Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ LỆ
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN TRỒNG CÂY LÂM NGHIỆP
PHÂN TÁN TẠI TỈNH BẮC GIANG
Chuyên ngành: Lâm học
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên, năm 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
ii
LỜI CAM
ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 9 năm 2013
Tác giả luận
văn
Nguyễn Thị Lệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
iii
LỜI CẢM
ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
theo chương trình đào tạo thạc sỹ, khoá 19, từ năm 2011 - 2013.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự
quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học và các thầy, cô giáo
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, các bạn bè đồng nghiệp và cán bộ
địa phương nơi tác giả thực hiện nghiên cứu. Nhân dịp này tác giả xin chân
thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Tác giả xin đặc biệt cảm ơn cô giáo TS. Trần Thị Thu Hà - người hướng
dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện
luận văn này.
Tác giả cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Sau đại học
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác
giả trong quá trình học tập cũng như hoàn thành bản luận văn thạc sỹ.
Xin cảm ơn Chi cục Phát triển Lâm nghiệp Tỉnh Bắc Giang,
UBND
các
huyện, hạt kiểm lâm các huyện, UBND các xã và một số hộ dân trồng cây
phân tán trên địa bàn đã cung cấp tư liệu, giúp tác giả thu thập số liệu nghiên
cứu cho bản luận văn này.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người thân
trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học tập
cũng như trong thời gian hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2013
Tác
giả
Nguyễn Thị Lệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 3
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 5
1.2.1. Về nguồn gốc của trồng cây lâm nghiệp phân tán 5
1.2.2. Về hình thức tổ chức thực hiện 6
1.2.3. Về cơ chế chính sách 6
1.2.4. Về cơ cấu cây trồng và chất lượng giống: 10
1.2.5. Về các loại mô hình trồng cây phân tán 11
1.2.6. Về kết quả đạt được từ trồng cây phân tán 13
1.3.1. Điều kiện tự nhiên 14
1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 17
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Nội dung nghiên cứu 20
2.2. Phương pháp nghiên cứu 20
2.2.1. Cách tiếp cận của đề tài 20
2.5.2. Các bước tiến hành nghiên cứu 21
2.2.3.Phương pháp nghiên cứu cụ thể 22
2.2.3.1.Phương pháp thu thập số liệu 22
2.5.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 24
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
3.1. Đánh giá hiện trạng chương trình trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang 27
3.1.1. Quá trình phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang. 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
v
3.1.2. Hiện trạng về công tác quy hoạch trồng cây phân tán 28
3.1.3. Hiện trạng về công tác kỹ thuật trồng cây phân tán 36
3.1.4. Hiện trạng sinh trưởng phát triển của các loài cây lâm nghiệp được trồng
phân tán trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 44
3.1.5. Hiện trạng quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng cây phân tán 46
3.1.5.1. Hệ thống tổ chức quản lý 46
3.1.5.2. Hệ thống quản lý tài chính, dịch vụ cho trồng cây phân tán 49
3.1.5.3. Công tác bảo vệ cây trồng phân tán 50
3.1.5.4. Khai thác sử dụng và hưởng lợi cây trồng phân tán 53
3.2. Sơ bộ tổng kết, đánh giá hiệu quả của các Mô hình trồng cây lâm nghiệp
phân tán đã có trên địa bàn tỉnh Bắc Giang: 56
3.2.1. Hiệu quả kinh tế 56
3.2.2. Hiệu quả xã hội 59
3.2.3. Hiệu quả phòng hộ 60
3.3. Nghiên cứu Chính sách của Nhà nước và chính quyền địa phương về phát
triển trồng cây lâm nghiệp phân tán 62
3.3.1. Chính sách của Nhà nước 62
3.3.2. Chính sách của tỉnh Bắc Giang cho trồng cây phân tán 65
3.3.3. Những nhận xét và thảo luận về các chính sách cho trồng cây phân tán66
3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển trồng cây phân tán ở tỉnh Bắc
Giang 71
3.4.1. Những tiến bộ bước đầu trong trồng cây phân tán ở tỉnh Bắc Giang 68
3.4.2. Những cơ hội phát triển trồng cây phân tán ở tỉnh Bắc Giang 69
3.4.3. Những thách thức đối với phát triển trồng cây phân tán ở tỉnh Bắc Giang
70
3.4.4. Đề xuất một số giải pháp phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang Error! Bookmark not defined.
3.4.4.1. Quan điểm và định hướng chung. 71
3.4.4.2. Các giải pháp cụ thể 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
vii
KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KIẾN NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Tồn tại 78
3. Kiến nghị 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
viii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCR
Tỷ suất thu nhập và chi phí, là tỷ số sinh lãi thực
tế, nó phản ánh mức
độ
đầu
tư và cho biết mức thu
nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất.
D
1.3
Đường kính ở vị trí 1,3m trên thân cây kể từ gốc lên.
Hvn
Chiều cao vút ngọn.
Chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. IRR là tỷ lệ
chiết khấu khi tỷ lệ này làm cho NPV=0
NN & PTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NPV
Giá trị lợi nhuận ròng, là hiệu số giữa giá trị thu
nhập và chi phí thực hiện hàng năm của các hoạt
động sản xuất trong các mô hình, sau khi đã chiết
khấu để quy về thời điểm hiện tại.
