Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến sinh trưởng và năng suất lúa bc15 canh tác theo phương pháp sri tại huyện thanh ba tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 100 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM






“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ CẤY
VÀ PHƢƠNG PHÁP TRỪ CỎ ĐẾN SINH TRƢỞNG
VÀ NĂNG SUẤT LÚA BC15 CANH TÁC THEO PHƢƠNG
PHÁP SRI TẠI HUYỆN THANH BA TỈNH PHÚ THỌ”


: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10





:


Thái Nguyên - 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu
i
ĐOAN


.























Số hóa bởi trung tâm học liệu
ii


.
:

1.
.
2.
.
3.
.
Tôi xin t !
















Số hóa bởi trung tâm học liệu
iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU i
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích, yêu cầu nghiên cứu 2

2.1. Mục đích 2
2.2. Yêu cầu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2
3.1. Ý nghĩa khoa học 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài. 3
1.2. Các nghiên cứu về mật độ cấy 4
1.2.1. Mật độ ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng lúa 4
1.2.2. Các nghiên cứu mật độ cấy trên thế giới 6
1.2.3. Các nghiên cứu về mật độ ở Việt Nam 6
1.3. Các nghiên cứu về tác hại và biện pháp phòng trừ cỏ dại 8
1.3.1. Tác hại của cỏ dại 8
1.3.2. Các phương pháp trừ cỏ 9
1.4. Lịch sử SRI 11
1.4.2. Các nguyên tắc của SRI 12
1.4.3. Tình hình ứng dụng SRI trên thế giới 14
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 26
2.1. Đối tượng nghiên cứu 26
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
2.3. Nội dung nghiên cứu 26
2.4. Phương pháp nghiên cứu 26

Số hóa bởi trung tâm học liệu
iv
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 26
2.4.2. Sơ đồ thí nghiệm: 28
2.4.3. Điều kiện thí nghiệm 28
2.5. Phương pháp lấy mẫu theo dõi và các chỉ tiêu theo dõi 29

2.5.1. Chỉ tiêu về thời gian sinh trưởng 29
2.5.2. Các chỉ tiêu về khả năng đẻ nhánh 30
2.5.3. Khả năng tích lũy vật chất khô 30
2.5.4. Chỉ tiêu về sự phát triển của bộ rễ 30
2.5.5. Chỉ tiêu dung trọng đất 31
2.5.6. Các chỉ tiêu chống chịu 31
2.5.7. Chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất: 32
2.6. Phương pháp xử lí số liệu 32
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Ảnh hưởng của phương pháp trừ cỏ và mật độ đến thời gian sinh
trưởng của giống lúa BC 15 33
3.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến khả năng đẻ
nhánh của giống lúa BC 15. 36
3.3.Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến sự phát triển của
bộ rễ giống lúa BC 15 40
3.3.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến số rễ trên khóm . 40
3.3.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chiều dài rễ
trên khóm của giống lúa BC 15 42
3.3.3. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến đường kính rễ . 44
3.3.4. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến trọng lượng
khô rễ ở các thời kỳ. 47
3.4. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến dung trọng đất 53
3.4.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến dung trọng
đất ở vụ mùa 2012. 53

Số hóa bởi trung tâm học liệu
v
3.4.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến dung trọng
đất ở vụ xuân 2013 55
3.5. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chấ

giống lúa BC 15 57
3.5.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chất khô ở vụ
mùa 2012 57
3.5.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chất khô ở vụ
xuân 2013 59
3.6.Ảnh hưởng mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến khả năng chống chịu
giống lúa BC15. 61
3.7. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất của giống lúa BC 15. 63
3.7.1. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất ở vụ mùa 2012 63
3.7.2. Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến yếu tố cấu
thành năng suất và năng suất ở vụ xuân 2013. 68
73
. 73
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74

Số hóa bởi trung tâm học liệu
vi



NSLT
NSTT
ĐVT
Đ/C
BNN&PTNT
QCVN
Ns No significant differences (sai khác không ý nghĩa)










Số hóa bởi trung tâm học liệu
vii



Bảng 01a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến thời
gian sinh trưởng ở vụ mùa 2012 34
Bảng 01b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến thời
gian sinh trưởng ở vụ xuân 2013 35
Bảng 02a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến động
thái đẻ nhánh ở vụ mùa 2012 37
Bảng 02b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến động
thái đẻ nhánh ở vụ xuân 2013 39
Bảng 03a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến số rễ
trên khóm 41
Bảng 03b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chiều
dài rễ 43
Bảng 03c: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến đường
kính rễ 45
Bảng 03d1: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến trọng
lượng khô rễ ở thời kỳ làm đòng 48

Bảng 03d2: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến trọng
lượng khô rễ ở thời kỳ trỗ 50
Bảng 03d3: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến trọng
lượng khô rễ ở thời kỳ chín 52
Bảng 04a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến dung
trọng đất ở vụ mùa 2012 54
Bảng 04b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến dung
trọng đất ở vụ xuân 2013 56
Bảng 05a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chất khô
ở vụ mùa 2012 58

Số hóa bởi trung tâm học liệu
viii
Bảng 05b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến chất khô
ở vụ xuân 2013 59
Bảng 06: Ảnh hưởng mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến khả năng
chống chịu giống lúa BC15. 61
Bảng 07a: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến yếu tố
cấu thành năng suất và năng suất ở vụ mùa 2012 64
Bảng 07b: Ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến yếu tố
cấu thành năng suất và năng suất ở vụ xuân 2013 69


