Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.1 KB, 16 trang )

-1-
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
LÀ BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG
TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Người thực hiện : Phạm Thanh Tâm
STT : 130
Lớp : Đêm 5
Khóa : 21
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Tp.HCM, tháng 02 năm 2012
MỤC LỤC
  
Lời mở đầu …………………………………………………………………… 1
Phần I : Hoàn cảnh ra đời của Triết học Mác
1. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác ……………………… …… 2
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội ………………………………… ….… 2
1.2 Tiền đề lý luận ………………………………………………….…. 2
1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên ………………………………… 3
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học
Mác Lênin (Giai đoạn Mác-Angghen)……………… ………… … 4
2.1 Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa cộng sản ……………………………………………….4
2.2 Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (giai đoạn từ năm 1844 đến
năm 1848) ……………….……………………………………………….5


2.3 Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học………………….………………………………………….6
Phần II : Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
Thứ 1: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng .….……….7
Thứ 2: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử ………………… ….………… 8
Thứ 3: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ……………………… 10
Thứ 4: Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng…………… 11
Thứ 5: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể……… 13
Kết luận …………………………………………………………….…………… 14
Tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học ra đời và phát triển là một quá trình gắn liền với sự phát
triển của nhân loại. Mọi sự vật tồn tại và phát triển đều bắt nguồn từ những cuộc đấu
-2-
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cho đến những nhận thức quan
về thế giới qua phương pháp nhận thức hiện thực, phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình xuyên suốt lịch sử phát triển triết học.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy
nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân
và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa
trong lịch sử triết học trước, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người
nhận thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng toàn bộ quá trình phát
triển tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển cao nhất của chủ
nghĩa duy vật và của phép biện chứng. Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa
Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là
thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn phản ánh sự phát triển hợp logic
của lịch sử tư tưởng nhân loại. Vì vậy, đề tài nghiên cứu: “Sự ra đời của Triết học
Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học” – thật sự là một bước
ngoặc vĩ đại trong công cuộc cách mạng triết học của giai cấp công nhân mà C.Mác

và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và mở ra một thời kỳ mới cho xã hội nhân loại.
Phần I: Hoàn cảnh ra đời của Triết học Mác
1. Tiền đề, điều kiện ra đời của triết học Mác
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
-3-
Chủ nghĩa tư bản đã thật sự phát triển mạnh mẽ tại các quốc gia tư bản hùng
mạnh ở Tây Âu từ giữa thế kỷ XIX như Anh, Pháp, Đức…Phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngày càng tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với các chế độ xã hội khác trong
lịch sử một cách rõ rệt. Giai cấp tư sản ra đời, thống trị và phát triển mạnh mẽ. Cùng
với nền đại công nghiệp cơ khí phát triển, chủ nghĩa tư bản được xác lập và giữ địa
vị thống trị, dẫn đến giai cấp công nhân công nghiệp ra đời.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn vốn
có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra,
tiêu biểu như: Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (Pháp) năm 1931-1934; Phong
trào hiến chương năm 1930 ở Anh; cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt ở Xilêđi năm
1844 Tuy nhiên, mọi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra đều mang tính
tự phát. Vì vậy, để cuộc đấu tranh giành thắng lợi cần phải có một lý luận khoa học
dẫn đường, đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác.
Thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu
khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của chủ nghĩa
Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của
giai cấp vô sản cách mạng. Đồng thời, giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí vật chất
của triết học Mác và chỉ có triết học Mác mới có khả năng cải tạo chủ nghĩa xã hội
không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.2 Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trình phát
triển của tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển cao nhất của
chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng. Đặc biệt, nguồn gốc của tiền đề lý luận
trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và của triết học Mác nói riêng
là triết học cổ điển Đức với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc. Kế