UBND
Ủy ban nhân dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
ix
DANH MỤC CÁC
BẢNG
Bảng 2.1: Thang điểm độ dốc và thành phần cơ giới đất
23
Bảng 2.2: Thang điểm về độ tàn che và độ che phủ của rừng trồng
23
Bảng 2.3: Tổng hợp điểm cấp phòng hộ rừng trồng
24
Bảng 3.1. Số lượng cây lâm nghiệp phân tán trồng tại tỉnh Bắc Giang 26
Bảng 3.2: Các loại cây trồng phân tán theo chức năng
28
Bảng 3.3: Mục đích của cây trồng phân tán tỉnh Bắc Giang 31
Bảng 3.4: Tiêu chí lựa chọn loài cây trồng phân tán ở tỉnh Bắc Giang 36
Bảng 3.5: Tổng hợp tiêu chí giống cây trồng ở tỉnh Bắc Giang 39
Bảng 3.6: Biện pháp kỹ thuật lâm sinh được áp dụng trong các mô hình
40
Bảng 3.7. Tình hình sinh trưởng một số loài cây trồng phân tán 43
Bảng 3.8: Đặc điểm của các hình thức đầu tư
trồng
cây phân tán
48
Bảng 3.9: Tổng hợp các đơn vị bảo vệ
cây phân tán trong từng khu vực
50
Bảng 3.10 : Chi phí cho mô hình trồng cây phân tán 57
Bảng 3.11. Tổng hợp các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của các
56
Bảng 3.12. Công lao động tạo ra từ các mô hình trồng cây phân tán 59
Bảng 3.13. Điểm cho khả năng phòng hộ của các mô hình
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
x
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
Sơ đồ 2.1: Phương hướng giải quyết vấn đề của luận văn 21
Sơ đồ 2.2: Các bước tiến hành nghiên cứu 21
Hình 3.1: Đồ thị biểu thị sinh trưởng về chiều cao của Bạch đàn lai tại các địa
phương 44
Sơ đồ 3.1. Hệ thống quản lý trồng cây phân tán tại tỉnh Bắc Giang 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, vai trò và ý nghĩa to lớn
của tài nguyên rừng ngày càng được khẳng định và chú trọng. Hiện nay nhà
nước
đã hạn chế mở cửa rừng tự nhiên, trong khi nhu cầu sử dụng các sản
phẩm được chế biến từ gỗ của con người vẫn không ngừng tăng và gỗ vẫn là
nguồn nguyên liệu không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày. Đứng trước
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về các sản phẩm gỗ và ngoài gỗ, bên cạnh
việc trồng rừng sản xuất thì trồng cây phân tán được xem là một chiến lược để
bù đắp sự thiếu hụt nhu cầu về gỗ này. Chương trình trồng cây phân tán cũng
đã và đang là một hình thức được Chính phủ, các bộ ngành và các địa phương
quan tâm, khuyến khích nhằm huy động tối đa nguồn lực của các tổ chức, đơn
vị, cá nhân và hộ gia đình tham gia vào phát triển rừng theo hướng lâm
nghiệp xã hội.
Theo thuật ngữ Lâm nghiệp của Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Lâm nghiệp
cũ, nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) năm 1996,
thì trồng cây phân tán hay con gọi là trồng cây nhân dân (Scatteret
trees planting) là trồng cây xen kẽ ở các khu dân cư hoặc ở các khu sản xuất
lâm nghiệp, công nghiệp khác ngoài vùng sản xuất lâm nghiệp tập trung, do
nhân dân sở tại làm dưới sự hướng dẫn của cơ quan lâm nghiệp.
Trồng cây lâm nghiệp phân tán có mặt ở trên khắp mọi vùng, mọi miền,
mọi khu vực của đất nước, từ vùng Đồng bằng đến vùng Trung du miền
núi, từ khu vực nông thôn đến thành thị và cây trồng mang tính đặc
trưng cho những khu vực đó. Giá trị của trồng cây phân tán đã đem lại
hiệu quả rất to lớn, thiết thực và mang tính đa tác dụng, không chỉ mang
giá trị về mặt kinh tế (cung cấp sản phẩm lâm sản cho công nghiệp chế biến,
gỗ củi chất đốt cho nhân dân), giá trị về mặt xã hội (tạo thêm công ăn việc
làm cho lao động nông thôn), mà còn mang giá trị to lớn về mặt văn hoá,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
2
tín ngưỡng, kiến trúc và đặc biệt quan trọng là giá trị về mặt môi trường
trong việc phòng hộ sinh thái, tạo cảnh quan và cải thiện môi sinh.
Bắc Giang là một địa phương, trong nhiều năm qua, trồng cây lâm nghiệp
phân tán mặc dù đã được phát động, tổ chức thực hiện và được nhân dân hết
sức quan tâm hưởng ứng tham gia, nhưng vẫn còn nổi lên nhiều bất cập,
nhiều chỗ nhiều nơi còn mang tính tự phát, hình thức, thiếu quy hoạch và
chưa có chính sách hỗ trợ đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện. Mặt
khác việc đánh giá về trồng cây lâm nghiệp phân tán còn chưa được quan tâm,
chưa có nghiên cứu nào đi vào phân tích hiện trạng để tìm ra những điểm
mạnh, điểm yếu, những tồn tại, khuyết điểm, từ đó có chính sách và giải pháp
hiệu quả để thúc đẩy phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán của tỉnh ngày
một hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tiễn trên việc tiến hành đề tài “Nghiên cứu hiện
trạng và giải pháp phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang ” là hết sức cần thiết về cả ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng, phát hiện ra những điểm mạnh và hạn chế
của trồng cây lâm nghiệp phân tán trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất ra những giải pháp góp phần phát triển trồng cây lâm nghiệp
phân tán mang lại hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu của địa phương.