Số hóa bởi trung tâm học liệu
1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Trong sản xuất lúa hiện nay ở các địa phương thuộc tỉnh Phú Thọ, việc
sử dụng phân đạm, hóa chất bảo vệ thực vật quá mức và cấy dày vẫn rất phổ

biến, đây là nguyên nhân chính làm giảm khả năng chống chịu của cây lúa, từ đó
dễ bị sâu bệnh tấn công, gây hại và ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế.
Sử dụng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật còn gây ô nhiễm môi trường
Hệ thống canh tác lúa cải tiến SRI (System of Rice Intensification) là
một trong những giả ợc Bộ
Nông nghiệp và PTNT công nhận là tiến bộ khoa học kỹ thuật. SRI có hiệu
quả vượt trội so với phương pháp canh tác thông thường, giảm được lượng
thóc giống từ 70 -90%, giảm lượng phân đạm từ 20-25%, giảm lượng nước
tưới, tăng năng suất trung bình từ 9-15%. Canh tác theo SRI tạo điều kiện cho
tiểu vùng sinh thái đồng ruộng bất lợi cho dịch hại như bệnh khô vằn, ốc
bươu vàng, bệnh nghẹt rễ, đồng thời tăng khả năng chống chịu sâu, bệnh cho
cây lúa. Hầu hết các huyện trong tỉ ụng SRI trong sản xuấ
.
Thanh Ba là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên
là 19503,41 ha đất nông nghiệp 9992,16 ha chiếm tỷ lệ 51,3% diện tích đất tự
nhiên, trong đó diện tích đất trồng lúa 6600 ha chiếm 66,1%. Diện tích áp
dụng hệ thống thâm canh SRI 710 ha, diện tích này đang được mở rộ
ời nông dân cấy
mật độ

ờng sử dụng
thuốc trừ cỏ để trừ cỏ ảnh hưở ến sức

Số hóa bởi trung tâm học liệu
2
khỏe người sản xuất, ảnh hưởng đến môi trườ
nh .
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến

sinh trưởng và năng suất lúa BC15 canh tác theo phương pháp SRI tại
huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ”
2. Mục đích, yêu cầu nghiên cứu
2.1. Mục đích
Ứng dụng SRI vào sản xuất lúa thông qua việc xác định mật độ cấy và
phương pháp trừ cỏ thích hợp ảnh hưởng tới sự phát triển và năng suất lúa tại
Thanh Ba tỉnh Phú Thọ.
2.2. Yêu cầu nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến sinh
trưởng của cây lúa
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến khả
năng chống chịu của lúa
- Đánh giá ảnh hưởng của mật độ cấy và phương pháp trừ cỏ đến các
yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Là cơ sở khoa học để hoàn thiện quy trình thâm canh lúa SRI tại huyện
Thanh Ba và tỉnh Phú Thọ, là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được mật độ cấy thích hợp cho giống lúa BC 15
canh tác theo SRI
Tìm được phương pháp trừ cỏ an toàn cho môi trường, giảm được công
lao động , phù hợp với yêu cầu canh tác lúa SRI.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU



1.1. Cơ sở khoa học của đề tài.
Năng suất lúa được hình thành từ các yếu tố cấu thành, đó là: Số bông/
m
2
số hạt trắc trên bông và P
1000
hạt. Các yếu tố cấu thành năng suất trong
trong một ruộng lúa lại có quan hệ sinh vật học thông qua mối quan hệ giữa
quần thể và cá thể. Trong đó số bông/m
2
đặc trưng cho quần thể, P
1000
hạt đặc
trưng cho cá thể [12]. Mối quan hệ này mang tính thống nhất và mâu thuẫn.
Khi cá thể phát triển tốt sẽ tạo điều kiện tạo nên một quần thể tốt sẽ hạn chế
sự phát triển của cá thể. Trong quá trình phát triển của cây lúa, thì thời kỳ đầu
là thời kỳ quyết định đến số bông/m
2
. Mật độ cấy và khả năng để nhánh hữu
hiệu quyết định yếu tố này
Trong các biện pháp kỹ thuật thâm canh tăng năng suất lúa thì biện
pháp mật độ gieo cấy được nhiều người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ
thuật nông nghiệp quan tâm và dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu
thực nghiệm. Cho biết trên một diện tích nếu mật độ càng cao thì số bông
càng nhiều, song số hạt trên bông càng ít. Tốc độ giảm số hạt trên bông mạnh
hơn tốc độ tăng mật độ. Vì thế nếu cấy quá dần thì năng suất giảm nghiêm
trọng. Tuy nhiên nếu cấy mật độ thưa thì số hạt trên bông tăng lên nhưng số
bông trên một diện tích ít, đặc biệt là các giống có thời gian sinh trưởng ngắn
cấy trên đất xấu thì năng suất thấp, trích dẫn theo Bùi Huy Đáp (1980) [5].
Nói đến mật độ cấy là nói đến mối quan hệ giữa quần thể và cá thể cây