thừa những giá trị trong chủ nghĩa của Phoiơbắc và những giá trị phép biện chứng
của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết mới. Trong đó chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ gọi là chủ
-4-
nghĩa duy vật biện chứng dựa trên nền tảng cải tạo từ chủ nghĩa duy vật cũ, khắc
phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử của nó. Đây được xem là một hình thức
mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa duy vật triết học.
Một nhân tố không thế thiếu làm góp phần hình thành quan niệm duy vật về
lịch sử triết học Mác đó là kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh (đại diện tiêu
biểu là A.Xmít và Đ.Ricácđô), đồng thời cải tạo một cách phê phán chủ nghĩa không
tưởng xã hội Pháp (đại diện là Xanh Ximông và S.Phuriê).
Như vậy, Triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã
tạo ra.
1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên
Nền tảng của tiền đề khoa học tự nhiên là những phát minh lớn của khoa học
tự nhiên. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc lộ tính hạn chế và
những sự việc không giải thích được của phương pháp tư duy siêu hình trong việc
nhận thức thế giới. Đồng thời, đóng một vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu
được trong sự ra đời của triết học Mác.
Những phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng như:
định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của R.Maye và P.P.Giulơ; học thuyết
tế vào của Svan và Slâyđen; học thuyết tiến hóa của Đácuyn. Điều đó đã tạo nên
những nét cơ bản cho quan niệm mới về tự nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khát
quát được toàn bộ tiến trình lịch sử và văn hóa tinh thần của loài người để xây dựng
học thuyết triết học duy vật biện chứng, đáp ứng được nhu cầu nhận thức và cải tạo
thực tiễn xã hội từ sự kế thừa các học thuyết trong lịch sử triết học trước đó.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử không những phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân mà còn phản ánh sự phát triển hợp logic của lịch sử tư tưởng

nhân loại.
-5-
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết
học Mác Lênin (Giai đoạn Mác-Angghen)
2.1 Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác (05/05/1818 – 14/03/1883) và Ph.Ăngghen (28/11/1820 – 05/08/1895)
sinh ra cùng thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng
và triết học duy vật lịch sử. Tuy nhiên, thế giới quan cách mạng của C.Mác và
Ph.Ăngghen lại hình thành một cách độc lập với nhau.
Sự chuyển biến bước đầu hình thành trong thời kỳ C.Mác làm việc ở báo
sông Ranh (1842-1843), phê phán triết học Hêghen thông qua hoạt động báo chí. Về
thế giới quan triết học, C.Mác vẫn đứng trên lập trường duy tâm trong việc xem xét
bản chất nhà nước trên quan điểm của Hêghen nhưng coi triết học là vũ khí tinh thần
của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội. Còn về phía Ph.Ăngghen,
trong quá trình tham gia trực tiếp vào phong trào công nhân mới đã dẫn đến bước
chuyển biến căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa cộng sản.
Thông qua niêm giám Pháp – Đức, C.Mác đã chỉ ra “cái khả năng tích cực”
của giai cấp vô sản trong bài Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
đã đánh dấu bước hoàn thành sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa
duy vật. Còn Ph.Ăngghen gửi tới các tác phẩm Phác thảo góp phần phê phán kinh
tế chính trị học và tình cảnh nước Anh, Tômát Cáclây đã thể hiện rõ quá trình
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã có bước chuyển hoàn toàn từ thế giới quan duy tâm
sang thế giới quan duy vật biện chứng, từ lập trường chính trị dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là một quá trình phức tạp, vừa cải biến phép
biện chứng duy tâm của Hêghen thành phép biện chứng duy vật, vừa vận dụng phép

biện chứng duy vật vào việc nhận thức xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền
-6-
móng vững chắc cho một cuộc cách mạng trong triết học, để từng bước hoàn chỉnh
hệ thống triết học của mình cả về thế giới quan và phương pháp luận.
2.2 Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử (giai đoạn từ năm 1844 đến năm 1848)
Trong giai đoạn này, nguyên lý triết học biện chứng và duy vật lịch sử được
C.Mác và Ph.Ăngghen từng bước xây dựng, thể hiện qua các tác phẩm kinh điển
nghiên cứu về kinh tế học. Qua đó, Mác đã đánh giá phép biện chứng trong triết học
Hêghen cũng như chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, làm rõ những đóng góp và hạn
chế của họ, từ đó khẳng định vai trò và tính chất cách mạng của phép biện chứng
duy vật.
Từ năm 1845-1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức. Trong tác phẩm này, hai ông đã kết hợp một cách khoa học giữa chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng; vận dụng phép biện chứng duy vật vào nhận thức lịch sử xã
hội và phát hiện ra các quy luật của lịch sử, từ đó sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch
sử, làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, đặt cơ sở khoa học cho lý luận
cách mạng của triết học Mác. Đồng thời, khẳng định những cá nhân con người sống
chính là tiền đề của toàn bộ lịch sử nhân loại và sản xuất vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội. Do vậy, để hiểu được con người, Mác đã nghiên cứu và tìm hiểu sự sản
xuất vật chất của con người trong xã hội, nghiên cứu biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
Tiêu biểu nhất là tác phẩm nổi tiếng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - C.Mác
và Ph.Ăngghen viết tháng 02/1848. Đây là tác phẩm tuyên truyền cho tổ chức
“Đồng minh những người cộng sản”, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản về
chủ nghĩa xã hội khoa học, vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng
duy vật vào lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Tác phẩm này đánh dấu sự hoàn thành giai đoạn khởi thảo những nguyên lý cơ bản
của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, thể hiện rõ thế giới quan mới của
triết học Mác. Với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác

-7-
nói chung đã hình thành và được C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển
trong suốt cuộc đời của hai ông trên cở sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn
phong trào công nhân và khái quát các thành tựu khoa học.
2.3 Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học.
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, học thuyết Mác tiếp tục được bổ
sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng mà
C.Mác và Ph.Ăngghen vừa là những đại biểu tư tưởng, vừa là lãnh tụ thiên tài của
phong trào công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận ra rằng: Đảng Cộng sản phải
hành động một cách tự giác và có tổ chức, phải hết sức thống nhất và độc lập để
lãnh đạo phong trào đấu tranh vì lợi ích của quần chúng lao khổ. Bằng hoạt động lý
luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành
tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Và chính trong quá trình đó, học thuyết
của các ông cũng không ngừng phát triển.
Các tác phẩm chủ yếu của Mác như Đấu tranh giai cấp ở Pháp, Nội chiến ở
Pháp, Phê phán cương lĩnh Gôta…cho thấy việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của
phong trào công nhân có tầm quan trọng như thế nào trong sự phát triển lý luận của
chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Ngoài ra, trong Bộ Tư Bản, C.Mác đã vận dụng tài tình phương pháp biện
chứng vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và giải thích được
mâu thuẫn quá trình sản xuất vật chất trong đời sống xã hội là lực lượng sản xuất –
quan hệ sản xuất. Trong khi đó, Ph.Ăngghen với những tác phẩm chủ yếu của mình
như: Chống Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên, Lútsvích Phoiơbắc và sự cáo chung
của nền triết học cổ điển Đức…đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học
Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra, những ý kiến bổ sung, giải
thích của Ăngghen sau khi Mác qua đời đối với một số luận điểm của các ông trước
đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện những vấn đề của
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
-8-

Phần II: Sự ra đời của Triết học Mác là bước
ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
Thứ 1: Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
Trong lịch sử triết học Mác – Lênin, phương pháp luận biện chứng được phát
triển trải qua hai giai đoạn (giai đoạn trước Mác và giai đoạn Mác). Ở giai đoạn
trước Mác, đỉnh cao của phương pháp luận biện chứng là phương pháp luận biện
chứng duy tâm của Hêghen. Trong đó, phương pháp luận biện chứng khoa học cho
rằng các sự vật hiện tượng có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và có sự biến
đổi phát triển. Đối lập với phương pháp luận biện chứng là phương pháp luận siêu
hình, phương pháp luận siêu hình cho rằng các sự vật cô lập, tách rời lẫn nhau,
không có sự tác động qua lại lẫn nhau, và sự phát triển của các sự vật hiện tượng chỉ
là sự phát triển về lượng, không có sự biến đổi về chất.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử triết học. Các nhà triết học duy vật, dù đã thể hiện những tư
tưởng biện chứng nhưng suy đến cùng, do hạn chế bởi điều kiện lịch sử xã hội và
khoa học cho nên họ vẫn bị sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng
biện chứng đã đạt được những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt
là trong triết học Hêghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm,
thần bí. Do đó, nhìn chung, lịch sử triết học trước Mác thể hiện thế giới quan duy vật
trong mối quan hệ với phương pháp luận nhận thức siêu hình, hoặc là thế giới quan
duy tâm trong mối quan hệ với phương pháp luận nhận thức biện chứng.
Triết học Mác ra đời đã thống nhất trong mình thế giới quan duy vật với
phương pháp luận biện chứng. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong
triết học cổ điển Đức, Mác đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình
thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng duy vật - hình
thức phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học với tính cách là
khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy.
-9-
Đồng thời giải thích và khắc phục được những quan điểm duy tâm về lịch sử xã hội.
Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen là

