Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số vấn đề về cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.95 KB, 78 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
chơng I
khái quát chung về lãi suất và cơ chế
tự do hoá lãi suất
I. Khái quát chung về lãi suất
1.Khái niệm về lãi suất
Lãi suất tín dụng đợc hiểu một cách chung nhất là tỷ lệ % so sánh giữa số
lợi tức thu đợc với số tiền bỏ ra cho vay trong một thời kỳ nhất định
( năm, tháng ).
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế đợc theo dõi chặt chẽ nhất do
nó ảnh hởng đến đời sống của ngời dân và tình hình kinh tế của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy mà đã có rất nhiều khái niệm đợc sử dụng để giải thích về vấn đề
này:
Theo Samuelson: Lãi suất là giá mà ngời đi vay phải trả cho ngời cho vay
để đợc sử dụng một khoản tiền trong một thời gian nhất định, nó chính là giá
của việc mua bán quyền sử dụng tiền tệ trong một thời gian xác định.
Theo Jonh Maney Keynes: Lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là
phần thởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản, lãi suất là hiện tợng
tiền tệ phản ánh cung cầu về tiền. Tiền đóng vai trò nh một sự tích luỹ của cải
nhng chi phí cơ hội về việc giữ tiền của dới dạng này là tỷ suất lợi tức có đợc
bằng những tài sản tài chính khác.
Theo quan điểm của trờng phái trọng tiền thì lãi suất là một hiện tợng thực
tế đợc xác định bởi năng suất- cầu về vốn cho mục tiêu đầu t và tiết kiệm-
nguồn cung tiết kiệm. Họ cho rằng tỷ suất lợi tức của tài sản vật chất và vốn có
xu hớng bằng nhau trong dài hạn và thiết lập một mức lãi suất thị trờng duy
nhất.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
1
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Lãi suất có vai trò quan trọng bởi nó tác động đến quyết định của các cá
nhân đối với khoản thu nhập của mình, chi tiêu hay tiết kiệm, tác động đến


quyết định của ngời đi vay, của ngân hàng và của Chính phủ. Lãi suất thể hiện
một đồng tiền bỏ ra hôm nay trong tơng lai nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn, do
đồng tiền đợc trả lãi, chính vì vậy lãi suất là biến số làm cân bằng giá trị một l-
ợng tiền ở thời điểm hiện tại với giá trị nhận đợc trong tơng lai của nó.
2.Phân loại lãi suất
Do lãi suất là hoạt động gắn liền với hoạt động tín dụng dẫn đến có
nhiều loại lãi suất khác nhau.
a. Lãi suất tín dụng ngân hàng:
Là lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa Ngân hàng với công chúng và doanh
nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của
NHTW cho các NH và trong quan hệ giữa các NH với nhau trên thị trờng liên
ngân hàng.
+ Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất mà ngời vay( ngời huy động vốn ) phải trả cho
ngời gửi tiền vào các ngân hàng, các TCTD vào các tài khoản tiết kiệm, tài
khoản vãng lai,.. Để đảm bảo trong nghiệp vụ nhận gửi và cho vay phù hợp với
mục tiêu và yêu cầu của ngời gửi tiền và ngời vay tiền, lãi suất tiền gửi đợc chia
thành nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn và quy mô tiền gửi.
Căn cứ vào thời hạn của khoản tiền gửi ta có:
- Lãi suất tiền gửi ngắn hạn( < 1 năm ) là khoản tiền gửi tiết kiệm tạm thời của
các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp, lãi suất thờng không cao.
- Lãi suất tiền gửi dài hạn ( > 1 năm ) lãi suất thờng cao hơn lãi suất tiền gửi
ngắn hạn do thời hạn càng dài thì chi phí cơ hội của khoản tiền gửi càng lớn và
mức độ rủi ro cũng càng lớn.
Căn cứ vào thời hạn của khoản tiền gửi:
- Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn: là loại lãi suất dành cho loại tiền gửi mà ngời
gửi có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào hoặc gửi tiền với mục đích thanh toán.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
2
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn: là loại lãi suất có kỳ hạn thanh toán lãi cho khoản