lúa sống trong quần thể, nên quang hợp của lá lúa chưa quyết định đến năng
suất mà quang hợp của quần thể ruộng lúa mới quyết định đến năng suất cuối
cùng. Trong điều kiện ánh sáng nhất định, chỉ cần cấy dày vừa phải thì tất cả
các lá lúa đạt hiệu suất quang hợp cao nhất. Ngược lại nếu cấy quá dày ánh
sáng trong ruộng giảm và hiệu suất quang hợp thấp, cho nên lá màu vàng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
4
bông ngắn ít hạt năng suất thấp. Như vậy mật độ cấy luôn là vấn đề quan tâm
của các nhà khoa học và bà con nông dân. Cho đến nay các nghiên cứu khoa
học cho thấy rằng cấy ở mật độ hợp lý làm năng suất tăng lên rõ rệt. Tùy
thuộc vào giống, thời vụ, chân đất, mức phân bón, phương pháp canh tác mà
lựa chọn mật độ phù hợp.
Theo Ricardo Labrada-Romero, môt chuyên gia về cỏ dại nói. “ Hạn
hán, côn trùng, hay bệnh tật giành lấy sự quan tâm về mình bởi vì những ảnh
hưởng của chúng gây ấn tượng mạnh. Cỏ dại thì rất khác. Nó lặng lẽ tàn phá
gây thiệt hại quanh năm, năm này sang năm khác”.
Số liệu rõ ràng chứng minh rằng cỏ dại cần phải được xếp vào lọai kẻ
thù số 1 của nông dân. Căn cứ vào nghiên cứu của tổ chức môi trường hàng
đầu Land Care của New Zeyland, cỏ dại gây ra thiệt hại 95 tỷ đô la Mỹ mỗi
năm do làm giảm sản lượng lương thực thực phẩm trên toàn cầu so với 85 tỷ
bởi bệnh cây, 46 tỷ bởi côn trùng và 2,4 tỷ bởi các động vật có xương
sống.Với thời giá hiện nay, 95 tỷ đô la có thể mua được 380 triệu tấn lúa mì,
hơn phân nửa sản lượng lúa mì toàn thế giới dự kiến đạt được trong năm 2009.
Trong số 95 tỷ đó thì có khoảng 70 tỷ thiệt hại gây ra ở các nước nghèo.
Những sự thiệt hại về kinh tế có thể lớn hơn nữa nếu tính đến khía cạnh là
hơn phân nửa thời gian mà nông dân lao động trên đồng ruộng là dành cho
công việc nhổ cỏ, Labrada Romero nói. Điều đó có nghĩa rằng nếu trang trại
muốn gia tăng sức sản xuất, một trong những điều đầu tiên bắt buộc phải làm
là cải thiện phương thức quản lý cỏ dại

1.2. Các nghiên cứu về mật độ cấy
1.2.1. Mật độ ảnh hưởng tới sự sinh trưởng, năng suất và chất lượng lúa
Mật độ là số cá thể trên một đơn vị diện tích, mật độ ảnh hưởng đến
khả năng quang hợp của cá thể và quần thể ruộng lúa. Mật độ ảnh hưởng đến
khả năng đẻ nhánh, tỷ lệ nhánh hữu hiệu, khả năng chống chụi sâu bệnh và từ
đó ảnh hưởng đến năng suất lúa.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
5
Đối với cây lúa, số lượng tuyệt đối về số nhánh thay đổi nhiều qua mật
độ nhưng số nhánh hữu hiệu giữa các mật độ khác nhau thay đổi không nhiều
Bùi Huy Đáp(1999) [6]. Mật độ cấy ảnh hưởng rất lớn đến sự phát sinh sâu
bệnh, có nhiều tác giả nhận xét rằng: khi mật độ gieo cấy cao sẽ tạo điều kiện
cho sâu, bệnh phát triển. Vì khi mật độ gieo cấy cao thân lá cây lúa thường mềm
yếu, ẩm độ trong quần thể ruộng lúa cao và thiếu ánh sáng cho nên sâu, bệnh dễ
gây hại. Cho nên cấy ở mật độ hợp lý sẽ hạn chế được sâu bệnh phát sinh.
Theo Nguyễn Văn Hoan (1995) [9] mật độ cấy tỷ lệ thuận với số bông
nhưng tỷ lệ nghịch với số hạt trên bông. Tức là nếu mật độ gieo cấy càng cao
thì cho số bông càng nhiều, song số hạt trên bông càng ít và ngược lại. Vì thế
cấy quá dầy sẽ làm năng suất giảm đi nghiêm trọng. Tuy nhiên đối với những
giống có thời gian sinh trưởng ngắn hoặc trên chân đất nghèo dinh dưỡng thì
cấy thưa rất khó đạt được năng suất mong muốn.
Tùy từng giống để chọn mật độ thích hợp và tính toán khoảng cách đủ
rộng để làm hàng lúa thông thoáng, các khóm lúa ít che khuất nhau tạo điều
kiện cho quần thể ruộng lúa quang hợp tốt. Cách bố trí khóm lúa theo hình
chữ nhật là phù hợp nhất vì mật độ tăng hơn so với cách bố trí theo hình
vuông nhưng vẫn đảm bảo sự thông thoáng trong quần thể ruộng lúa. Nguyễn
Văn Hoan (2004)[10]
Theo Đinh Văn Lữ (1978) [11]. khi mật độ cấy tăng thì số bông tăng,
số hạt/ bông tăng đến một phạm vi nhất định và tỷ lệ hạt lép là ít nhất thì năng

suất đạt cao nhất. Khi mật độ tiếp tục tăng thì số hạt trên bông và tỷ lệ hạt trắc
giảm thì năng suất lại thấp.
Vì vậy năng suất lúa sẽ tăng khi tăng mật độ cấy trong phạm vi nhất
định nếu vượt quá thì năng suất lại giảm.
Như vậy mật độ cấy là biện pháp kỹ thuật quan trọng nó ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu, bệnh và năng suất
của cây lúa.

Số hóa bởi trung tâm học liệu
6
1.2.2. Các nghiên cứu mật độ cấy trên thế giới
Mật độ cấy là biện pháp kỹ thuật quan trọng, nó phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, dinh dưỡng, đặc điểm của giống Khi nghiên cứu vấn đề này
Sasato(1966) đã có kết luận: trong điều kiện dễ canh tác, lúa mọc tốt thì nên
cấy mật độ thưa và ngược lại. Giống lúa cho nhiều bông thì cấy dày không có
lợi và ở vùng lạnh nên cấy mật độ dày hơn ở vùng nóng.
Khi mật độ cấy vượt quá mức tối ưu, sự cạnh tranh về ánh sáng và dinh
dưỡng lúa trở nên trầm trọng, do đó sự tăng trưởng của cây chậm lại và năng suất
cũng giảm, trong nhữ ồng lúa cấy dày, sự cạnh tranh giữa cá thể là cao
và làm cho quần thể ruộng lúa thiếu ánh sáng do đó cây lúa phát triển về thân lá
thay vì phát triển hạt. Miller và cộng sự cho rằng số bông trên một đơn vị diện tích
là thành phần quan trọng nhất đến năng suất và đóng góp 89% sản lượng.
Theo Suichi Yoshida (1985)[16] cho biết trong một ruộng lúa cấy,
khoảng cách thích hợp cho lúa đẻ nhánh khỏe và sớm thay đổi từ 20 x 20 cm
đến 30 x 30 cm. Theo ông việc đẻ nhánh chỉ sảy ra đến khi mật độ là 300
cây/m
2
, nếu tăng mật độ cấy lên nữa thì chỉ có những dảnh chính cho ra bông.
Năng suất hạt tăng lên khi cấy từ 182 – 242 dảnh/m
2

