Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HỌC QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.54 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
Đề tài :
CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
NHÓM THỰC HIỆN :NHÓM
1. Lê Thị Ngọc Anh
2. Bùi Việt Chương
3. Bạch Lâm Duy
4. Phạm Xuân Phương
LỚP TCDN ĐÊM 5 – K20
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TPHCM, ngày 10 tháng 4 năm 2012
MỤC LỤC
1. Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương 3
1.1 Định nghĩa 3
1.1.1 Ngân hàng trung ương (“NHTW”) 3
1.1.2 Lãi suất 4
1.2 Cơ chế lãi suất của Ngân hàng Trung ương 7
2. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Việt Nam: 9
3. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW một số nước: 16
3.1 Mỹ (Fed) 16
3.2 NHTW Anh (BOE) 17
3.3 NHTW châu Âu (ECB) 18
3.4 NHTW Úc (RBA) 18
3.5 NHTW Nhật Bản (BOJ) 19
4. Các giải pháp đề xuất: 20
1. Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương


1.1 Định nghĩa
1.1.1 Ngân hàng trung ương (“NHTW”)
- Khái niệm: Ngân hàng trung ương là 1 định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực
tiếp thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền. Là ngân hàng
của các ngân hàng, ngân hàng của chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý
nhà nước cề các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu phát triển và ổn định
của công cộng.
- Xét về vị trí, NHTW mỗi quốc gia có thể được tổ chức theo mô hình trực thuộc hay
độc lập với chính phủ; điều này cũng có ảnh hưởng phần nào đến các chức năng của
NHTW mỗi quốc gia.
Trực thuộc chính phủ Độc lập chính phủ
NHTW chịu sự chi phối trực tiếp của
chính phủ, việc xây dựng và thực hiện
chính sách tiền tệ vì thế mà không còn
được tính chủ động, xa rời mục tiêu dài
hạn.
NHTW các nước châu Á (Xingapo, Hàn
Quốc, Đài Loan, VIệt Nam…)
Việc xây dựng và thực hiện chính sách
tiền tệ không chịu nhiều ảnh hưởng từ
chính phủ.
NH Dự trữ Liên bang Mỹ, NHTW Thụy
Sĩ, NHTW Pháp, NHTW Nhật, NHTW
Châu Âu…
- Chức năng: NHTW đảm nhiệm 4 chức năng:
 Là ngân hàng phát hành.
Ngân hàng trung ương là người duy nhất phát hành tiền theo các quy định trong
luật hoặc được chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ
thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Ngân hàng trung ương xác định số lượng
phát hành tiền cần phát hành và thời điểm phát hành cũng như phương thức phát

hành.
 Là ngân hàng của các ngân hàng.
NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian. Các trung
gian tài chính buộc phải dự trữ 1 lượng tiền mặt nhất định để đảm bảo nhu cầu
rút tiền mặt của khách hàng,đảm bảo khả năng thanh toán và hạn chế khả năng
rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống. NHTW cũng là trung tâm thanh toán và cấp
tín dụng cho hệ thống ngân hàng trung gian.
 Là ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng trung ương có nghĩa vụ cung các dịch vụ cho ngân hàng Chính phủ
và làm đại lý, tư vấn chính sách cho chính phủ. Đồng thời, cũng làm thủ quỹ cho
kho bạc nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc, làm đại lý tư vấn
cho chính phủ hoặc cho Chính phủ vay.
 Chức năng quản lí nhà nước (là chức năng quyết định bản chất gắn liền với các
nghiệp vụ ngân hàng của NHTW)
NHTW có trách nhiệm và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và thanh
tra,giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ
thống ngân hàng và bảo vệ công chúng đầu tư.
1.1.2 Lãi suất
- Định nghĩa: Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các
phạm trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay
vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn
kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi suất là
giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người sử dụng
trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh ra là bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn
đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hay tiêu dùng) trong khi người cho vay đã hi sinh quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh
quyền được sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của người cho vay chính là lãi suất.
- Phân loại
 Lãi suất thương mại: Áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình
thức mua bán chịu hàng hoá.

 Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi vay.
 Lãi suất tiền vay: Là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử
dụng vốn vay của ngân hàng.
 Lãi suất chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán
của khách hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá trị
và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
 Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất thực hiện trên cơ sở đối tượng là các giấy tờ có
giá. VD: Hối phiếu, lệnh phiếu, Trái phiếu Các ngân hàng sẽ chấp nhận trả
tiền cho người cầm (hoặc sở hữu các giấy đó để đổi lại một khoản lời mà ta gọi
là lãi suất chiết khấu và thu lại khoản tiền của họ đối với người thanh toán ghi
trên đó khi đến hạn. Các ngân hàng này lại cần tiền nhưng các giấy tờ đó chưa
đến hạn thanh toán họ bán lại các khoản sẽ thu này cho NH TW để đổi lấy tiền
mặt và bớt lại cho NHTW một khoản, ta gọi đó là lãi suất tái chiết khấu.
 Lãi suất tái cấp vốn cũng gần giống như vậy nhưng đối tượng ở đây là các khoản
cho vay của các NH TM, và sau đó họ bán lại các khoản này cho NH TW để đổi
lấy lương tiền mặt.
 Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng.
 Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định mức
lãi suất kinh doanh của mình.
 Lãi suất tín dụng Nhà nước: Áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể kinh
tế khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hay trái phiếu.
 Lãi suất tín dụng doanh nghiệp: Áp dụng khi doanh nghiệp đi vay các chủ thể
khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu.
 Lãi suất tín dụng tiêu dùng: Áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay
để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất thị trường: Lãi suất được quyết định bởi quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường tài chính, nhân tố làm thay đổi lãi suất chính là nhân tố
làm dịch chuyển đường cung cầu vốn bao gồm:

 Cung cầu quỹ cho vay
 Mức cung cầu tiền tệ
 Tỷ giá
- Vai trò của lãi suất được thể hiện cụ thể qua các nội dung sau:
 Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư:
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm
của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay phục vụ cho nhu cầu của nền kinh
tế.
 Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Chúng ta thấy rằng, lãi suất là khoản chi phí của người đi vay, nên sự thay đổi
của lãi suất sẽ ảnh hưởng tới quyết định đến đầu tư và tiêu dùng của người dân,
doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác. Cụ thể lãi suất thấp có thể kích
thích đầu tư, kích thích tiêu dung và làm tăng tổng cầu và sản lượng tăng, giá
tăng, thất nghiệp giảm, còn lãi suất cao sẽ làm giảm thiểu đầu tư, hạn chế tiêu
dùng và làm giảm tổng cầu dẫn đến sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng.
Như vậy, NHTW có thể tạo dùng công cụ lãi suất để điều tiết nền kinh tế vĩ mô
trong từng hoàn cảnh nhất định.
 Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn
lực của nền kinh tế.
Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng nào đó
trong nền kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất cho
vay (như giảm lãi suất cho vay ), và ngược lại khi muốn hạn chế phát triển của
các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác thì Nhà nước có
thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó. Như vậy, những ngành được hỗ trợ sẽ
phát triển hơn còn các ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển hơn. Do đó chính sách lãi
suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả
nhất các nguồn lực.
 Là công cụ đo lường nền kinh tế
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn phát triển thì lãi suất thường có xu hướng tăng
do cung cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn

hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái lãi
suất thường có xu hướng giảm. Do đó khi nhìn vào sự biến động của lãi suất ta
có thể thấy được tình trạng của nền kinh tế. Lãi suất lại là một biến số thường
xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biên động của lãi suất người
ta có thể dự báo được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính sinh lời của các
dự án đầu tư, mức độ lạm phát, mức độ thiếu hụt ngân sách và qua đó còn có thể
dự báo được tình hình nền kinh tế trong tương lai.
 Là công cụ thục hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của lãi suất đã làm cho nó trỏ thành công
cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Lãi suất thị trường thay
đổi sẽ tác động đến các biến kinh tế vĩ mô.
1.2 Cơ chế lãi suất của Ngân hàng Trung ương
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của
các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền của quốc
gia - thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ
điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
NHTW thực hiện cơ chế và chính sách lãi suất dựa trên nguyên tắc chủ yếu:
- Xuất phát từ quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường.
- Tác động trực tiếp đến việc điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng phù
hợp trong từng giai đoạn, thời kỳ của nền kinh tế.
- Là lãi suất cho vay cuối cùng của NHNN đối với NHTM.
Có thể thấy rằng NHTW sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào nền kinh tế vì lãi suất
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cụ thể như sau:
- Ảnh hưởng của lãi suất do NHTW ấn định tới các NHTM
Tác động chủ yếu bởi 3 loại lãi suất sau: lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và lãi
suất tái cấp vốn. Nếu muốn hạn chế việc tạo tiền của các ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn, từ đó kéo theo lãi suất trên thị
trường giữa các ngân hàng tăng lên, vốn khả dụng giảm, Ngân hàng Nhà nước sẽ
thận trọng trong việc cấp tín dụng, do đó tín dụng được cấp cho doanh nghiệp rất ít.
- Ảnh hưởng tới tổng thể nền kinh tế

