Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.67 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN QUẢN LÝ SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT
BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH
SỬ TRIẾT HỌC
Học viên : Huỳnh Hoài Đức
Lớp: Đ12 – K20
STT: 01
GVHD : TS Bùi Văn Mưa
Tp Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2012
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
1
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
2


































NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 2
1. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác 2
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 2
1.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp
2
1.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử 2

1.2. Tiền đề lý luận 3
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên 4
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết
học Mác Lênin
5
CHƯƠNG II: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ MỘT
BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC.
7
1. Thứ 1: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng 7
2. Thứ 2: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử 9
3. Thứ 3: thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 10
4. Thứ 4: thống giữa tính khoa học và tính cách mạng 11
5. Thứ 5: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể 12
KẾT LUẬN 13
LỜI NÓI ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng
hoàn chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong
cuộc đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác ra đời đã khắc
phục được sự lệch rời giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng tạo ra hình
thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
3
thức cao nhất của phép biện chứng là biện chứng duy vật. Việc sáng tạo ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại trong cuộc cách mạng
do Mác và Ănghen thực hiện trong Triết học. Sự ra đời của triết học Mác đã làm
cho vai trò, vị trí của triết học và quan hệ giữa triết học với các khoa học khác có
sự thay đổi Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là để cải tạo
thế giới. Triết học Mác còn là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, nó
chỉ ra cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng. Mác nói
“giống như Triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản mới vũ khí vật chất thì giai cấp

vô sản tìm thấy ở triết học một vũ khí tinh thần”. Triết học Mác có sự gắn bó
giữa tính khoa học với tính cách mạng giữa lý luận với thực tiễn. Đó là triết học
sáng tạo. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới xây dựng đất nước
đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị đích thực của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ
bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách
mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc
khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết học mácxít cũng như toàn bộ chủ
nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và vai trò của triết học mácxít trong lịch sử
triết học cũng như trong cuộc sống, trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Trong bài
tiểu luận ngắn này em xin phân tích một cách ngắn gọn và sơ lược quá trình hình
thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng mácxít: “Sự ra đời của triết học
Mác là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử Triết học”.
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
3. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác
3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.1. Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong
công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của
nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
4
trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi
vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được
củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu
thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu
nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư

sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
3.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành
và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ
nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô
sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng
phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở
thành phố Lyon (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm
1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế kỷ
XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức
chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang
tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai
cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng
sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong
trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên
trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào
tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển
của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch
sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong
cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học
thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu
tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi.
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
5
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu
tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và
Ph.Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.

3.2. Tiền đề lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các
Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc
trực tiếp của triết học Mác.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học
Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học
thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa
đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học
Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm
nhuần quan điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý”
của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép
biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính
siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của
chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết
học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách
hữu cơ. Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
là A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh
tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác.
Các Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp (quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan
điểm về sở hữu v.v ) và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ
thể của nó để xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử. Tiên đề về lý luận của
triết học Mác là biểu hiện quá trình tiếp nhận, trên tinh thần phê phán những giá
trị nổi bật trong triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng Pháp.
3.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức

6
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có
mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri
thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những
phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết
tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ
thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính
thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát
triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư
duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của
Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một
phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa
học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng
phép biện chứng duy vật.
Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại
đã tạo ra.
4. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học
Mác Lênin
Các Mác sinh ngày 5 - 5 - 1818 tại Tơria, vùng Ranh của nước Đức. Ngay
từ lúc còn học trung học, Mác đã thể hiện là một thanh niên tài năng, biết gắn
hạnh phúc của mình với hạnh phúc của mọi người. Trong quá trình học tập,
nghiên cứu ở Đại học Bon và Béclin, Mác rất khao khát học tập, nghiên cứu triết
học, vì theo ông, không có triết học thì không thể xâm nhập được vào sự vật.
Mác say sưa đọc các tác phẩm của Căng, Vônte, Rútxô và đặc biệt là của
Hêghen. Càng nghiên cứu triết học, Mác càng khao khát tìm câu trả lời về các
vấn đề có ý nghĩa của con đường lịch sử loài người.
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở

tỉnh Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên quyền
và độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học trong thời
gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con đường khoa
học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchester (Anh) từ mùa thu 1842
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
7
khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham
gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan
của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa Các
Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một
thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước xây
dựng những nguyên lý triết học của mình. Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh"
do Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung năm 1845 đã nêu rõ sự phê phán của hai
ông đối với "phái Hêghen trẻ" đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch
sử. Hai ông đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với
xã hội, v.v.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước
Đức hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung
của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát
như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật
chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử
khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng
đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc"
(8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối

với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người:
"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý
luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy
trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày
như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa
cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
8
là Các Mác và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận
thức chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng
sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong
trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới,
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói
chung đã hình thành và được Các Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển
trong thời gian sau. Từ đó hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong suốt
cuộc đời, cùng làm việc để sáng tạo lên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mácxít và lý luận của chủ
nghĩa cộng sản khoa học.
CHƯƠNG II: SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÀ
MỘT BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC.
Triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử triết học nhân loại. Toàn bộ hệ thống triết học do C.Mác và Ăngghen thực
hiện đã chứng minh một cách bản chất và sinh động giá trị lý luận và thực tiễn
lớn lao của học thuyết Mác thông qua các yếu tố sau :
6. Thứ 1: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng

Trong lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng tách rời nhau. Các nhà duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng,
nhưng suy cho cùng do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và khoa học cho nên
họ vẫn bị chi phối bởi phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng biện chứng đã đạt
được những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học
Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm thần bí. Do đó,
nhìn chung, lịch sử triết học trước Mác thể hiện thế giới quan duy vật trong mối
quan hệ với phương pháp nhận thức siêu hình, hoặc là thế giới duy tâm trong mối
quan hệ với phương pháp nhận thức biện chứng.
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
9
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã
cung cấp thực tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận
về phép biện chứng. Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX) đi vào hệ thống hoá tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây
là hai tiền đề thực tiễn rất quan trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy
tâm của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép
biện chứng và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một
cách thần thánh hoá tư duy, nói cách khác các ông đã cải tạo một cách duy vật
phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu
hình (Triết học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép
biện chứng duy vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh
vực xã hội, do đó các ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ
quan (tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách
quan, đây là sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện

chứng duy tâm của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt
phép biện chứng duy tâm của Hêghen "đứng trên hai chân của mình" tức là đứng
trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là "khoa học về mối liên hệ phổ
biến trong tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy". Theo Lênin thì phép biện
chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học
thuyết về tính tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ
cùng tồn tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau
nhưng vẫn có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát
triển. Các mối liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ
thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất) và các quy luật (quy luật lượng -
chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của
phủ định).
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
10
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi
đó các nền triết học trước Mác che giấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị, của một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển.
Cùng với chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho
hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen
luận chứng trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống
Đuy -rinh" (1876 -1878), "Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức" và một số tác phẩm do V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán" (1908 -1909), "Bút ký triết học".
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín muồi về

mặt lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp
ứng nhu cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát
triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của V.I.Lênin đã vận dụng thành công
phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện
trong lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo
thế giới một cách cách mạng nhất.
Triết học Mác ra đời đã chứng minh tính thống nhất giữa thế giới quan và
phương pháp luận: thế giới quan duy vật biện chứng trong sự thống nhất hữu cơ
với phương pháp biện chứng duy vật. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học cổ điển Đức, C.Mác đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện
chứng, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lich sử triết học
và phép biện chứng duy vật với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế
giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy. Chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong triết học C.Mác và Ph.Ăngghen là cơ sở hình thành nên triết học vĩ
đại nhất trong lịch sử : triết học Mác - Lênin.
Đánh giá về tính triệt để trong triết học Mác, Lênin viết: “ Triết học của
Mác là một triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công
nhân những công cụ nhận thức vĩ đại”.
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
11
7. Thứ 2: sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong triết học là mở
rộng chủ nghĩa duy vật sang xã hội loài người, hình thành nên chủ nghĩa duy vật
lịch sử .V.I.Lenin đánh giá rằng : “ Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ
nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa ra học thuyết đó tới chổ hoàn bị và mở rộng
nhận thức ấy từ chổ nhận thức giới tự nhiên đến chổ nhận thức xã hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự tuỳ tiện,
vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị ”

Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động
của lịch sử xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các
quan hệ về kinh tế quyết định các quan hệ về kiến trúc thượng tầng. Triết học
lịch sử cũng đã phát hiện vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là người
“đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng
tới mục tiêu giải phóng con người. Với bản chất duy vật triệt để trong lĩnh vực xã
hội, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra
bước phát triển mới về chất, một bước nhảy vọt so với các hệ thống triết học
khác trong lịch sử.
8. Thứ 3: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật
của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết
nhằm mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác. Trong lịch sử các hệ thống
triết học trước Mác, kể cả các hệ thống triết học tiến bộ, đều chưa thấy vai trò
của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn của chân
lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của triết học là hướng đến phát
triển xã hội và giải phóng con người. Vì vậy tách rời giữa lý luận và thực tiễn là
đặc điểm vốn có của triết học trước Mác.
Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn mới được xem là một nguyên tắc cơ bản, chi phối mọi hoạt động.
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
12
C.Mác viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước
đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc- là sự thật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan,
chứ không nhận thức là hoạt động cảm giác con người, là thực tiễn không nhận
thức về mặt chủ quan”. “ Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới

chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một
vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý, nghĩa
là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự
tranh cãi về tính hiện thực và tính không hiện thực của tư duy tách rời hiện
tượng, là một vấn đề kinh viện thuần tuý”. “ Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề cải tạo thế giới”. Đó là biểu hiện
của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong triết học Mác- Lênin
9. Thứ 4: thống giữa tính khoa học và tính cách mạng
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Tính
khoa học càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì
tính cách mạng càng cao, càng triệt để.
Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở từng bản chất khoa học của học
thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản. Triết học Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của phương pháp biện
chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu
lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản
con đường phải đi theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về mặt tinh thần, trong đó tất
cả các giai cấp bị áp bức đã sống lây lắt từ trước tới nay”. Triết học Mác là vũ khí
tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học
Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai.
Tính cách mạng của triết học Mác biểu hiện ở bản chất khoa học và cách
mạng của phép biện chứng. C.Mác cho rằng : “Dưới dạng hợp lý của nó, phép
biện chứng chỉ đem lại sự giận giữ và kinh hoàng cho cho giai cấp tư sản và bọn
tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong tính tích cực của cái hiện đang
tồn tại, phép biện chứng bao đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái
hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; Vì mỗi hình thái đã hình
thành đều được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt tức thời
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
13
trong sự vận động hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một

cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính phê phán và tính cách mạng”
10.Thứ 5: xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi : “ triết
học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan niệm
đó, đồng thời xác định tính đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên , xã hội và tư duy. Vì vậy không những không tách
rời mà trái lại triết học Mác càng có mối quan hệ thống nhất và độc lập với các
chuyên ngành. Sự phát triển của các khoa học khác nhau trong nghiên cứu thế
giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của
triết học. Mặt khác những kết luận của triết học trở thành thế giới quan khoa học
và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của của các lĩnh khoa học.
Thực tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu khoa học
của tự nhiên và xã hội là tiền đề cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học ngày
càng vận động, phát triển, đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết
học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác
nhau. Không có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể tiến
lên. Ph.Ăngghen viết: “ Sinh lý học, - tế bào (quá trình phát triển hữu cơ của một
cá thể riêng lẻ cũng như của các loài, giống bằng con đường phân hoá là chứng
cớ hiển nhiên nhất của phép biện chứng hợp lý); và cuối cùng, sự đồng nhất giữa
lực lượng của tự nhiên và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng chấm dứt tính cố
định của các phạm trù phép biện chứng trở thành một sự cần thiết tuyệt đối
cho khoa học tự nhiên ”. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng
chứng minh cho mối quan hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên
con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
KẾT LUẬN
Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của triết
học trong hệ thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản.
Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản,
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
14

giai cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó
định ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã
hội có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã
tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản,
chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự
thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết học
là "khoa học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các
thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học
Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung định
hướng sự phát triển của các khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự
phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa học ngày càng chứng tỏ sự
cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận
triết học Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại. Như vậy, triết học
Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học khác và thiết lập
được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng nghiên
cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển chung nhát của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Bằng việc trình bày sự ra đời của triết học Mác cùng với bước ngoặt vĩ đại
trong triết học, có thể khẳng định: Học thuyết Mác – Lênin là hệ tư tuởng cách
mạng nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Học thuyết đó là khối
thống nhất vững chắc của ba bộ phận cấu thành là Triết học, Kinh tế chính trị
học, chủ nghĩa xã hội khoa học trong đó Triết học đóng vai trò thế giới quan và
phương pháp luận nói chung. Triết học Mác-Lênin là thế giới quan và phương pháp
luận khọa học nhất, cách mạng nhất; là thành quả vĩ đại của triết học thế giới.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thì việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin một
cách có hệ thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những

nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi
mới tư duy, là định hướng tư tưởng và mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
15
bén để đấu tranh chống lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng
lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢ0
1. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin (Khoa triết học
Trường ĐHKHXH & NV - 1998)
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin (Giáo trình dùng trong các
trường Đại học, Cao đẳng - NXB chính trị quốc gia 2002)
3. PGS. TS. Lê Doãn Tá - Triết học Mácxít quá trình hình thành và
phát triển (giai đoạn Mác Ăngghen và Lênin)
4. TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên) – Triết học phần II (các chuyên đề
về triết học Mác – Lênin – 2010).
5.
qid=20110630030339AAhHdQn
6.
option=com_content&task=view&id=378&Itemid=265
GVHD: TS Bùi Văn Mưa HV : Huỳnh Hoài Đức
16

×