. Số bông trên diện tích
tăng theo mật độ nhưng số hạt trên bông lại giảm. Mật độ cấy là vấn đề tương
quan số dảnh cấy và sự đẻ nhánh. Cấy thưa thì cây lúa đẻ nhánh khỏe số dảnh
nhiều còn ngược lại cấy mật độ dầy thì khả năng đẻ nhánh kém.
Các nhà sinh thái học đã nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất và
quần thể ruộng cây trồng đều thống nhất rằng: các giống khác nhau phản ứng
mật độ khác nhau, việc tăng mật độ trong giới hạn nhất định thì năng suất
tăng, nếu quá giới hạn thì năng suất lại giảm.
1.2.3. Các nghiên cứu về mật độ ở Việt Nam
Khi nghiên cứu khả năng đẻ nhánh của cây lúa Bùi Huy Đáp(1980) [5]
làm thí nghiệm với giống lúa tám thơm với khoảng cách cấy 40x40cm và cấy
1 dảnh cây lúa đẻ được 232 dảnh/m
2
trong đó có 198 dảnh thành bông đạt tỷ

Số hóa bởi trung tâm học liệu
7
lệ 85%. Đối giống Chiêm Thanh khi tiến hành cấy 1 dảnh với khoảng cách
40x40cm thì đẻ được 113 dảnh trong đó có 101 dảnh cho ra bông đạt 89,4%.
Qua đây chúng ta có thể thấy khi cấy ở mật độ thưa thì khả năng đẻ nhánh của
cây lúa tăng lên. Khi làm thí nghiệm đối với giống Di Hương với khoảng cách
cấy khác nhau thay đổi từ 30x30cm, 20x15cm, 20x10cm, 15x5cm, 10x5cm,
5x5cm. Với số dảnh cơ bản tương ứng 3,5,8,10,13,16. như vậy số dảnh thay
đổi từ 11-400 khóm/m
2
và mật độ dảnh cơ bản thay đổi 11-6400dảnh/m
2
. Thí
nghiệm được tiến hành trong 2 vụ đã cho thấy thời gian đẻ nhánh của giống
lúa Di Hương thay đổi rõ rệt với các mật độ khác nhau. Mật độ càng cao thì

thời gian đẻ nhánh càng bị rút ngắn trừ mật độ thưa (30x30 và 20x15cm). Qua
các nghiên cứu của Bùi Huy Đáp cho rằng nếu ta cấy càng dày thì số hạt trên
bông ít VD: như cấy 1600 dảnh/m
2
thì số hạt trên bông chỉ có 8 hạt, cấy 1000
dảnh/m
2
trung bình 1 bông có 22 hạt, cấy 500 dảnh/m
2
thì một bông có 44 hạt,
cấy 250 dảnh/m
2
một bông có 82 hạt, cấy mật 33 dảnh/m
2
1 bông có 119 hạt.
Theo Nguyễn Công Tạn, Ngô Thế Dân, Hoàng Tuyết Minh, Quách
Ngọc Ân (2002) [13]. các giống lai có thời gian sinh trưởng trung bình như
Bắc ưu 64 thì cấy mật độ 35 khóm/m
2
, còn các giống lai có thời gian sinh
trưởng ngắn như Bội tạp sơn thanh, Bội tạp 77 thì mật độ cấy 40-45 khóm/m
2

thì cho năng suất cao.
Theo Nguyễn Văn Hoan (1995) [9] số dảnh ở mỗi khóm phụ thuộc
trước hết vào số dảnh cơ bản. Nguyên tắc chung của việc xác định số dảnh
cấy của mỗi khóm dù cấy ở mật độ khác nhau nhưng cuối cùng cần số hạt
thóc/m
2
như mong muốn.

Như vậy mối quan hệ giữa quần thể và cá thể có thể coi sự phát triển
của quần thể (ruộng lúa) biểu hiện bằng bông trên đơn vị diện tích còn sự phát
triển của cá thể (từng cây lúa) biểu hiện bằng số hạt trên bông và khối lượng
hạt. Khi thay đổi mật độ cấy sẽ tạo ra quá trình đẻ nhánh và hình thành số
bông khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến năng suất. Tiến hành thí nghiệm trên

Số hóa bởi trung tâm học liệu
8
giống Sán ưu quế để đạt năng suất 300kg/sào bắc bộ thì cần có 7-10 bông/
khóm. Với 7 bông/khóm cần cấy mật độ 43 khóm/m
2
, với 8 bông/khóm cần
cấy mật độ 38 khóm/m
2
, với 9 bông/khóm cần cấy mật độ 33 khóm/m
2
, với
10 bông/khóm cần cấy mật độ 30 khóm/m
2
. Như vậy mật độ cấy cũng ảnh
hưởng đến số bông hữu hiệu trên khóm. Cấy thưa thì tỷ lệ bông hữu hiệu cao
hơn so với cấy mật độ dầy
Nghiên cứu ảnh hưởng mật độ cấy đến sinh trưởng của lúa ngắn ngày.
(Nguyễn Như Hà, 2005) kết luận: Tăng mật độ cấy làm cho việc đẻ nhánh của
cây lúa giảm. So sánh khả năng đẻ nhánh của cây lúa ở mật độ cấy 45 khóm/m
2