Giả sử khi lãi suất thị trường tăng, lãi suất tăng làm giảm vay nợ dẫn đến cá nhân
giảm đi vay tăng gửi tiết kiệm do đó giảm tiêu dùng và tác động tiêu cực tới tổng
cầu. Thêm vào đó, doanh nghiệp giảm vay mới và do đó giảm đầu tư mới, nên tác
động tiêu cực tới tổng cầu. Mặt khác, lãi suất tăng còn có nghĩa là giá cả các khoản
vay hiện thời của doanh nghiệp tăng, có nghĩa là giá vốn tăng hay chi phí sản xuất
tăng. Điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp có xu
hướng thu hẹp sản xuất; do đó tác động tiêu cực tới tổng cầu. Lợi nhuận của doanh
nghiệp giảm còn làm giảm thu nhập của người lao động. Điều này khiến họ giảm
tiêu dùng. Tổng cầu lại chịu tác động tiêu cực.
Thêm vào đó, lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ở nước ngoài sẽ
khiến cho dòng vốn từ nước ngoài tăng cường chảy vào trong nước. Điều này làm
cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ với ngoại tệ giảm xuống. Xuất khẩu ròng vì thế giảm
làm cho tổng cầu giảm theo. Kiềm chế được lạm phát.
Tùy tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn mà
NHTW sử dụng công cụ lãi suất để đưa ra những chính sách lãi suất phù hợp và riêng
biệt. Chúng ta sẽ tìm hiểu việc sử dụng công cụ lãi suất cụ thể như thế nào ở phần sau.
2. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW Việt Nam:
Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, là một chỉ số kinh tế tổng hợp, chịu tác động bởi nhiều
nhân tố kinh tế vĩ mô, tài chính- tiền tệ ở trong nước và ngoài nước. Các ngân hàng thương
mại (NHTM) ấn định lãi suất kinh doanh (huy động và cho vay vốn) dựa trên cơ sở cơ chế
điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương (NHTW), xu hướng cung – cầu vốn thị trường,
lạm phát, mức độ rủi ro và lãi suất thị trường quốc tế. Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi
suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn; giai đoạn chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất thực
dương,
Giai đoạn Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất thoả
thuận, giai đoạn thực hiện trần lãi suất cho vay.
Thời gian Chính sách LS Tác động Nguyên nhân
Giai đoạn
đầu của
thời kỳ

đổi mới
(1988-
1992)
chính sách "lãi suất
âm"
lãi suất huy động danh nghĩa rất cao, nhằm
thu hút mạnh tiền vào hệ thống ngân hàng,
từ đó giảm bớt tổng phương tiện thanh toán
để ổn định và giữ vững giá trị đồng tiền,
đồng thời duy trì lãi suất cho vay ở mức độ
hợp lý, các doanh nghiệp có thể chịu đựng
được nên đã đưa nền kinh tế thoát khỏi cơn
suy thoái trong một hoàn cảnh hết sức khó
khăn.
tình hình kinh tế bị lạm phát phi mã
Giai đoạn
từ tháng
6/1992
đến cuối
năm 1994
chính sách "lãi suất
dương"
vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng, vừa
đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp gửi tiền
tại ngân hàng và kích thích doanh nghiệp
tiết kiệm, sử dụng vốn có hiệu quả.
nền kinh tế đã thoát khỏi lạm phát phi mã
sự đi xuống của tốc độ lạm phát vừa đảm
bảo khuyến khích tiết kiệm vừa đẩy mạnh
đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Giai đoạn
1996 đến
tháng
7/2000
Ngân hàng Nhà nước
điều hành lãi suất
theo lãi suất trần.
tiền đề để hình thành chính sách lãi suất mới
đó là chính sách khống chế trần lãi suất cho
vay
. Với chính sách này , NHTW đã khống chế
lãi suất cho vay tối đa của các NHTM và
các tổ chức tín dụng . Trong năm 1999 ,
NHTW đã thực hiện 5 lần giảm lãi suất trần
cho vay nhằm đối phó với các cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực và thế giới . Việc
giảm lãi suất như vậy , đã có tác dụng kích
cầu , tăng đầu tư , tăng mức tiêu dùng để
khắc phục hậu quả khủng hoảng kinh tế .
kiềm chế thành công lạm phát khi đẩy lùi
lạm phát về mức một chữ số
Giai đoạn
từ tháng
8/2000
đến tháng
5/2002
điều hành lãi suất
theo lãi suất cơ bản
có tác động tích cực đến tiến trình phát triển
của hệ thống tài chính Việt Nam