3. Đối tƣợng và thời gian nghiên cứu
- Đối tượng: Tất cả các cây lâm nghiệp được nhân dân gây trồng phân tán ở
các công sở, trường học, bệnh viện, ven đường giao thông và vườn hộ gia đình.
- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá cây lâm nghiệp
trồng phân tán trong phạm vi thời gian 5 năm, từ năm 2006 đến năm 2011.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Việc nghiên cứu luận văn là phương pháp tốt để hệ thống và củng cố lại
kiến thức đã được học.
- Kết quả của Luận văn là cơ sơ để góp phần phát triển trồng cây lâm
nghiệp phân tán tại tỉnh Bắc Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Thật khó xác định phong trào trồng cây phân tán trên thế giới có từ bao
giờ. Nhưng chắc chắn khi con người có nhu cầu về củi đun và cần gỗ gia dụng,
gỗ làm nhà cửa và cần phải trồng cây để giảm bớt các tác hại của thiên tai như
gió, bão, hạn hán, cát bay, cát bị nhiễm mặn nhằm đảm bảo sản xuất nông
nghiệp có năng suất cao và ổn định thì con người đã biết trồng cây phân tán. Lúc
đầu từ một vài hộ dân lẻ tẻ, sau do hiệu quả kinh tế đạt được khá cao và thỏa
mãn được các yêu cầu của cuộc sống nên trồng cây phân tán trong dân đã trở
thành phong trào rộng rãi hơn. Nhiều vùng đất sa mạc khô cằn ở Châu Phi, chỉ
có cỏ mọc như ở Kênya, Negira, Ma-Rốc người ta đã biết trồng cây lấy gỗ
chủ yếu là trồng cây gỗ họ Đậu có khả năng cố định đạm. Họ đã trồng thành
các hàng cây, hay băng cây, chia đồng cỏ chăn nuôi thành nhiều ô để thực hiện
chăn thả gia súc luân phiên, hoặc trồng cây gỗ rải rác trên đồng cỏ để giữ độ
ẩm cho đất, và tạo bóng mát cho gia súc[15].
Ở Trung Quốc, Srilanca và Ấn Độ, các cây gỗ được trồng rải rác để tạo
bóng mát cần thiết cho các vườn chè, nhằm nâng cao năng suất và chất
lượng của chè [13],[15].
Ở Braxin và Inđônêsia cây phân tán được trồng để tạo bóng mát cần thiết
cho các vườn trồng cà phê, Ca cao. Ở Nepal cũng được áp dụng rộng rãi
phương thức trồng cây phân tán để tạo thành các băng cây xanh theo đường
đồng mức nhằm chống xói mòn đất, cung cấp phân xanh và củi cho các hộ dân
[14].
Ở New Zealand các trang trại có thể sử dụng tổng hợp dải rừng phòng hộ,
cây che bóng mát, cây lấy gỗ trồng trên cánh đồng cỏ rộng lớn, hoặc các vạt đất
được dành cho trồng cây, trồng rừng dày đặc.
Ở những vùng ôn đới ẩm ướt của Australia các giống Bạch đàn và Pinus
radiata (chiếm phạm vi hẹp hơn) là những loài cây gỗ ưu thế được trồng để lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
4
gỗ, tạo bóng mát, phòng hộ, ngăn mặn, chống xói mòn. “Chương trình một tỷ
cây” đã được khởi xướng bở Chính phủ liên bang Australia, chương trình có hỗ
trợ tài chính nhất định cho việc trồng cây, liên kết những chủ trang trại dám
làm với chính quyền các bang và công nghiệp địa phương là phổ biến để thực
hiện chương trình này. Ngoài ra, hầu hết chính quyền các bang đều cung cấp
dịch vụ tư vấn, trồng cây và giảm thuế. Các nhóm bảo vệ đất địa phương được
thành lập nhằm khuyến khích nông nghiệp bền vững, cũng đẩy mạnh trồng
cây, nhất là những vùng đất thoái hóa.
Theo kết quả điều tra cây trồng phân tán ở Ấn Độ (1991-1995) cho thấy:
Theo tập quán lâu đời, với đặc tính văn hóa của người Ấn Độ, thì trồng cây là
một phần trong toàn bộ hệ thống canh tác nông nghiệp ở Ấn Độ, để cung cấp
nguồn gỗ, củi, thức ăn gia súc và phân xanh cho nhu cầu của người dân địa
phương. Ngoài các tác dụng về môi trường như bảo về đất và nguồn nước, bảo
tồn đa dạng sinh học, còn tăng mức độ hấp phụ cacbon và nâng cao hàm lượng
oxy trong không khí. Cho nên ngay từ năm 1970, một chương trình Lâm nghiệp
xã hội đã được thực hiện ở Ấn Độ, nhằm thúc đẩy mọi người dân tham gia rộng
rãi vào phong trào trồng cây phân tán, có sự trợ giúp và hướng dẫn của
Nhà nước nhằm giảm bớt sức ép lên rừng tự nhiên. Cung cấp nguồn gỗ, củi và
thức ăn gia súc cho người dân địa phương và chắn gió hại cho các cây nông
nghiệp. Và đến năm 1980 hầu hết các vùng đất rộng lớn ở ấn Độ đã trồng theo
chương trình này.