và 85 khóm/m
2
thì thấy ở mật độ cấy 45 khóm/m

2
khả năng đẻ nhánh cao hơn ở
mật độ cấy 85 khóm/m
2
là 14,8% ở vụ xuân, còn ở vụ mùa tăng 25%.
Một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ của ruộng lúa là số dảnh
cấy/ khóm. Số dảnh cấy phụ thuộc vào số bông dự định phải đạt/m
2
trên cơ sở
mật độ cấy đã được xác định. Việc xác định số dảnh trên khóm cần đảm bảo
nguyên tắc đảm bảo số bông hữu hiệu không giảm tổng số hạt chắc/m
2
đạt
được số lượng dự định.
Theo Nguyễn Công Tạn, Ngô Thế Dân, Hoàng Tuyết Minh, Quách
Ngọc Ân (2002)[13]. khi sử dụng mạ non để cấy thì sau cấy, cây lúa sẽ đẻ
nhánh sớm và nhanh. Nếu cần số bông hữu hiệu/khóm là 9 bông với mật độ là
40 khóm/m
2
thì chỉ cần cấy 3-4 dảnh/khóm. Khi tăng dảnh cấy lên thì số
nhánh đẻ có thể tăng lên song tỷ lệ nhánh hữu hiệu lại thấp.
1.3. Các nghiên cứu về tác hại và biện pháp phòng trừ cỏ dại
1.3.1. Tác hại của cỏ dại
Sự xuất hiện của cỏ dại đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng và chúng
hạn chế năng suất và chất lượng cây trồng. Người ta thường nói rằng một số
cỏ dại gây mất mùa và trừ cỏ là hoàn toàn cần thiết (De Datta và Haque,
1982)[21]. Không được kiểm soát cỏ dại cạnh tranh với cây lúa đối với ánh
sáng, chất dinh dưỡng làm giảm năng suất lên đến 80% (Sinha Babu và cộng

Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
sự 1992; Behera và Jha, 1992). Ước tính thiệt hại năng suất do sự cạnh tranh
của cỏ dại gây ra dao động từ 30-100% (Dobermann và Fairhurst,2000) [20].
Năng suất lúa do cỏ dại phạm vi từ 10-50% (Singh, 1993). Tốc độ tăng trưởng
được kiểm soát cỏ dại gây ra giảm 53% sản lượng lúa trong điều kiện đất có
nước, và giảm 91% sản lượng trong điều kiện đất khô hạn. Trong điều kiện
đất thấp hoặc vùng trũng cỏ dại là vấn đề chính. Trừ cỏ ngay ở giai đoạn đầu
của sự phát triển của cây lúa tốt hơn ở giai đoạn sau. Tổn thất về năng suất hạt
gây ra bởi cỏ dại thay đổi từ 30-50% .
1.3.2. Các phương pháp trừ cỏ
Để trừ cỏ có nhiều phương thức và mỗi phương thức đều có một lợi thế.
Tùy vào điều kiện mà người ta lựa chọn
1.3.2.1. Hiệu quả của việc làm cỏ bằng tay
Các hoạt động làm cỏ lần thứ nhất được thực hiện 3-4 tuần sau khi cấy
và cần 25-34 lao động / ha tùy thuộc vào mật độ cỏ dại. Làm cỏ lần thứ hai
thường được thực hiện 15-30 ngày sau khi làm cỏ đầu tiên và thường yêu cầu
12-15 lao động / ha (Moddy, 1998).[27]
Việc làm cỏ bằng tay hạn chế cỏ dại tốt nhất và giúp cây trồng phát
triển tốt hơn theo nghiên cứu của (Gogoi, 1998) tần suất làm cỏ bằng tay 1-2
lần thì năng suất tăng lên gấp đôi. Cũng theo (Ahmed, 1982) khoảng thời gian
làm cỏ từ khi cấy đến 49 ngày sau dẫn đến năng suất cao nhất cho lúa. Làm cỏ
bằng tay là phương pháp phổ biến nhất và hiệu quả kiểm soát cỏ dại trong
ruộng lúa nhưng nó đang gặ ế. Do tiền lương cao và
không có lao động thời kỳ cao điểm của hoạt động nông nghiệp (Singh,
1999)[32]. Làm cỏ bằng tay cần lượng lao động lớn, tuy nhiên làm cỏ bằng tay
là phổ biến trong các lĩnh vực lao động là do dễ dàng có sẵn và chi phí thấp.
1.3.2.2. Ảnh hương của việc ứng dụng thuốc trừ cỏ trên năng suất lúa
Phương pháp truyền thống làm cỏ bằng tay rất mất thời gian và không
hiệu quả. Kiểm soát cỏ dại hóa học có thể được coi như là một thay thế tốt