kiểm soát tốt lượng tiền trong lưu thông
Giai đoạn
từ tháng
6/2002
đến 2008
Lãi suất thỏa thuận
Cơ ché điều hành lãi
suất cơ bản
trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ cung
cầu vốn tín dụng giữa ngân hàng vµ khách
hàng, thể hiện vai trò tác động và sự ảnh
hưởng hết sức quan trọng đến nền kinh tế
Ở giai đoạn này , vẫn có sự phân biệt giữa
lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp
quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân . Bên
cạnh đó , với cơ chế cho vay theo lãi suất
thoả thuận , các NHTM có nơi cho vay với
Năm 2011:
- 3 tháng đầu năm:
o Không có nhiều biến động, nền kinh tế đang trên đà phục hồi
o Mức lãi suất duy trì ở mức thấp sau gói hỗ trợ lãi suất của NHNN  cơ chế lãi
suất trần không còn cần thiết 14/04/2010 NHNN ban hành thông tư
12/2010/TT-NHNN hướng dẫ tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng VN đối với
khách hàng theo lãi suất thỏa thuận
- 03/2011 đến cuối năm:
o Tỷ lệ lạm phát tăng cao + giá cả nhiên liệu, năng lượng, các hàng hóa khác
tăng mạnh
o Mục tiêu: kiểm soát lạm phát, ổn định nền kinh tế  NHNN thực thi chính
sách tiền tệ thắt chặt  LS tiền gửi và cho vay của NHTM tăng
o Ban hành thông tư 02/2011/TT-NHNN (03/03/3011): mức lãi suất trần huy

động tiền gửi là 14% cho các NHTM.
o Ưu tiên hàng đầu: giảm lãi suất cho vay đối với các DN bằng cách kiểm soát
chặt chẽ mức lãi suất huy động đầu vào của các ngân hàng.
o Lãi suất huy động và cho vay vẫn tiếp tục tăng, và từ 14,5% vào 3/2010 lên
18,5% vào 06/2011 và 18,73% vào 08/2011
o Lập nhóm G12+1 ( 12 NHTM lớn và NHNN)  xây dựng các chính sách
quản lý tiền tệ hiệu quả
o Chính sách trần lãi suất huy động  giảm LS cho vay vào thời điểm cuối năm
Chính sách trần tỏ ra không có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng đầu năm, nhưng
nhanh chóng có những chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm
Mục tiêu của NHNN: chặn lãi suất tăng cao tác động gia tăng lạm phát, ảnh hưởng xấu tới
tăng trưởng kinh tế 09/2011, NHNN đã quyết liệt siết chặt việc tuân thủ quy định mức trần
lãi suất huy động vốn 14% và xử lý nghiêm các tổ chức tín dụng vi phạm. Nhờ vậy, lãi suất
cho vay của các tổ chức tín dụng cũng đã dần dần đc kéo xuống ở mức khoảng từ 17-19%,
DN có thể chịu đựng được và có thể tiếp tục vay vốn để duy trì phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%), 4 lần tăng lãi
suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8% lên 15%). Lãi suất cơ bản
đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010.
Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy động VND lên đến
20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay phi sản xuất
từ 25-28%/năm.
Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải đi vay
trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới
mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.
Năm 2012 (quý 1):
Tựu trung, có 5 gánh nặng đang đè lên vai lãi suất, nên việc điều chỉnh giảm 1% các lãi suất
điều hành vừa qua của Ngân hàng Nhà nước là một cố gắng, đặt trong định hướng thắt chặt -
thận trọng - linh hoạt.
Gánh nặng thứ nhất là nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Nhiệm vụ này xuyên suốt từ năm 2011