Kết quả điều tra ở Bang Haryana nằm ở phía Tây Bắc Ấn Độ cho thấy:
Diện tích tự nhiên của Bang Haryana 4,42 triệu ha, diện tích đất không có rừng
là: 4,36 triệu ha, diện tích đất có rừng là: 60.000 ha (độ che phủ của rừng 1,36%
diện tích tự nhiên của Bang). Tổng số làng đã điều tra là 219 làng, thuộc 12
huyện của Bang. Tổng số cây trồng phân tán ở Haryana là 54.984.000 cây,
trải rộng trên 4,36 triệu ha, bình quân 12,6 cây/ha. Tổng số cây trồng phân tán
ở Haryana là 54.984.000 cây, trải rộng trên 4,36 triệu ha, bình quân 12,6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
5
cây/ha.Tổng trữ lượng cây phân tán là 10,3 triệu m
3
hay 2,36 m
3
/ha. Khi so
sánh với trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của Bang là 1,41 triệu m
3
, thì trữ lượng gỗ
rừng trồng cây phân tán cao hơn gấp 7 lần. Gồm có 9 loại cây trồng phổ biến,
chiếm 80% tổng trữ lượng.
Tỷ lệ cây trồng nhiều nhất là Lâm nghiệp trang trại 41% (diện tích tối đa
là 0,1 ha), sau đó đến rừng làng (23%), trồng cây bên đường (13%), rừng trồng
(11%) diện tích cây che phủ lớn hơn 0,1 ha, trồng cây dọc kênh mương (9%),
trồng cây xung quanh bờ ao và các loại còn lại (3%).
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Về nguồn gốc của trồng cây lâm nghiệp phân tán
Trước năm 1959, ở Việt Nam chưa có phong trào trồng cây phân tán, các
hộ dân ở đồng bằng cũng như miền núi chỉ có tập quán trồng các cây ăn
quả thân gỗ trong các vườn hộ gia đình như Nhãn, Vải, Cam, Quýt, Mít, Hồng
xiêm, Sầu riêng, Măng cụt.v.v chủ yếu phục vụ cho gia đình và cung cấp nhỏ
lẻ cho thị trường. Từ năm 1959, nhân ngày Tết âm lịch, Hồ Chủ tịch đã phát
động phong trào trồng cây và từ đó Người thường xuyên theo dõi, nhắc nhở
động viên phong trào. Tết trồng cây dần trở thành một phong tục tốt đẹp của
nhân dân ta. Nhìn lại kết quả trồng cây các năm ta thấy năm 1955 - 1956 chỉ có
3 tỉnh tham gia phong trào trồng cây là Thanh Hoá, Nghệ An, Phú Thọ đã
trồng được 445.000 cây phân tán chủ yếu là trồng Phi Lao trên đất cát vùng
ven biển, trồng Xoan, Tre ở các vùng đồng bằng và một số cây ăn quả ở
Trung du. Đến năm 1959, có tới 26 tỉnh trên tổng số 31 tỉnh ở miền Bắc tham
gia phong trào trồng cây và kết quả là đã trồng được 14 triệu cây [2].
Trồng cây phân tán được coi là một hoạt động lâm nghiệp phong trào hay
lâm nghiệp quần chúng, được phát triển mạnh theo lời kêu gọi thực hiện Tết
trồng cây được Bác Hồ phát động từ năm 1959. Từ đó đến nay hàng năm kể cả
những năm chiến tranh ác liệt, năm nào ở khắp mọi nơi nhất là ở các thành phố
lớn cứ đến độ xuân về cũng tổ chức lễ phát động tết trồng cây, huy động hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
6
chục vạn người trồng được hàng triệu cây xanh cùng với sự tham gia của các vị
lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể ở địa phương. Hoạt
động đó đã trở thành phong trào, tạo thành một lễ hội truyền thống tốt đẹp
không chỉ được tổ chức hàng năm qua gần tròn nửa thế kỷ mà trong tương
lai còn được duy trì đều đặn, mãi mãi cho các thế hệ mai sau. Hoạt động đó
luôn luôn nhắc nhở, giáo dục quảng đại quần chúng quan tâm gây trồng, bảo
vệ, yêu cây xanh và quý rừng vàng, không chỉ có ý nghĩa xã hội lớn mà còn
đóng góp nâng cao lợi ích kinh tế và môi trường cho đất nước .
Từ sau ngày 19/11/1977, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 425 TTg
"Về việc phát triển phong trào trồng cây nhân dân phân tán trong cả nước"
nhằm thực hiện tốt hơn nữa Tết trồng cây, phong trào đã được lan rộng khắp
cả nước, số lượng cây trồng hàng năm tăng lên gấp bội, loài cây cũng đa dạng
và phong phú. Tết trồng cây đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam.
