đó, Mác đã lý giải thế giới theo quan
điểm duy vật và biện chứng. Mác đã chỉ ra rằng nền tảng vật chất xã hội là nền sản
xuất vật chất và phương thức sản xuất. Mác cho rằng thời đại khác nhau ở chỗ sản
xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và bằng công cụ nào. Còn Phoiơbắc thì cho rằng
các thời đại khác nhau sẽ khác nhau ở niềm tin, tín ngưỡng tôn giáo. Đối với
Hêghen, các thời đại khác nhau là khác nhau ở mức độ ý niệm tuyệt đối khám phá ra
nó.
Nhìn chung, để khắc phục nhược điểm coi động lực phát triển của xã hội ở
trong ý thức, tinh thần của con người mà những nhà triết học như Hêghen và
Phoiơbắc trước đây thường gặp phải, C.Mác đã mở rộng chủ nghĩa duy vật từ quan
niệm tự nhiên đến lĩnh vực lịch sử xã hội loài người và do đó đã hình thành nên chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học
Mác, chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học và là bước ngoặt cách
mạng vĩ đại nhất mà C.Mác đã thực hiện. Triết học Mác đã mang lại cho nhận thức
loài người về xã hội cái nhìn duy vật và theo phép biện chứng, vạch ra nền tảng duy
vật và cơ sở biện chứng trong xã hội loài người.
Với việc xây dựng chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự
mở rộng học thuyết này là ở việc nhận thức giới tự nhiên sang nhận thức xã hội loài
người, tạo ra bước nhảy vọt so với hệ thống triết học khác trong lịch sử. Nhờ vậy mà
triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Có thể nói, C.Mác và Ăngghen đã giải quyết đúng vấn đề cơ bản của triết học
trong đời sống xã hội, vật chất quyết định ý thức; sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
vật chất, không phải ý thức; mang tính quy luật và là quá trình lịch sử tự nhiên. Và
lịch sử không phải do hiện tượng siêu nhiên thần thánh chi phối mà do những quy
luật khách quan tự nhiên chi phối. “Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã
hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập với ý
8
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
chí và ý thức của con người; và trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực
lượng quyết định sáng tạo ra lịch sử"

6
.
Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa
quan điểm duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Đó là sự sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
"Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
học”
7
. Đây là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học về xã hội, một trong
những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã
thực hiện.
2.3. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Những học thuyết triết học trước Mác thường mới chỉ dừng lại ở việc giải
thích thế giới, chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý luận, lý
luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào quan
điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người
là trung tâm nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải
con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới.
Và như vậy nếu làm phép so sánh triết học trước Mác và triết học Mác thì ta
thấy rằng nếu như đối với triết học trước Mác chủ yếu đóng vai trò giải thích thế
giới hoặc là phản ánh bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển thế giới thì
triết học Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà còn chủ yếu là công cụ để cải
tạo thế giới. Và nếu như đối với triết học trước Mác chỉ nhận thức trực quan hay
khách thể, tách rời lý luận và thực tiễn thì triết học Mác ra đời đã thể hiện sự thống
nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Như vậy, có thể nói với sự ra đời của triết
học Mác, vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học
6
[6]
7
[4, tr. 9]