cho đến nay. Chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát cao.
Đầu năm 2011, có những lựa chọn được đặt ra. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng lãi suất là
công cụ chủ lực đề kiềm chế lạm phát, còn tăng dự trữ bắt buộc theo nguyên Thống đốc
Nguyễn Văn Giàu lúc đó là một giải pháp bạo lực. Lãi suất cao chống lạm phát cao được
xem là một giải pháp kinh điển, kéo dài cho đến nay.
Gánh nặng thứ hai là lãi suất đang đóng vai trò trợ lực quan trọng cho việc giữ ổn định tỷ giá
USD/VND. Lãi suất rất cao, cũng như chênh lệch lớn so với lãi suất USD, đang hỗ trợ cho
giá trị VND. Thực tế tỷ giá đã có một quãng thời gian dài tương đối ổn định, để tiếp tục ổn
định đòi hỏi lãi suất vẫn phải gánh trên vai nhiệm vụ tạo độ cao và sự chênh lệch cần thiết.
Thứ ba, lãi suất VND có thêm một nhiệm vụ quan trọng nữa là đảm bảo được sự hấp dẫn để
thu hút tiền gửi, qua đó đảm bảo thanh khoản của hệ thống các ngân hàng. Mức trần lãi suất
huy động 13%/năm hiện nay là tương đối cao và hấp dẫn, song đâu đó vẫn còn tình trạng trả
lãi cao hơn khiến mức 13%/năm chỉ là tương đối.
Thứ tư, ở chiều ngược lại, một gánh nặng đối với lãi suất và đang làm đau đầu nhà điều hành
là khó khăn của các doanh nghiệp, người vay vốn. Lãi suất cho vay quá cao kéo dài đang thể
hiện rõ hơn trong nền kinh tế, ở sản xuất kinh doanh đình đốn, lượng tồn kho tăng lên…
Và gánh nặng thứ năm, theo chuyên gia này là vai trò của lãi suất đối với các lĩnh vực khác
của nền kinh tế như thị trường chứng khoán.
Lãi suất cũng đứng trước đòi hỏi làm sao để hỗ trợ cho quá trình tái cấu trúc và phát triển thị
trường chứng khoán, làm sao để thị trường này thực sự trở thành một kênh dẫn vốn trung và
dài hạn cho nền kinh tế, còn ngân hàng chỉ là kênh hỗ trợ vốn ngắn hạn
Dự báo thị trường chứng khoán Việt Nam có thể tạo đáy trong giai đoạn quý 2 - quý 3/2012;
nếu có sự suy giảm thì chỉ hạn chế trong khoảng 10% - 30% từ mốc kết thúc năm 2011,
trong khi tiềm ẩn cơ hội tăng trưởng 60% - 100% sau một năm.
Lãi suất có thể sẽ tiếp tục giảm từ tháng 6 tới. Khi lãi suất giảm, tăng trưởng tín dụng sẽ có
điều kiện để tăng trở lại. Bên cạnh tín hiệu của lạm phát, một cơ sở để xác định mốc tháng
6/2012 là lãi suất đứng trước áp lực của tăng trưởng kinh tế.
Sau quý 1 tăng trưởng thấp, áp lực tăng trưởng GDP nửa sau 2012 sẽ lớn hơn. Thêm vào đó,
từ tháng 6, khi tác động của lãi suất cho vay quá cao kéo dài trong thời gian qua thể hiện ở sự
khó khăn của các doanh nghiệp, những tiếng “kêu” hay yêu cầu giảm lãi suất sẽ càng có

trọng lượng hơn.
Lãi suất cơ bản 9%
Lãi suất tái chiết khấu 12%
Lãi suất tái cấp vốn 14%
Lãi suất bình quân liên ngân hàng (VNIBOR), (đến ngày 04/04/2012)
Thời hạn %/năm
Qua đêm 10,76
1 tuần 8,66
2 tuần 8,71
1 tháng 11,49
3 tháng 12,34
6 tháng 13,57
12 tháng 13,00
Từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) áp dụng cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản:
- Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay
tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ (cho đến ngày
31/10/2010 là 8%-Quyết định số 2281/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam). Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời,
NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp
vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và
công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách
tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
- Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng
2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết
khấu (hiện nay là 8% – 6%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến
động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định
hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn,
lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
Có thể thấy, việc áp dụng cơ chế điểu hành lãi suất lãi suất cơ bản mang lại các mặt tích cực;