Số hóa bởi trung tâm học liệu
10
hơn (Singh, 1993). Sử dụng hóa chất để kiểm soát cỏ dại đã được tìm thấy
hiệu quả và kinh tế (Pilai, 1977; Singh và Mani, 1981)[31].
Hóa chất làm cỏ dễ dàng hơn, tiết kiệm thời gian và kinh tế so với làm
cỏ bằng tay (Brar và Mishra, 1989). Thuốc diệt cỏ phương pháp kiểm soát cỏ
dại cung cấp một lợi thế để tiết kiệm lao động và tiền bạc, kết quả là, coi là
phương pháp hiệu quả về chi phí kiểm soát cỏ dại (Ahmed, 2000). Ở Hàn
Quốc và Trung Quốc, việc sử dụng thuốc trừ cỏ chiếm khoảng 70% và 90%.
Thuốc diệt cỏ sử dụng di chuyển các hệ sinh thái nông nghiệp đa dạng loài
thấp với cỏ dại vấn đề mới xuất hiện, vì vậy sẽ có một nhu cầu cho một cách
tiếp cận sinh thái để kiểm soát cỏ dại thay vì dựa hoàn toàn vào các phương
pháp kiểm soát hóa chất (Moody, 1992)[26].
1.3.2.3. Ảnh hưởng của kiểm soát cỏ dại bằng cào cỏ cải tiến
Với SRI làm cỏ được thực hiện bằng tay bằng cách sử dụng cào cỏ cải
tiến (Cono-weeder) với không sử dụng thuốc diệt cỏ. Điều này trả cỏ dại về
cho đất làm phân xanh. Hơn nữa làm cỏ trở nên dễ dàng hơn trong những năm
kế tiếp, như kỹ năng đạt được trong các phương pháp và thực hiện tốt hơn
được phát triển. Từ bỏ thuốc diệt cỏ có một lợi ích sức khỏe cho tất cả những
người liên quan, như người nông dân và người tiêu dùng và không gây ô
nhiễm môi trường và nguồn nước ngầm. Hiệu quả rõ rệt về số lượng tăng lên
làm cỏ bằng cào cỏ cải tiến cho thấy rằng kiểm soát cỏ dại là yếu tố quan
trọng và nó cũng làm cho đất thoáng khí (Fernandes và Uphoff, 2002)[22]
Trong các thí nghiệm tiến hành trong thời gian 02/2001, Senthilkumar (2003)
so sánh việc sử dụng cào cỏ cải tiến (năm lần với khoảng thời gian 10 ngày
từ 20 ngày sau khi cấy) với làm cỏ tay thông thường (ba lần) cho mùa mưa,
và sử dụng thuốc trừ cỏ kết hợp làm cỏ bằng tay hai lần cho mùa khô. Trong
cả hai mùa kiểm soát cỏ dại bằng cào cải tiến làm tăng đáng kể năng suất. Sử
dụng cào cỏ cải tiến làm tăng chiều cao cây trồng và nâng cao năng suất hạt
tăng 10,9% so với làm cỏ bằng tay.


Số hóa bởi trung tâm học liệu
11
Vijayakumar (2006)[30] cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể năng suất
9,7% (tương ứng khoảng cách cấy 20 x 20 cm) và 11,1% (khoảng cách cấy 25
x 25 cm) khi sử dụng cào cỏ cải tiến so với cỏ thông thường (thuốc diệt cỏ +
tay làm cỏ) . Một số phân tích đã chỉ ra rằng làm cỏ bổ sung ngoài hai lần đầu
có thể tăng thêm 0,5 đến 2,5 tấn/ha. Trong một cộng đồng Madagascar, những
người nông dân đã không làm cỏ cào cải tiến năng suất đạt 6,0 tấn/ ha, những
người nông dân đã làm một hoặc hai bằng cào cải tiến đạt năng suất 7,5 tấn/ha
1.4. Lịch sử SRI
Phương pháp SRI đã được tổng hợp trong đầu những năm 1980 bởi
Henri de Laulanié người Pháp đến Madagascar làm việc từ vào năm 1961 và
đã trải qua 34 năm của cuộc đời mình làm việc với nông dân Madagascar để
cải thiện hệ thống nông nghiệp của họ, và đặc biệt là sản xuất lúa gạo của họ,
vì gạo là lương thực chính ở Madagascar. Gạo cung cấp hơn một nửa lượng
calo tiêu thụ hàng ngày ở Madagascar. Laulanié muốn giúp nông dân nâng cao
năng suất của họ mà không cần đầu tư cao bởi vì các hộ gia đình Malagasy rất
nghèo khó.
Henri de Laulanié thành lập một trường nghiệp nông trong Antsirabe
vào năm 1981 để giúp thanh niên nông thôn có kiến thức và kỹ năng có liên
quan đến nghề nghiệp của họ và nhu cầu của gia đình. Mặc dù SRI đã được
"phát hiện" trong năm 1983, phải mất một vài năm để đạt được sự tự tin rằng
những phương pháp liên tục có thể làm tăng sản xuất. Trong năm 1990, cùng
với một số đồng nghiệp Malagasy, Laulanié thành lập một tổ chức phi chính
phủ NGO (Non-Governmental Organization), tên là Hiệp hội Tefy Saina , để
làm việc với nông dân và các chuyên gia nông nghiệp để nâng cao sản lượng
nông thôn và đời sống ở Madagascar.
Trong năm 1994, Tefy Saina bắt đầu làm việc với Viện Quốc tế Cornell
Thực phẩm, Nông nghiệp và Phát triển (CIIFAD) có trụ sở tại Ithaca, để giúp

nông dân sống trong vùng ngoại vi xung quanh Vườn Quốc gia Ranomafana

Số hóa bởi trung tâm học liệu
12
để tìm giải pháp thay thế sản xuất lúa nương của người dân trong vùng. Vì
năng suất lúa trung bình chỉ 2 tấn/ha, việc người dân tiếp tục phát triển lúa
nương và giảm hệ sinh thái rừng đang bị đe dọa tại Madagascar. Việc này chỉ
dừng lại khi năng suất lúa của họ được tăng lên tương đương như ở vùng
đồng bằng. Phương pháp SRI đã được giới thiệu ở Ranomafana thì năng suất
trung bình 8 tấn/ha. Một dự án Pháp để cải thiện hệ thống tưới tiêu quy mô
nhỏ trên các cao nguyên cao trong giai đoạn này đồng thời cũng cho thấy
người nông dân sử dụng phương pháp SRI trung bình trên 8 tấn/ha, so với 2,5
tấn/ha với các phương pháp truyền thống và 3,7 tấn/ha với các phương pháp
cải thiện sử dụng phân bón. Một đánh giá riêng biệt ủy nhiệm của cơ quan
viện trợ của Pháp (Bilger, 1997) cũng khẳng định trung bình SRI năng suất 9
tấn/ha.
1.4.2. Các nguyên tắc của SRI
Henri de Laulanié đã đưa ra (Uphonff 2007)[29] nguyên tắc của SRI là
các điều kiện tối ưu cho cây lúa phát triển, giúp cây lúa đẻ nhánh tối đa, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, SRI được phát triển trên 5 nguyên tắc
Nguyên tắc thứ nhất: Là cấy mạ non và cấy một dảnh duy nhất trên một
khóm, làm giảm sự cạnh tranh và giúp giảm thiểu sự che khuất giữa các lá lúa
với nhau. Điều này giúp lá duy trì khả năng quang hợp tốt hơn, và hoạt động
của rễ mạnh hơn do tăng cường cung cấp oxy và carbohydrate (Tanaka, 1958;.
Horie và cộng sự, 2005) . cấy một dảnh giúp cho lá lúa trẻ lâu hơn và giúp
duy trì hiệu suất quang hợp của cây lúa ở các giai đoạn phát triển sau này. Kết
quả này đã được xác nhận bởi cấy một dảnh duy nhất trên một khóm có năng
suất cao hơn so với ba dảnh trên khóm (San Oh và cộng sự, 2006). Mishra
(2006)[25]. Phương pháp SRI cho năng suất cao nhất khi cây con được cấy ít
hơn 15 ngày tuổi và tốt nhất là chỉ có 8 -12 ngày, tức là, trước khi bắt đầu