cơ sở để hình thành nên hệ thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử triết học Mác-
Lênin.
Thứ 2: Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Triết học Mác được coi là cơ sở hệ thống các nguyên lý, phạm trù, qui luật cơ
bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên
cứu con người trong triết học Mác – Lênin. Nó không chỉ giải thích về thế giới vật
chất và vai trò con người về mặt lí luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt
động thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết học đối với đời sống xã hội. Sự
hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin được coi là
cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để nghiên
cứu lịch sử, nghiên cứu con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất
được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã hội, khẳng định con
người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo
chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn tại của xã hội, ý
thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Trong lịch sử triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật chỉ thể hiện trong quan
niệm về tự nhiên; còn khi chuyển sang lĩnh vực lịch sử xã hội, các nhà duy vật
thường không còn đứng vững trên quan điểm duy vật nữa mà thường rơi và các
quan niệm duy tâm. Nhà triết học duy vật nổi tiếng trước Mác là Phoiơbắc cũng
không ngoại lệ. Do vậy, một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng trong
triết học là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực lịch sử xã hội loài người, hình
thành nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lênin đã đánh giá rằng “ trong khi nghiên cứu
sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn
bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn
-10-
xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và
chính trị”.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của

lịch sử xã hội loài người, sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên. Trong các qui luật của lịch sử xã hội, quy luật biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các quan hệ về
kinh tế, cơ sở hạ tầng quyết định các quan hệ về chính trị, kiến trúc thượng tầng.
Triết học duy vật lịch sử cũng phát hiện ra vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, thực hiện cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người ra khỏi mọi áp
bức, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh – chủ nghĩa
cộng sản. Với bản chất duy vật triệt để, triết học Mác trở thành công cụ vĩ đại để
nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển mới về chất, một sự nhảy vọt so
với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học;
sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Đồng thời,
nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt
động của Đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân thế giới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong triết học Mác - Lênin,
thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học
Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị - một "công cụ nhận thức vĩ đại".
Thứ 3: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
C.Mác đã viết: "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để
đồng nhất hai khái niệm "thực tiễn" và "hoạt động". Nghĩa là: Thực tiễn là phương
thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. C.Mác đem
quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của
-11-
L.Phoiơbắc. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các
mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận
cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của
thực tiễn.
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, cần được làm sáng tỏ hơn và cụ thể
hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thể - khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian

cơ bản giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư
duy lý luận, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc
trưng xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách
thể. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát
triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội.
Trong lịch sử, các hệ thống triết học trước Mác, kể cả các hệ thống triết học
tiến bộ, đều chưa thấy hết vai trò thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và tiêu chuẩn của chân lý, chưa nhận thức hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của
triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Tách rời giữa lý
luận và thực tiễn là đặc điểm vốn có trong lịch sử triết học trước Mác. Vì vậy, Mác
viết: “ Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác của con người,
là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan”. “ Vấn đề tìm hiểu xem tư duy
của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục
của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư
duy tách rời thực tiễn là một vấn đề kinh viện thuận túy” sđd T.3, tr 9-10
Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của
sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm
mục đích cải tạo thế giới. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác. Chỉ khi triết học Mác ra đời, vai trò
thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mới thật sự được xem là một
-12-
nguyên tắc căn bản, chi phối mọi hoạt động con người. Vì vậy, Mác viết: “ Các nhà
triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới”. Đó là biểu hiện của tính hiện thực, tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong
triết học Mác – Lênin.
Lý luận thống nhất với thực tiễn để sáng tạo và phát triển là nguyên tắc cơ
bản làm cho lý luận có sức sống, có khả năng thực hiện nhiệm vụ định hướng đối