đó là: (1) ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của
các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ
chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố
lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng, (2) cơ
chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt
động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, (3) thể hiện được vai trò và những tác
động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng quát ta có thể rút ra một số nhận xét sau: (1)LSCB do
NHNN công bố có tính hành chính, nó được làm cơ sỏ để xác định trần lãi suất cho vay,
nhưng NHNN không có công cụ bảo vệ hữu hiệu cho mức lãi suất đã công bố nên trên thực
tế khi thị trường khan hiếm vốn, các NHTM tìm cách lách trần lãi suất. (2)Trong suốt 2 năm
qua, việc điều chỉnh LSCB ngay lập tức tác động trực tiếp đến dân chúng và DN bởi nó tác
động trực tiếp đến lãi suất cho vay chứ không tác động gián tiếp như cách điều hành lãi suất
của một số nước phát triển. (3)LSCB do NHNN công bố chưa thật sự phù hợp với diễn biến
thị trường. (4)Về nguyên tắc có thể thấy NHNN đang sử dụng lãi suất tái cấp vốn làm lãi
suất trần và lãi suất tái chiết khấu làm lãi suất sàn, qua đó điều tiết lãi suất liên ngân hàng
nằm trong biên độ trần sàn, tù đó gián tiếp tác động đến lãi suất cho vay của NHTM. Tuy
nhiên do việc xác định quy mô tổng hạn mức chiết khấu và tái cấp vốn chưa thật sự linh hoạt
theo diễn biến thị trường, đòng thời công cụ thị trường mở chưa thật sự phát huy hết vai trò
của nó, nên hai công cụ lãi suất này không hiếm lần trở nên lạc long, mất vai trò sàn/trần của
mình khi nhiều lần lãi suất liên ngân hàng liên tục vượt trần; hay nói cách khác NHNN
không hoàn thành đầy đủ vai trò người cho vay cuối cùng thông qua công cụ lãi suất
3. Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW một số nước:
3.1 Mỹ (Fed)
Hiện nay Fed điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng là lãi suất chiết khấu
(discount rate) và lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Fed earl funds rate-FFR). Ra đời muộn hơn
công cụ lãi suất chiết khấu (được sủ dụng ngay sau khi Fed thành lập), mãi đến năm 1920
FFR mới được Fed sáng tạo ra. Cái tên gọi “quỹ dự trũ liên bang” xuất phát từ việc nguồn
tiền cho các trung gian tài chính nhận tiền gửi vay qua đêm được Fed lấy từ quỹ dự trữ liên
bang hình thành bởi số tiền dự trữ bắt buộc của tất cả các trung gian tài chính nhận tiền gửi.

FFR được ủy ban thị trường mở (FOMC) công bố sau các phiên họp định kì (6 tuần) và nó
không mang bản chất ấn định cụ thể mà thực chất chỉ là lãi suất mục tiêu (target rate) để Fed
giao dịch trên thì trường mở nhằm đạt được mục tiêu đã công bố. Lẽ dĩ nhiên các trung gian
tài chính nhận tiền gửi có thể vay lẫn nhau để bù đắp thiếu hụt, tuy nhiên các khoản vay lẫn
nhau (lãi suất liên ngân hàng) thường cao hơn FFR vì vấn đề rủi ro. Khi Fed cho các trung
gian tài chính vay tiền để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, số tiền đó tuy được hoạch toán
báo có vào tài khoản của các trung gian tài chính tại Fed nhưng các trung gian tài chính đó
không được phép rủi ngay cả khi phá sản, do đó Fed ko có nguy cơ bị mất số tiền cho vay
dưới dạng này.
Khác với Fed, khi một trung gian tài chính cho một đối tác vay liên ngân hàng, họ phải cắt
tiền từ tài khoản tiền gửi của mình, chuyển vào tài khoản tiền gửi của đối tác tại Fed, từ lúc
đó bên cho vay không còn quyền sủ dụng với số tiền cho vay nữa; nguy cơ không thu hồi
được số tiền cho vay xuất hiện, do đó lãi suất phải cao hơn. Có thể thấy được lãi suất FFR là
lãi suất thấp nhất mà các trung gian tài chính nhận tiền gửi có thể vay được, vì vậy có thể
xem đây là lãi suất cơ bản, lãi suất chuẩn.
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo dự trữ bắt buộc, các trung gian tài chính còn có nhu cầu đảm bảo
thanh khoản, an toàn chi trả. Lãi suất chiết khấu của Fed chính là lãi suất cho các trung gian
tài chính vay để đáp ứng nhu cầu này. Về nguyên tắc, thông thường lãi suất liên ngân hàng
phải thấp hơn lãi suất chiết khấu, vì nếu không các trung gian tài chính sẽ không vay liên
ngân hàng mà sẽ vay của Fed để được lãi suất chiết khấu thấp hơn. Lãi suất chiết khấu
thường cao hơn lãi suất FFR và có ba mức lãi suất áp dụng cho ba loại cho vay khác nhau là
tín dụng chính (Primary credit), tín dụng mở rộng (secondary credit) và tín dụng thời vụ
(seasonal credit).
Như vậy Fed bảo vệ lãi suất chiết khấu đã ấn định thông qua chương trình cho vay chiết khấu
và bảo vệ FFR đã công bố thông qua nghiệp vụ thị trường mở. cách điều hành này cua Fed
khiến cho lãi suất liên ngân hàng luôn có xu hướng biến động giữa FFR (có vai trò như lãi
suất sàn trừ gian đoạn khủng hoảng vừa qua) và lãi suất chiết khấu (có vai trò như lãi suất
trần) mà không cần đặt ra các giới hạn như sủ dụng biện pháp hành chính.
3.2 NHTW Anh (BOE)
Tên gọi của lãi suất do ủy ban chính sách tiền tệ của BOE công bố có nhiều lần thay đổi,