hình thành lá thứ tư . Điều này giúp cây lúa có khả năng đẻ nhánh tốt nhất,
bởi vì cây lúa có thể đẻ nhánh ngay ở đốt mắt đầu tiên. Cấy mạ non cây mạ ít

Số hóa bởi trung tâm học liệu
13
bị tổn thương đến bộ rễ, cây lúa không phải trải qua giai đoạn bén rễ hồi xanh,
cho nên nó có thể rút ngắn được thời gian sinh trưởng.
Nguyên tắc thứ 2: Là cấy thưa
Cây lúa với khoảng cách rộng lớn hơn có diện tích hơn đất xung quanh
để vẽ chất dinh dưỡng và tiếp cận tốt hơn với bức xạ năng lượng mặt trời để
quang hợp cao hơn. Khoảng cách là rất quan trọng trong việc thay đổi các
thành phần ảnh hưởng đến năng suất hạt. Việc cung cấp các nguồn dinh
dưỡng chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động hệ thống rễ, khi có phạm vi hoạt
động rộng hơn thì rễ có khả năng hấp thu dinh dưỡng nhiều hơn. Vì vậy
khoảng cách rộng hơn cho phép rễ phát triển dồi dào. Những giống có thời
gian sinh trưởng dài thì sinh trưởng tốt với khoảng cách rộng hơn so với
giống có thời gian sinh trưởng ngắn.
Nguyên tắc thứ ba: Làm cỏ sục bùn
Để kiểm soát cỏ dại, sử dụng cào cỏ cải tiến được khuyến khích, bắt
đầu từ sau 10 ngày sau khi cấy, sau 10 -12 ngày tiến hành làm một lần cho
đến cây kín đất. Một hoặc làm cỏ là đủ để kiểm soát cỏ dại nhất đất
thông khí xuất hiện để kích thích sự tăng trưởng của vi khuẩn hiếu khí và nấm
và các sinh vật có liên quan trong mạng lưới thức ăn đất. Trồng lúa theo mộ
vuông cho phép nông dân để loại trừ theo các hướng vuông góc, mà
đạt được nhiều hơn và tốt hơn thông khí đất. Tất cả những việc này đều biết là
có tác động tích cực đến sản lượng (Horie, 2005)[23]. Làm cỏ tăng năng suất
từ 0,5-1,0 tấn.

Nguyên tắc thứ tư: Là tưới nước hợp lý
Tưới nước ngập khô xen kẽ nó giúp cho việc sản xuất lúa tiết kiệm

được lượng nước tưới, đồng thời tạo điều kiện cho bộ rễ cây lúa phát triển.
Khi tưới xen kẽ nó làm tăng lượng oxy trong đất, khi đó rất thích hợp cho sự phát

Số hóa bởi trung tâm học liệu
14
triển của bộ rễ lúa. Tưới nước xen kẽ bộ rễ lúa ăn sâu hơn tăng được khả năng
chống đổ, làm thân cây lúa cứng trắc hơn tăng khả năng chống chụi sâu bệnh.
Nguyên tắc thứ năm: Là giảm lượng phân hóa học và tăng cường phân
hữu cơ.
Sự tăng cường phân hữu cơ vào đất có thể tăng độ phì nhiêu của đất,
quyết định kết cấu của đất, độ tơi xốp thoáng khí của đất, quyết định độ thấm
nước và giữ nước của đất, quyết định hệ đệm của đất, quyết định tới số lượng
và khả năng hoạt động của vi sinh vật trong đất. Tạo điều kiện cho bộ rễ lúa
phát triển,cải thiện đặc điểm hình thái và hoạt động của rễ lúa. Nó có tác
dụng làm tăng mật độ rễ , diện tích hấp thu hoạt động, khả năng oxy hóa và
hấp thu dinh dưỡng (Yang, 2004)[33]
1.4.3. Tình hình ứng dụng SRI trên thế giới
Theo Noman Uphonff (2009) hệ thống thâm canh lúa cải tiến làm giảm
chế độ nước tưới cho cây lúa, ảnh hưởng tích cực đến đất và dinh dưỡng trong
đất, có thể làm năng suất tăng 50-100% và có thể nhiều hơn. SRI còn làm
giảm lượng giống, phân hóa học, hóa chất nông nghiệp và công lao động.
Những ưu điểm của SRI được ghi nhận ở nhiều quốc gia như: Trung Quốc,
Ấn Độ, Indonesia, Myanma, Srilanka…SRI giúp người nông dân giảm chi phí
cho sản xuất lúa ở mức thấp nhất, SRI không yêu cầu sử dụng giống mới,
không đòi hỏi đầu tư nhiều về phân bón… Nông dân có thể tăng sản lượng lúa
của mình bằng cách tiếp tục trồng bất cứ giống nào mà họ đang sử dụng, họ
giảm được lượng hạt giống, nước tưới, phân bón, công lao động.
1.4.3.1. Ứng dụng SRI ở
SRI được bắt đầu được nghiên cứu và đánh giá ở Trung Quốc bắt đầu
từ năm 1999-2000 sau khi các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã được tiếp cận