1.2.2. Về hình thức tổ chức thực hiện
Trồng cây phân tán là một hoạt động mang tính chất lâm nghiệp phong
trào. Hưởng ứng Tết trồng cây hàng năm, ở khắp mọi miềm, tuỳ nơi, tuỳ lúc các
cấp chính quyền, đoàn thể, các ngành, các giới, các lực lượng bộ đội, học
sinh đã tổ chức hàng loạt các hoạt động trồng cây gây rừng được phát động
dưới nhiều hình thức phong trào như: Phong trào trồng cây phân tán, phong trào
xanh làng đẹp phố, phong trào xây dựng đồi cây, rừng cây Bác Hồ. Hoạt động
của các phong trào này có quy mô hẹp, không đồng thời, phân tán rải rác ở
nhiều nơi và gắn chặt những người tham gia thực hiện. Cây rừng và rừng được
tạo ra bằng công việc gây trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý, bảo vệ từng
địa bàn cụ thể với cả chuỗi thời gian lâu dài hơn. Do vậy ngoài việc tạo dựng
được ý thức, lòng say mê còn giúp họ, đòi hỏi họ tiếp tục nắm bắt, nâng cao và
thực hiện các kỹ thuật và công nghệ gieo trồng, xây dựng, phát triển và bảo vệ
rừng [7].
1.2.3. Về cơ chế chính sách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
7
Cơ chế chính sách cho trồng cây phân tán trong thời gian qua chưa được
rõ ràng và còn nổi lên nhiều bật cập. Sau năm 1990 do nhiều nguyên nhân khác
nhau, phong trào trồng cây phân tán có phần lắng xuống, các cấp các ngành ít
quan tâm, một số cơ sở, tập thể và cá nhân trồng cây tốt chỉ là do tự phát,
việc tổ chức chỉ đạo không chặt chẽ. Ngay cả trong chương trình 327 và sau
này là dự án 661 đều không có nội dung đầu tư cho mảng trồng cây phân tán.
Do vậy thiếu cơ chế chính sách để khuyến khích và tạo động lực cho phong
trào trồng cây phân tán phát triển.
Đầu tư cho trồng cây phân tán từ lâu nay không thành một chủ trương
thống nhất, mà do từng địa phương, từng tổ chức và cá nhân, tập thể tự quyết
định. V ì v ậy hiệu quả thu được không cao, vẫn là hình
thứ
c mang
tính phong trào. Tuy nhiên một số địa phương, hộ nông dân và các thành
phần kinh tế khác, trong từng điều kiện cụ thể họ vẫn đầu tư và vẫn hình thành
chính sách hoặc những quy ước để phát triển trồng cây phân tán.
Theo đánh giá của Bộ NN & PTNT tại Đề án phát triển trồng cây Lâm
nghiệp phân tán giai đoạn 2006-2020, những chính sách này được tổng hợp
như sau:
- Về quản lý sử dụng đất: Hầu hết các địa phương chưa có quy hoạch đất
đai dành cho dành cho trồng cây phân tán. Các đối tượng trồng cây phân
tán hiện nay cũng được phân ra các chủ sở hữu như sau:
+ Tập thể: gồm các diện tích nằm trong khuôn viên của các công sở
(trường học, bệnh viện, cơ quan, xí nghiệp, khu công nghiệp), diện tích
đất quanh nghĩa trang, ven đường giao thông nông thôn, bờ kênh, bờ mương.
Việc trồng và sử dụng cây phân tán ở đối tượng này thường giao cho tập thể
công đoàn, thanh niên, phụ nữ, các cụ phụ lão,vv tổ chức quyết định phương
án.
+ Cá nhân: gồm các diện tích nằm trong vườn hộ gia đình, đất nằm trong
diện tích được giao khoán cho hộ nông dân để sản xuất nông nghiệp. Việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
8
trồng cây ở đối tượng này là do chủ hộ quyết định.
+ Tổ chức: một hình thức sở hữu khác là các diện tích đất sản xuất của
các nông lâm trường được quy hoạch để trồng cây phân tán và coi đó như một
hoạt động sản xuất chính của đơn vị. Phương án trồng và sử dụng cây phân tán
được tổ chức ấy quyết định.
- Về chính sách đầu tư: Từ lâu nay việc đầu tư cho trồng cây phân tán
không thành một chủ trương thống nhất, mà do từng địa phương, từng tổ
chức và các cá nhân tập thể tự quyết định.
+ Đầu tư từ nguồn ngân sách: Tuy không thành chủ trương nhưng một số
tỉnh hàng năm vẫn trích một khoản ngân sách địa phương để dành cho trồng
cây phân tán. Ví dụ Nghệ An dành mỗi năm 120 triệu đồng, Đồng Nai dành mỗi
năm 450 triệu, Hải Dương dành mỗi năm 400 triệu và An Giang mỗi năm dành
gần 1 tỷ đồng cho trồng cây phân tán.
+ Đầu tư từ nguồn vốn tự có: Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã bỏ vốn tự
có hàng tỷ đồng để trồng cây phân tán như Nông trường Sông Hậu, Nông
truờng Cần Thơ; Nông trường Cờ đỏ và Nông trường Hậu Giang. Qua điều tra
cho thấy các đơn vị tự bỏ vốn để trồng đều đem lại hiệu quả cao.