nhưng từ ngày 18/05/2006 nó có tên là lãi suất chính thức (Official bank rate). Đây là mức
lãi suất mà BOE trả cho các khoản tiền dự trữ mà các ngân hàng thương mại (NHTM) để tại
BOE. Mức dự trữ là tự nguyện và các thành viên xác định mức cân bằng theo mục tiêu riêng
của mình nhưng không chấp nhận thấp hơn mức trung bình bắt buộc (tính theo tháng) trong
kỳ duy trì. Các NHTM được phép vay có bảo đảm hoặc gửi tiền ở BOE với mức lãi suất nằm
trong biên độ
+
-
1% so với mức lãi suất chính thức cho tất cả các ngày trong tháng ( trừ ngày
cuối cùng trong kỳ duy trì thì biên độ thu hệp còn
+
-
0,25%).
BOE sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để duy trì lãi suất qua đêm, lãi suất các kì hạn khác
dưới 3 tháng luôn nằm trong biên độ. Lãi suất các khoản vay có kì hạn 3-12 tháng được xác
định bởi các thành viên và không phụ thuộc vào biên độ so với lãi suất chính thức.
Như vậy, về bản chất lãi suất chính thức mà BOE công bố là lãi suất mục tiêu chứ không
phải là lãi suất mang tính ấn định cụ thể và BOE sẽ bảo vệ lãi suất chính thức công bố thông
qua nghiệp vụ thị trường
3.3 NHTW châu Âu (ECB)
Hội đồng thống đốc của ECB ấn định ba mức lãi suất chủ chốt của đòng tiền chung Euro bao
gồm:
- Lãi suất cho hoạt động tái cấp vốn (main refinancing operations-MRO): là mức lãi suất áp
dụng cho các khoản vay giúp đảm bảo thanh khoản cho các ngân hàng
- Lãi suất cho các phương tiện tiền gửi thường xuyên, áp dụng cho các khoản tiền gửi qua
đêm của các ngân hàng với Eurosystem (cơ quan quản lí ngoại tệ khhu vực đồng tiền chung
Euro).
- Lãi suất cho các phương tiện vay giới hạn áp dụng cho các khoản vay qua đêm từ
Eurosystem.
ECB sẽ bảo vệ MRO bằng nghiệp vụ thị trường mở thông qua đấu thầu khối lượng hoặc đấu

thầu lãi suất. Song song đó NHTW của các quốc gia thành viên có nhiệm vụ bảo vệ hai lãi
suất chủ chốt còn lại thông qua hoạt động cho vay và nhận tiền gửi để cho lãi suất các
phương tiện tiền gửi thường xuyên đóng vai trò lãi suất sàn, còn lãi suất cho vây giới hạn
đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất cho vay qua đêm sẽ dao động quanh biên độ này. Rõ ràng
cũng như lãi suất chính thức của BOE hay FFR của Fed, các lãi suất chủ chốt mà ECB công
bố đều mang tính chắt mục tiêu, và ECB sẽ bảo vệ lãi suất mục tiêu thông qua các công cụ
chính sách tiền tệ của mình để lãi suất thị trường hướng về mức lãi suất mục tiêu. Trước
khủng hoảng chênh lệch lãi suất trần và sàn giữa ở mức ổn định phổ biến là 2%, nhưng từ
ngày 9/10/2008 đến ngày 20/1/2009 được rút xuống 1%, sâu đó lại tăng lên 2% và đến nay là
1,5%.
3.4 NHTW Úc (RBA)
Hội đồng RBA sẽ ấn định lãi suất tiền mặt (cash rate) là mức lãi suất mang tính mục tiêu
nhằm tác động đến lãi suất cho vay qua đêm của các trung gian tài chính. Thông qua nghiệp
vụ thị trường mở RBA tác động cho lãi suất cho vay qua đêm càng tiệm cận với lãi suất mục
tiêu càng tốt. Thực tế cho thấy, RBA đã khá thành công thông qua nghiệp vụ thị trường mở
khi lãi suất qua đêm luôn được điều chỉnh gần sát với mức lãi suất mục tiêu mà RBA
3.5 NHTW Nhật Bản (BOJ)
Không khác nhiều so với cách thức điều hành lãi suất của NHTW các nước phát triển, trước
đây BOJ sủ dụng công cụ lãi suất có tên gọi lãi suất chiết khấu chính thức (Official discount
rate) bao gồm lãi suất chiết khấu thương phiếu và lãi suất cho vay có đảm bảo bằng trái phiếu
chính phủ (thường thấp hơn 0.25% lãi suất cho vay có đảm bảo bằng tài sản khác).
Kể từ ngày 11/8/2006 các lãi suất cho vay khác nhau được gộp lại bằng nhau, được gọi là lãi
suất cho vay cơ bản và lãi suất chiết khấu cơ bản (Basic discount rate and basic loan rate).
Việc thay đổi tên không hề làm thay đổi bản chất của loại lãi suất này bởi vì nó vẫn là lãi
suất mà BOJ chiết khấu các giấy tờ có giá cho các NHTM, các NHTM sẽ vay chiết khấu của
BOJ khi không tìm được nguồn vay nào trên thị trường liên ngân hàng có chi phí thấp hơn
chi phí vay từ BOJ. Do đó lãi suất mà BOJ công bố nghiếm nhiên trở thành giới hạn trần của
lãi suất cho vay qua đêm cho dù BOJ không đưa ra rào cản hành chính nào cho hoạt động
cho vay qua đêm.
Tóm lại , mỗi nước đều có tên riêng cho các lãi suất mà mình công bố, nhưng về bản chất