với thực tiễn. Tuy vậy, sự thống nhất đó có nhiều hình thức và mức độ biểu hiện
khác nhau. Mặc dù lý luận bắt nguồn từ thực tiễn và phản ánh một cách khái quát
những vấn đề của hiện thực, nhưng thước đo tính thống nhất của lý luận với thực
tiễn chỉ được thể hiện ở chỗ lý luận phải đi sâu nghiên cứu, khám phá những vấn đề
thuộc về lý luận do chính sự phát triển của thực tiễn làm nảy sinh ra để thúc đẩy,
hướng dẫn thực tiễn phát triển đúng hướng.
Thứ 4: Thống giữa tính khoa học và tính cách mạng
Chủ nghĩa Mác, triết học Mác trước hết là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học loài người, là khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy và vì thế, nó trở thành
một “hình thức tư duy quan trọng nhất”, cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát
triển của khoa học. Bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác, triết học Mác không chỉ
thể hiện ở hệ thống quy luật chung nhất của thế giới nó phản ánh, mà còn thể hiện ở
chức năng thế giới quan và phương pháp luận khoa học trong mọi hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm trong mình bản tính cách
mạng của nó; và bản chất cách mạng của triết học Mác cũng đã thể hiện trong bản
tính khoa học của nó. Bởi vì:
+ Tính khoa học càng sâu sắc, tức phản ánh càng đúng các quy luật
khách quan chi phối sự phát triển thế giới, thì khi quá trình vận dụng nó vào
hiện thực để cải tạo thế giới càng diễn ra hiệu quả, tức tính cách mạng được
thể hiện càng cao, càng triệt để.
-13-
+ Thông qua hoạt động cải tạo thế giới, qua vai trò và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản, triết học Mác đã chứng minh sự thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa duy
vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để
thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã
sống lay lắt từ trước tới nay” V.I.Lê nin: Toàn tập; NXB Tiến bộ, Mátxcơva,
1980, T.23, tr 57-58. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản,

còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh
vì xã hội tương lai. Đồng thời thông qua hoạt động cải tạo thế giới triết học
Mác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung để phản ánh đúng thế giới khách
quan.
Bản tính khoa học và cách mạng trong triết học Mác biểu hiện ở bản chất
khoa học và cách mạng của phép biện chứng. Mác cho rằng: “Dưới dạng hợp lý của
nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn
tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về cái hiện
đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định
cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình
thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời
của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về
thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng” C.Mác-Angghen: toàn tập,
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.23, tr 35-36.
Thứ 5: Xác định mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước Mác coi “Triết học là
khoa học của mọi khoa học”. Hệ thống triết học là khoa học của mọi khoa học đồ sộ
nhất, chặt chẽ nhất, hợp lý nhất và cuối cùng trong lịch sử. Hệ thống triết học
Hêghen đã bị phê phán mạnh mẽ, vì vậy đã cũng cố quan điểm thực chứng đối lập
với nó.
-14-
Sự ra đời triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm coi triết học là khoa học
của mọi khoa học, nhưng đồng thời cũng không cho phép chủ nghĩa thực chứng cô
lập, tách triết học ra khỏi khoa học cụ thể. Khi xác định đúng đối tượng của triết học
là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học
Mác không những không tách rời mà trái lại, nó đòi hỏi phải thực hiện mối liên hệ
mật thiết, đúng đắn giữa triết học với các khoa học chuyên ngành. Bởi vì, sự phát
triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và
xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của triết học. Mặt khác,
những kết luận của triết học trở thành cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp

luận chung cho sự phát triển của các lĩnh vực khoa học. Thực tiễn khoa học đã
chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu của các khoa học về tự nhiên và xã
hội là tiền đề, là cơ sở khoa học cho hệ thống phạm trù, quy luật triết học; đồng thời,
hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng cho sự phát triển hợp quy luật của
các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Không có triết học duy vật biện chứng khoa học hiện đại sẽ không thể có
những bước tiến dài và vững chắc. Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay
càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên
con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
KẾT LUẬN
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân - giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động và sự phát triển xã hội. Vai trò to lớn của triết học Mác được nâng cao
còn vì sự thống nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó.
-15-
Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học Mác trở nên
mang tính cách mạng sâu sắc nhất.
Nói một cách khái quát, học thuyết Mác, triết học Mác đã trang bị cho chúng
ta hệ thống quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, phát triển và thực tiễn
trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm cải biến cách mạng thế
giới hiện tồn. Bất chấp thực tiễn thăng trầm của thời đại, chúng ta vẫn có thể khẳng
định rằng, trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác, triết học Mác, với những luận
điểm, quan điểm và tư tưởng cơ bản thực sự khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên
giá trị, vẫn là lý tưởng cao đẹp nhất của loài người, là cách thức thay đổi và cải tạo
thế giới vì mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thoát chủ
nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức
xã hội loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư

tưởng khoa học” và thật sự là một bước ngoặt trong lịch sử triết học.
-16-

×