+ Cá nhân bỏ vốn: các đối tượng này chủ yếu là trồng trong vườn hộ,
trên đất được giao. Mô hình này hầu hết các tỉnh đều có và cũng
t
hu được
hiệu quả kinh tế rõ rệt. Như mô hình trồng Quế ở Yên Bái và Quảng Nam;
trồng Bời lời ở Gia Lai và Kon Tum; mô hình trồng Dó trầm ở Tiên Phước
tỉnh Quảng Nam và ở Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh; mô hình trồng Hòe ở Nam
Định và Thái Bình.
+ Nguồn tài trợ của các dự án trong và ngoài nước
- Về chính sách hưởng lợi: hiện nay nhà nước cũng chưa có những chính
sách nhất quán cho người trồng cây phân tán, do vậy chưa khuyến khích được
mọi thành phần tham gia trồng cây, đây cũng là vấn đề tồn tại cần được rút
kinh
nghiệm cho chỉ đạo trong thời gian tới. Tuy nhiên, một số địa phương, tổ chức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
9
cũng đã có những quy định về chính sách hưởng lợi cho người tham gia trồng
cây phân tán, có thể đưa một số dẫn chứng như sau:
+ Nhà nước hỗ trợ tiền giống, cây con (50% - 100%), các chủ sở hữu đất
nhận trồng cây và chăm sóc bảo vệ, sản phẩm cuối cùng người trồng cây được
hưởng toàn bộ. Cơ chế này đang được áp dụng tại một số tỉnh như Bắc
Giang, Nghệ An, Thái Nguyên, Hà Nam và An Giang.
+ Tập thể hay doanh nghiệp đầu tư kinh phí từ khâu giống đến trồng cây,
sau đó giao cho cá nhân chăm sóc bảo vệ. Người trồng rừng được hưởng 30%
tổng sản phẩm thu được .
+ Đất do chính quyền địa phương quản lý như đường giao thông nông
thôn, nghĩa trang, công sở có hai hình thức nếu người trồng cây bỏ vốn 100%
thì sản phẩm thu hoạch được chỉ nộp lại 30%, nếu địa phương bỏ vốn thì
người trồng rừng chỉ được hưởng 30% [4]
Từ thực tế trên cho thấy trồng cây phân tán mặc dù đã được hình thành
và phát triển từ lâu, song cơ chế chính sách còn mang tính tự phát, thiếu sự
thống nhất trong cả nước, kể cả từ chính sách đầu tư hỗ trợ cho đến chính sách
hưởng lợi. Những chính sách nêu trên đều xuất phát từ điều kiện thực tế của
mỗi địa phương, do các địa phương tự đặt ra và quyết định, chính vì vậy thiếu
đồng bộ, thiếu nhất quán, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả của phong trào trồng
cây phân tán.
Để có định hướng phát triển lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc trong
những giai đoạn tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Chiến
lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020, trong đó mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể đến năm 2020 đặt ra là trồng 200 triệu cây phân tán/năm. Cũng
trong Chiến lược của Chính phủ, định hướng quản lý, bảo vệ, phát triển và sử
dụng rừng được xác định là phát triển mạnh trồng cây phân tán để đáp ứng kịp
thời, có hiệu quả các nhu cầu gỗ gia dụng và củi cho địa phương, đặc biệt ở
vùng đồng bằng và ven biển [10]. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
10
phát triển trồng cây lâm nghiệp phân tán trong thời gian tiếp theo. Do vậy việc
nhìn nhận và đánh giá thực trạng của trồng cây lâm nghiệp phân tán, đặc biệt là
về cơ chế chính sách là việc làm hết sức cần thiết để đề xuất giải pháp phát triển
có hiệu quả chương trình trong thời gian tới.
1.2.4. Về cơ cấu cây trồng và chất lượng giống:
Trồng cây lâm nghiệp phân tán là hình thức phát triển lâm nghiệp đa
dạng hoá về chủng loại cây trồng, với nhiều loại cây trồng phong phú khác nhau.
Những loài cây được lựa chọn trồng cây phân tán và Tết trồng cây có
khoảng 40 loài, phổ biến là các loài cây như: Phi lao, Bạch đàn, Xà cừ, Sấu,
Xoan ta, Lát hoa, Bạch đàn, Keo, Sao đen, và các loài cây ăn quả như Cam,
Quýt, Mít, Dừa, Nhãn, Vải thiều, Xoài và Na được trồng quanh nhà và quanh
vườn [4].
Cũng theo tổng hợp của Bộ NN & PTNT [2006] cho thấy tập đoàn
cây trồng phân tán khá phong phú và đa dạng, gồm khoảng 30-40 loài cây,
trong đó có các loài phổ biến như: Xà cừ, Bạch đàn, Keo các loại, Phi lao, Gạo,
Lát, Sao đen và Dầu rái. Hầu hết các loài cây trồng đều do dân tự lựa chọn từ
các địa phương nên phù hợp với điều kiện sinh thái và phù hợp với sở thích của
người dân. Tuy nhiên do tổ thành loài cây quá đa dạng nên khả năng để tạo
thành hàng hóa còn rất hạn chế, chỉ mới dừng lại chủ yếu là phục vụ nhu cầu
gỗ củi tại chỗ là chính.