điều hành thì không có nhiều khác biệt lớn giữa các nước và hầu hết có những đặc trưng sau:
- Lãi suất công bố là lãi suất mục tiêu, thông điệp mang tính định hướng để thị trường tham
khảo đồng thời thể hiện ý chí của NHTW.
- Sau khi công bố NHTW thường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, thường là
công cụ thị trường mở để điều chỉnh lãi suât ngân hàng về mức lãi suất mục tiêu.mà không
phải can thiệt một biện pháp hành chính nào. (Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán
giấy tờ có giá giữa một bên là Ngân hàng nhà nước với bên kia là các tổ chức tín dụng trong
đó NHNN đóng vai trò là người điều hành thị trường).
- Việc điều hành lãi suất của NHTW có thể nói chỉ tác động trực tiếp đến NHTM, không tác
động trực tiếp đến khu vực dân chúng và doanh nghiệp.
- Định kì công bố lãi suất một cách rõ ràng và công khai.
- Hầu hết lãi suất của các nước kể trên đều được ấn định bởi hội đồng/ủy ban theo nguyên tắc
bình đẳng, và ý kiến của thành viên hội đồng được công bố công khai ngay sau đó, điêu này
khiến cho các thành viên có trách nhiệm hơn khi quyết định lá phiếu của mình.
4. Các giải pháp đề xuất:
Có thể thấy rằng, vấn đề ở đây không phải là cách gọi tên lãi suất, mà quan trọng là cơ chế và
cách thức diều hành lãi suât. Việc sử dụng LSCB trong thời gian vừa qua tuy góp phần nhất
định trong việc bình ổn lãi suất trong thời kì hậu khủng hoảng nhưng nó cũng khiến cho hai
công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu không phát huy được vai trò cần có.
Việc áp dụng LSCB khiến cho việc điều hành lãi suất vẫn còn “hành chính hóa” cản trở tiến
trình tự do lãi suất để từng bước tự do hóa tài chính.
Theo quan điểm của cá nhân, ngay cả khi bỏ LSCB như dự thảo vừa qua trinh quốc hội,
NHNN cũng không hề mất đi vai trò định hướng, điều tiết lãi suất thị trường nếu sử dụng
hữu hiệu hai công cụ lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (có vai trò như lãi suât
chiết khấu và lãi suất FFR mà FED công bố) và lúc này NHNN cũng cần tính toán lãi suất
mức lãi suất mục tiêu.
Công tác thu thập xử lí số liệu thống kê, dự báo diễn biến thị trường cần được làm tốt hơn để
từ đó có cơ sở khoa học cho việc thực hiện giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM
thông qua bộ tiêu chuẩn về an toàn, giới hạn tỷ trọng các loại tài sản của NH (không nên bỏ
qua việc nắm giữ giấy tờ có giá-đủ tiêu chuẩn giao dịch trên thị trường mở) việc này sẽ giúp

NHNN sủ dụng hoạt động thị trường mở để điều tiết lãi suất liên ngân hàng tiệm cận với lãi
suất mục tiêu như cái cách mà NHTW các nước phát triển đã đang thực hiện.
NHNH cần tính toán một mức lãi suất công bố căn cứ theo lãi suất cho vay dài hạn của các
NHTM lớn, để đảm bảo được tính linh hoạt hợp lí của công cụ lãi suất công bố vì nó bám sát
diễn biến thị trường, phản ánh kịp thời quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Điều này
chắc chắn cũng làm giảm đáng kể hoạt động tín dụng chợ đen vẫn chưa triệt tiêu được ở Việt
Nam

×