SRI bởi bài viết ILEIA của Justin Rabenandrasana, vào năm 1999 và hội thảo

Số hóa bởi trung tâm học liệu
15
của Noman Uphonff về SRI tại Trường đại học nông nghiệp Nam Ninh năm
1998. SRI được thử nghiệm đầu tiên tại Trường đại học nông nghiệp Nam
Ninh do Tiến sỹ Cao Weixing và Trung tâm nghiên cứu phát triển lúa thực
hiện. Trường đại học nông nghiệp Bắc Kinh đã thử nghiệm kỹ thuật SRI trên
cả hai loại đất, đất trũng và đất cao đều cho kết quả tốt. Sự phát triển của SRI
tại Trung Quốc phát triển rất nhanh, năm 2003 chỉ có 7 hộ gia đình tại làng
Xinsheng sử dụng sử dụng SRI vào sản xuất, nhưng đến năm 2004 đã có 398
hộ gia đình áp dụng chiếm 65% số hộ nông dân tại đó. Trong năm 2007,
110.000 ha lúa SRI đã được trồng tại tỉnh Chiết Giang và 120.000 ha ở tỉnh
Tứ Xuyên. Theo Sở Nông nghiệp, sự phát triển của SRI nhanh như vậy bởi vì
họ thấy rằng SRI cho phép họ giảm hạt giống, nướ
động giảm. Việc xem xét thứ hai là đặc biệt hấp dẫn đối với nhiều nông dân
Trung Quốc bởi vì công nghiệp phát triển đang giảm nguồn cung cấp lao
động cho nông nghiệp. SRI đã làm tăng năng suất lên 35,2%, tiết kiệm nước
43,2%[28] Năng suất trung bình của những nơi canh tác theo SRI đạt 10
tấn/ha, cao hơn với phương pháp truyền thống khoảng 3,5- 4 tấn/ha, đây là kết
quả nghiên cứu của Học viện nông nghiệp Trung Quốc.
1.4.3.2. Ứng dụng SRI Ấn Độ
SRI được đưa vào Ấn năm 2000 khi các nhà nghiên cứu thuộc Trường
đại học Nông nghiệp Tamil Nadu khởi xướng các thí nghiệm liên quan đến
nguyên tắc của SRI trong một dự án hợp tác về trồng và sử dụng ít nước năm
2003. SRI đã được thử nghiệm trên cánh đồng có sự tham gia của 200 nông
dân tại lưu vực sông Cauvery và Tamiraparani. Kết quả cho thấy năng suất
tăng 1,5 tấn/ha trong khi đó giảm chi phí sản xuất và nhu cầu lao động giảm
8%. Kết quả này tạo nền tảng cho việc chính thức khuyến cáo áp dụng SRI
cho nông dân vào năm 2004. Đồng thời trường Đại học Nông nghiệp

Acharya N.G. Ranga, giới thiệu phương pháp SRI trên ruộng lúa của nông
dân năm 2003. thử nghiệm so sánh đã được tiến hành trên toàn bang. Năng

Số hóa bởi trung tâm học liệu
16
suất của SRI tăng 2,5 tấn/ha (tăng 50%) so với phương pháp truyền thống.
Cũng thời gian này PRADAN tổ chức phi chính phủ đã giới thiệu SRI vào
Purulia huyện của bang Tây Bengal, nơi mà chỉ trong 4 nông dân đã sẵn sàng
để thử các phương pháp mới trong năm 2003. Năm tiếp theo, 150 nông dân
thực hành SRI và gần 4.000 vào năm 2007. Ở Ấn Độ SRI đang hướng tới các
cây trồ , lúa mì.
1.4.3.3. Ứng dụng SRI ở Campuchia
Vào năm 2000 SRI bắt đầu được giới thiệu tại Campuchia bởi CEDAC
( Center Etude and Development in Agriculture Cambodian), lúc đầu chỉ có
28 nông dân tham gia thử nghiệm. Lúc đầu họ rất khó chấp nhận SRI đặc biệt
là sử dụng mạ non và cấy thẳ . Nhưng những kết quả đạt được về sinh
trưởng, phát triển của cây lúa làm cho họ chấp nhận thâm canh lúa theo SRI.
Năm 2002 sau khi CEDAC thí nghiệm SRI ở mùa mưa và mùa khô thì
đã giành được sự tin tưởng của người dân tham gia. Họ đã cải tiến các nguyên
tắc của SRI cho phù hợp với tập quán canh tác của địa phương. Họ có các tài
liệu phát tay cho người dân về SRI bằng tiếng Khmer [19].
Sau những thành công của SRI, chính phủ Campuchia đã ủng hộ và
thúc đẩy phát triển SRI ở tất cả các tỉnh. Tính đến năm 2008 đã có 104750
nông dân áp dụng SRI với diện tích là 58.290 ha. Năng suất trung bình 35,3
tạ/ha cao hơn so với năng suất trung bình là 26,2 tạ/ ha, lượng hạt giống giảm
70-80% và phân hóa học giảm 50%
1.4.3.4. Ứng dụng SRI ở Myanmar
Năm 2000, Quỹ Metta Phát triển, thông qua nông nghiệp cố vấn
Humayun Kabir, tiến hành thí nghiệm đầu tiên với SRI tại Bang Kachin. Sau
một năm đầu tiên đáng thất vọng (sản lượng 1,97-2,73 tấn/ha) do trồng muộn.

Thực nghiệm năm 2001 năng suất trung bình là 5,5 tấn/ha cao hơn so với năng
suất điển hình của phương thức truyền thống 2,5 tấn/ha. Trong những năm sau
năng suất trung bình đạt 5 tấn/ ha, cá biệt có nơi đạt năng suất 10 tấn/ha[29].

×