Về nguồn gốc giống hầu hết các loài cây trồng phân tán đều được lấy từ
các cơ quan nghiên cứu giống và các cơ sở cung ứng, dịch vụ giống cây nông
lâm nghiệp lớn ở Trung ương và địa phương. Tuy nhiên qua điều tra thực tế còn
khoảng 20-30% thông qua cung ứng dịch vụ của tư nhân và nguồn gốc không rõ
ràng dẫn đến tình trạng sinh trưởng kém.
Về chất lượng giống hầu hết các cây trồng phân tán chưa được chú ý cải
thiện, nhất là tập đoàn cây lâm nghiệp. Trong số các loài cây sử dụng trồng cây
phân tán chỉ có nhóm loài cây mọc nhanh như Bạch đàn, Keo là đã được chọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
11
lọc từ các dòng có năng suất cao còn lại các loài cây khác đều cung ứng không
qua chọn lọc, chất lượng kém. Đối với các cây trồng lâm nghiệp, trong thời gian
qua các loài cây phục vụ trồng cây phân tán hầu hết là các cây được ươm từ hạt,
chỉ có khoảng 10-15% số cây được sử dụng từ nuôi cấy mô. Duy nhất chỉ có
Nông trường Sông Hậu trong mấy năm gần đây đã sử dụng các giống mới với
kỹ thuật sản xuất theo hướng công nghệ cao, đưa tỷ lệ sử dụng cây nuôi cấy mô
với loài Bạch đàn lên tới 80%. Vì vậy, ngoài Nông trường Sông Hậu ra, sinh
trưởng và năng suất của các loài cây trồng phân tán dưới mức bình thường, thậm
chí có nhiều nơi được gọi là nôi của trồng cây nhân dân trước đây như Hà Nam,
Nghệ An, Nam Định và Hải Dương năng suất cây trồng cũng quá thấp. Điều này
có nhiều nguyên nhân nhưng quan trọng là nguồn giống chưa được chọn lọc,
chưa áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong khâu tạo giống [4].
Từ những tổng hợp trên cho thấy, mặc dù về cơ cấu và chủng loại cây
trồng là rất đa
dạ
ng và phong phú, nhưng do không được chọn lọc và cải thiện
kịp thời nên năng suất và chất lượng cây trồng không cao, chỉ mới đáp ứng được
nhu cầu gỗ củi tại chỗ, chưa đạt mạnh đến mục tiêu sản xuất hàng hoá. Vì vậy,
cơ cấu và chất lượng cây trồng là vấn
đ
ề cần được quan tâm trong thời gian tới,
đặc biệt là cần tập trung vào việc lựa chọn những giống cây trồng có năng suất
và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hoá của thị trường.
1.2.5. Về các loại mô hình trồng cây phân tán
Khi điều tra để xây dựng mô hình trồng cây phân tán cung cấp gỗ củi ở
xã Bồ Đề, huyện Lục Nam, tỉnh Hà Nam, Đặng Quang Hưng (2006) [6]
đã thống kê được 04 loại mô hình chính: Mô hình trồng keo tai tượng (do tổ
chức SIDA tài trợ); mô hình trồng bạch đàn Camal dọc đường liên thôn của xã;
mô hình trồng Xoan ta dọc bờ kênh của xã; mô hình trồng cây phân tán trong các
vườn hộ ( do các hộ tự trồng)
Trên cơ sở đó tác giả đã tiến hành xây dựng 04 mô hình trồng cây phân
tán cung cấp gỗ củi có năng suất cao: Mô hình trồng cây phân tán dọc đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
12
liên thôn, liên xã; mô hình trồng cây phân tán trên bờ vùng, bờ kênh, bờ thửa;
mô hình trồng cây phân tán trong trường học; mô hình trồng cây phân tán trong
trang trại nông nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
13
1.2.6. Về kết quả đạt được từ trồng cây phân tán
Trồng cây phân tán từ khi được hình thành, trải qua quá trình phát triển đã
đạt được những kết quả rất quan trọng. Kết quả phong trào trồng cây phân tán ở
nước ta đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho người dân và các địa phương, vừa
đáp ứng được nhu cầu gỗ củi cho người dân nông thôn, vừa phòng hộ đồng
ruộng, phòng hộ ven biển, chắn sóng, chống cát bay, chống xói lở đê điều và cải
thiện môi trường sinh thái.
Đánh giá về phong trào trồng cây phân tán và tết trồng cây trong cuốn
“Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000” do Nhà xuất bản nông nghiệp ấn hành năm
2001 đã ghi: Trong thời gian gần 50 năm qua thực hiện Tết trồng cây và trồng
cây phân tán nhân dân ta đã tạo nên một màu xanh trên khắp các vùng của Tổ
quốc. Trong thập kỷ 60, trung bình mỗi năm nhân dân miền Bắc trồng được 150
triệu cây. Những năm cuối thập kỷ 70, hàng nă m cả nước đã trồng được 300
triệu cây. Thập kỷ 80 bình quân cả nước đã trồng được 350 triệu cây. Trong
thập kỷ 90 hằng năm cả nước trồng được 280 - 300 triệu cây phân tán.