9
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
đã có sự biến đổi. Và chỉ khi đó, vai trò thực tiễn và sự thống nhất này mới thật sự
trở thành nguyên tắc căn bản chi phối mọi hoạt động của con người.
Mác không chỉ đưa vào phạm trù “thực tiễn” nhiều nội dung mới và xem thực
tiễn như tồn tại có tính lịch sử xã hội loài người, điều mà ở các nhà triết học trước
đây chưa từng có, mà còn xác định tính vật chất của hoạt động thực tiễn. Nhờ hiểu
thực tiễn từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà nguyên tắc thống nhất
lý luận và thực tiễn mang thông điệp mới.
Theo Mác, để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn
thì phải xem xét thực tiễn như nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức, và là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. Hơn nữa, chỉ xuất phát từ thực tiễn mới khắc phục được
tính siêu hình trong nhận thức và hành động, bởi qua biến đổi thực tiễn sẽ sàng lọc,
đào thải lý luận, những quan điểm lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn xã
hội sẽ phải nhường chỗ cho cái mới, cái hợp lý.
“Triết học Mác lấy hoạt động thực tiễn để cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của
con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn
thiện hệ thống lý luận của mình”
8
. Như vậy, triết học Mác khác xa so với các triết
học trước ở chỗ nó đã tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý
luận xuất phát từ thực tiễn; và khi lý luận ra đời thì nó sẽ định hướng cho hoạt động
thực tiễn. Vì thế, triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.
2.4. Thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Đối với các dòng triết học trước Mác, chẳng hạn như triết học của các nhà cổ
điển Đức thì tính cách mạng và tính khoa học không thể hiện đồng nhất, lúc thì cách
mạng, lúc thì khoa học, đôi khi còn phản động và thậm chí là phản khoa học.
Trong khi đó, triết học Mác vừa mang tính khoa học vừa mang tính cách
mạng. Triết học Mác thể hiện tính khoa học ở chỗ nó vươn lên khám phá quy luật
chung của thế giới đó là quy luật chi phối sự vận động và phát triển trong giới tự

8
[3]
10
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
nhiên, xã hội và tư duy con người; xây dựng các hiểu biết thành hệ thống nguyên lý
phạm trù để cắt nghĩa và lý giải những hiện tượng phát triển diễn ra trong thế giới
lẫn tư duy con người. Đối với triết học Mác, khoa học phải là hệ thống lý luận chặt
chẽ nhất quán mà cốt lõi của nó là quy luật.
Triết học Mác thể hiện tính cách mạng ở chỗ Mác cho rằng những gì đã sinh
ra, tồn tại và rồi cuối cùng cũng mất đi (trừ thế giới vật chất). Không chấp nhận bất
cứ cái gì tồn tại muôn đời bất di bất dịch hay bất biến. Do vậy chủ nghĩa tư bản cũng
phải thay đổi, xã hội loài người cũng phải vận động phát triển thay đổi. Và triết học
Mác phải không ngừng thay đổi để phù hợp với thế giới và điều này tạo ra tính cách
mạng.
Triết học Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới bằng
thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Triết học Mác
là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là “vũ khí lý luận” của giai cấp
này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng bản thân và giải phóng loài người nói
chung. Tương tự, giai cấp công nhân chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất
quan trọng của triết học Mác. Có thể nói, sự thống nhất chặt chẽ giữa triết học Mác
với giai cấp công nhân, làm cho triết học Mác thực sự thể hiện tính cách mạng của
mình và giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là lật đổ xã hội cũ, từng
bước xây dựng một xã hội mới.
Bởi vì triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân nên
nếu tính khoa học này càng sâu sắc thì khả năng vận dụng vào hiện thực để cải tạo
thế giới càng hiệu quả nhờ đó mà tính cách mạng được thể hiện càng cao. Ngược lại,
thông qua hoạt động cải tạo thế giới, triết học Mác sẽ điều chỉnh và bổ sung để phản
ánh đúng thế giới. Ngoài ra, triết học Mác cũng đã chứng minh được việc chế độ xã
hội chủ nghĩa thay thế chủ nghĩa tư bản là tất yếu lịch sử. Nhờ vậy mà tính khoa học
ngày càng sâu sắc. “Do đó, có thể nói trong bản chất khoa học của triết học Mác có

chứa đựng bản tính cách mạng và ngược lại bản chất cách mạng lại chứa đựng bản
11
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
tính khoa học. Như vậy, bản tính khoa học trong triết học Mác thì biểu hiện ở bản
chất khoa học của phép biện chứng và tương tự như vậy đối với bản tính cách
mạng”
9
.
2.5. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Vào thời Hy Lạp cổ đại, trình độ tư duy lý luận còn thấp, khoa học tự nhiên
còn nằm trong tình trạng sơ khai, chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, chỉ mới nghiên cứu
tự nhiên trong tổng thể để xây dựng bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên và hiển nhiên “triết học được xem là
khoa học của các khoa học”, hoà lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể. Đây là
những nhà siêu hình học. Quan niệm ấy tồn tại khá lâu trong lịch sử, mà hệ thống
Hêghen là hoàn bị nhất. Cũng có những lúc người ta tẩy chay triết học, coi triết học
chẳng là gì cả. Và vì vậy, có một thời triết học được đề cao, một thời bị hạ thấp và
xem thường.
Triết học Mác đã không bị sa vào một trong hai xu hướng này. Mác đã khẳng
định triết học có thể trở thành khoa học nhưng không phải khoa học của mọi khoa
học. Mà nếu trở thành khoa học thì nó chỉ là khoa học về những quy luật chung nhất
chi phối mọi sự vận động và phát triển trong tư duy con người. Triết học như vậy
gọi là phép biện chứng duy vật.
Theo thời gian, triết học đã từ bỏ dần vai trò “khoa học của các khoa học”.
Mà cụ thể là sự ra đời triết học Mác đã làm chấm dứt quan niệm truyền thống của
triết học cũ coi “triết học là khoa học mọi các khoa học”, đứng trên mọi khoa học.
Thế giới quan triết học, với tính chất tổng hợp, hệ thống và khái quát hoá vẫn
giữ vai trò là một lĩnh vực nhận thức đặc thù trong sự liên minh ngày càng bền chặt
với các ngành khoa học cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội). Triết học
Mác khẳng định vai trò của các ngành khoa học cụ thể đối với sự phát triển của triết

học; mà theo đó, sự phát triển của các ngành khoa học đòi hỏi triết học phải biến đổi
9
[1, tr. 282]
12
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
theo cho phù hợp. Thực tiễn chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu khoa
học tự nhiên và xã hội là tiền đề cho hệ thống phạm trù triết học và ngược lại các
phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát triển quy luật các lĩnh vực khoa
học khác nhau.
Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa
học khác và đồng thời đã thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như
xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trên đây là những luận điểm làm cho triết học Mác khác xa so với những triết
học trước đó và vì vậy sự ra đời của triết học Mác được coi là bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học.
KẾT LUẬN
13
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra lý luận dẫn đường đưa giai cấp công
nhân đi từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác. Hơn nữa, triết học Mác đã trở
thành vũ khí tinh thần cho giai cấp vô sản mà nhờ đó các cuộc đấu tranh chống lại
giai cấp tư sản mới có khả năng giành thắng lợi.
Triết học Mác ra đời không những có ý nghĩa đối với xã hội, với giai cấp vô
sản mà nó còn góp phần không nhỏ vào lịch sử phát triển triết học. Nhờ triết học
Mác mà lần đầu tiên trong lịch sử triết học chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
được thống nhất tạo thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. Việc phát minh ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác tạo nên thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học. Ngoài ra, triết học Mác thể hiện sự gắn bó giữa thực tiễn và lý luận, giữa
tính cách mạng và tính khoa học. Thêm vào đó, sự ra đời triết học Mác cũng đã làm

chấm dứt quan điểm coi “triết học là khoa học của mọi khoa học” và nó trở thành
thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của
các ngành khoa học cụ thể.
Mác và Ăngghen đã làm biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng
nghiên cứu và mối liên hệ với các khoa học khác. Như vậy, có thể nói sự ra đời của
triết học Mác đã tạo nên bước ngoặt có ý nghĩa trong lịch sử phát triển của triết học.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương về lịch sử triết học, TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên), Trường Đại học
Kinh tế TP.HCM, Khoa Lý luận Chính trị, TP.HCM, 2011.
2. Triết học Mác - Lênin, Bộ môn triết học, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM,
Khoa Triết học, TP.HCM, 2005.
3.
phat-trien-cua-triet-hoc-mac lenin.html#ixzz1lrySEgQp)
4. , Đề cương ôn tập triết
Mác - Lênin
5. , Ngân hàng câu hỏi Triết Mác – Lênin
6.

×