Theo Nguyễn Xuân Quát và cộng sự (2004), Mô hình trồng cây phân tán
đã được phát động rộng rãi tiếp theo phong trào tết trồng cây và cũng được
hưởng ứng tích cực từ nhiều năm qua ở nhiều địa phương, nhất là vùng đồng
bằng và trung du, những nơi có nhu cầu về gỗ củi cũng như che chắn phòng hộ
đồng ruộng và làng xã rất cao. Điển hình về trồng cây phân tán ở huyện Lý
Nhân tỉnh Hà Nam trải khắp xóm làng, ruộng đồng, ven kênh mương, đường đi,
trường học, trụ sở nơi đất chật người đông; ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng
Nam bao quanh thôn xóm, vườn nhà, trên các cồn và đụn bãi cát ven biển.
Thành quả đó không chỉ góp phần cải tạo điều kiện khí hậu đất đai khắc nghiệt
mà còn tạo ra được hàng triệu cây, hàng ngàn héc ta rừng, hàng vạn m3 gỗ củi,
cải thiện đời sống cho người dân và cộng đồng.
* Đánh giá nhận xét chung:
Như vậy từ những nhận định và đánh giá nghiên cứu của các tác giả trên ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
14
trên cho thấy trồng cây lâm nghiệp phân tán có nguồn gốc xuất phát từ rất lâu
đời, ở Việt Nam được hình thành từ lễ phát động Tết trồng cây của Bác Hồ
(năm 1959) và đã trở thành một phong trào, một truyền thống tốt đẹp của nhân
dân ta. Trồng cây phân tán trong những năm qua không chỉ mang lại lợi ích về
mặt kinh tế mà còn mang lại lợi ích vô cùng to lớn về mặt môi trường, sinh
thái, tạo việc làm và cải thiện đời sống cho người dân nông thôn.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về trồng cây phân tán như trình bày ở trên đã
đi vào phân tích đánh thực trạng trồng cây phân tán, một số tác giả cũng đã đề
cập đến tổ thành loài cây trồng phân tán, xây dựng các mô hình trồng cây phân
tán cung cấp gỗ củi. Những nghiên cứu này đã góp phần làm rõ những vấn đề
liên quan, xây dựng được phương pháp luận và cách tiếp cận trong việc
phân tích đánh giá hiện trạng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn chỉ mang
tính thống kê những kết quả đã đạt được và bước đầu phân tích những thực
trạng, hay đi vào xây dựng mô hình trồng cây phân tán mà chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu và những tồn tại
của các mô hình trồng cây phân tán.
Với Bắc Giang, một tỉnh có lợi thế và tiềm năng rất lớn về phát triển
sản xuất lâm nghiệp nói chung và trồng cây lâm nghiệp phân tán nói riêng. Mặc
dù trồng cây phân tán đã được phát động hàng năm vào dịp tết trồng cây, nhưng
việc nghiên cứu đánh giá thực trạng lại rất hạn chế, chưa có nghiên cứu hay một
đánh giá cụ thể nào nhằm tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của trồng cây phân tán để
phát triển phong trào có hiệu quả góp phần cung cấp gỗ củi phục vụ cho nhu cầu
tại địa phương. Đề tài Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp phát triển trồng cây
lâm nghiệp phân tán ở tỉnh Bắc Giang là hết sức cần thiết nhằm rút kinh
nghiệm và bài học để duy trì và phát triển chương trình này ngày càng hiệu quả
hơn.
1.3. Một số thông tin cơ bản về khu vực nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự
nhiên
*Vị trí địa
lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - tnu.edu.vn/
15
Bắc Giang là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc, diện tích tự nhiên
là 382.738 ha; diện tích rừng và đất rừng 166.609 ha, chiếm 43,5% diện tích
tự nhiên. Trung tâm tỉnh là thành phố Bắc Giang, cách thu đô Hà Nội 50 km về
phía Bắc, nằm trên quốc lộ 1A.
Toạ độ địa lý:
- Từ 21
0
07’ đến 21
0
37’ vĩ độ Bắc;
- Từ 105
0
53’ đến 107
0
02’ kinh độ Đông.
Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn; Phía Tây và Tây Bắc giáp Hà
Nội và Thái Nguyên; Phía Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương; Phía Đông giáp
tỉnh Quảng Ninh.
* Đặc điểm địa hình
Địa hình Bắc Giang gồm 2 vùng chính là vùng núi và trung du.
- Vùng núi chiếm 72% diện tích tự nhiên gồm có 7 huyện là Sơn Động,
Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng và Lạng Giang, trong đó
Sơn Động là huyện vùng cao. Đặc điểm chính của vùng này là địa hình chia
cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch về độ cao lớn. Nhiều nơi đất còn tốt, vùng đồi
núi thấp có thể trồng cây ăn quả. Độ cao trung bình từ 300 - 400 m, độ dốc
trung bình từ 20 - 30
0
. Đất lâm nghiệp chủ yếu phân bố ở các huyện miền núi.
- Vùng trung du chiếm 28% diện tích tự nhiên, gồm có 2 huyện va thành
phố là Hiệp Hoà, Việt Yên và thành phố Bắc Giang. Địa hình ít bị chia cắt, chủ
yếu là gò đồi thấp xen lẫn diện tích đồng ruộng tương đối bằng và rộng. Độ cao
trung bình từ 100 - 150 m, độ dốc từ 10 - 15
0
.
* Khí hậu thuỷ
văn
- Khí hậu:
Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đông Bắc
Việt Nam, một năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 22 - 24
0
C,
tháng giêng có nhiệt độ thấp nhất khoảng 17
0
C, tháng nóng nhất là tháng 7 có