tiền gửi vào ngân hàng, có 3 loại kỳ hạn là ngắn, trung và dài hạn.
+ Lãi suất cho vay: Là lãi suất mà ngời đi vay phải trả cho ngân hàng do việc
sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nó đợc áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách
hàng phải trả ngân hàng. Về nguyên tắc, mức lãi suất tiền vay bình quân phải
cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản vay
với thời hạn khác nhau cũng nh mức rủi ro khác nhau.
Lãi suất cho vay tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM
và TCTD vì vậy phải vận dụng chính sách lãi suất cho vay một cách linh hoạt
để tạo đợc sự hài hoà về lợi ích giữa doanh nghiệp và khách hàng hoặc là nhằm
đạt đợc những mục tiêu kinh tế xã hội nào đó của Nhà nớc. Do đó lãi suất cho
vay thờng phải đợc phân loại theo đối tợng ngành nghề và vùng kinh tế.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dới hình
thức chiết khấu thơng phiếu hoặc giấy tờ có giá khác cha đến hạn thanh toán
của khách hàng. Nó đợc tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và
đơc khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Nh vậy nếu xét
trong quan hệ giữa ngân hàng với ngời vay chiết khấu, lãi suất chiết khấu đợc
trả trớc cho ngân hàng chứ không trả sau nh lãi suất thông thờng.
+ Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng Trung ơng tái cấp vốn dới
hình thức chiết khấu lại thơng phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn cha đến hạn
thanh toán của các ngân hàng. Nó cũng đợc tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá
của giấy tờ có giá và cũng đợc khấu trừ ngay .
Lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ơng ấn định căn cứ vào mục
tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hớng biến động
lãi suất trên thị trờng liên ngân hàng.
Vì hành vi tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng nên thông
thờng lãi suất tái chiết khấu thờng nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong
trờng hợp cần phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân
hàng, nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt các ngân hàng trong trờng hợp
vi phạm các yêu cầu về thanh toán, Ngân hàng Trung ơng có thể ấn định lãi
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội

3
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
suất tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống
ngân hàng.
+Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trờng tiền tệ liên ngân
hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ dẫn
chính xác hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung - cầu vốn trên thị
trờng. Lãi suất liên ngân hàng thờng đợc ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng
(còn gọi là lãi suất hàng ngày). Nó đợc hình thành bởi quan hệ cung - cầu tiền
trung ơng của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn
của Ngân hàng trung ơng. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của
hoạt động thị trờng mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay Ngân hàng Trung ơng của
các tổ chức tín dụng. Hiện nay, Việt Nam thờng sử dụng một số lãi suất liên
hàng sau khi ấn định lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
+ Lãi suất cho vay liên hàng: nh LIBOR, PIBOR, ZIBOR, NIBOR,
SIBOR...
+ Lãi suất đi vay liên hàng: nh LIBID, ZIBID, NIBID...
Đây là lãi suất tại các thơng trờng tín dụng chủ yếu của thế giới nh Paris,
Zurich, Newyork, Singapore...
+ Lãi suất bình quân của LIBOR và LIBID là LIMEAN.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất đợc các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn
định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản đợc hình thành khác nhau tuỳ từng nớc, nó có thể do Ngân
hàng Trung ơng ấn định (Nhật: là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể
do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể
của ngân hàng mình (Mỹ, Anh, úc) và đó là mức lãi suất đợc áp dụng cho các
khách hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của
một số ngân hàng đứng đầu, của các ngân hàng khác cộng trừ biên độ giao
động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình
(Malaysia). Một số nớc lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản

Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
4
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
(Singapore, Pháp) vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng rất gần với
mức lãi suất thị trờng liên ngân hàng nếu không nh vậy hoạt động Arbitrage về
lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nớc đều
hình thành trên cơ sở thị trờng và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp đợc lãi suất
cho vay và có đợc mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các
đối tợng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự
biến động của mức bù rủi ro.
ở Việt Nam, Luật ngân hàng nhà nớc hiện nay quy định Lãi suất cơ bản là
lãi suất do Ngân hàng Trung ơng công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất kinh doanh (khoản 12 điều 19). Tuy vậy, vấn đề chọn lãi suất
nào làm lãi suất cơ bản hiện vẫn đang còn là vấn đề tranh luận.
b. Lãi suất chỉ đạo và lãi suất thị tr ờng
+ Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng TW ấn định, không trực tiếp
thay đổi theo sự biến động của thị trờng, nó phụ thuộc vào sự điều tiết của
Ngân hàng trung ơng.
+ Lãi suất thị tr ờng : là lãi suất biến động theo quan hệ cung cầu vốn vay
trên thị trờng, tuy nhiên nó chỉ biến động trong giới hạn của tỷ suất lợi nhuận
bình quân, bởi vì ngời đi vay chỉ có thể trích một phần lợi nhuận thu đợc của
mình thu đợc trả cho ngời cho vay. Trong điều kiện bình thờng tỷ suất lợi
nhuận bình quân là giới hạn cao nhất của lãi suất. Chúng ta không xác định đợc
giới hạn thấp nhất của lãi suất nhng thờng nó phải lớn hơn không vì mấy khi
ngời ta có thể cho vay mà không thu lãi.
c. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
+ Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất đợc tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ
vào thời điểm nghiên cứu hay bản chất của nó là loại lãi suất mà cha trừ đi tỷ lệ
lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thờng đợc ghi trong các hợp đồng tín dụng hay
các chứng chỉ tiền gửi và đợc công bố công khai hàng ngày trên báo chí.

Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
5
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
+ Lãi suất thực: là lãi suất đợc điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
về lạm phát.
Nó chính là mức lãi suất đã trừ đi tỷ lệ lạm phát. Nó gần đúng bằng chênh
lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất này không đợc công bố
công khai mà ngời đi vay phải tự tính ra.
Có 2 loại lãi suất thực:
-Lãi suất thực dự tính trớc: là lãi suất thực đợc điều chỉnh lại cho đúng theo
những thay đổi dự tính về lạm phát.
- Lãi suất thực tính sau: là lãi suất thực đợc điều chỉnh lại cho đúng với
những thay đổi thực tế về lạm phát.
Ngoài tỷ lệ lạm phát thì tỷ lệ trợt giá do lạm phát cũng nói lên sự tơng tác
giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa( trợt giá do lạm phát là tỷ lệ dùng để đo
lờng mức độ lạm phát mong đợi của các nhà đầu t trên thị trờng ).
Nói về vấn đề này Irving Fisher đã đa ra công thức:
In = Ir + I + Ir x Ip
Trong đó:
In:lãi suất danh nghĩa
Ir: lãi suất thực
I : tỷ lệ lạm phát
Ip: tỷ lệ trợt giá do lạm phát mà nhà đầu t
mong đợi.
3. Chức năng của lãi suất
Thứ nhất, lãi suất đem lại sự cân đối giữa cung tiền tệ với cầu tiền tệ. Sự tác
động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định mức lãi suất cân bằng gọi là lãi
suất thị trờng.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
6

Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Đối với những ngời có tiền tiết kiệm, lãi suất là tiền thởng cho việc tiết chế
tiêu dùng và chờ đợi tiêu dùng ở một thời gian nào đó sau này. Lãi suất càng
cao thì sự khích lệ tiết kiệm càng lớn làm cho cung tiền tăng lên.
Đối với những ngời đi vay thì ngợc lại, lãi suất là cái giá phải trả cho số tiền
vay để đầu t hay để mua các sản vật tiêu dùng. Nếu lãi suất càng cao thì ngời ta
vay mợn càng ít làm cho cầu tiền giảm đi.
Cũng vậy, khi NHTW tác động đến mức cung tiền, giả sử nh bán trái phiếu
hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến lợng cung tiền giảm, lãi suất cân bằng
sẽ tăng lên, nh vậy giảm cung tiền dẫn đến lãi suất tăng lên để giảm mức d cầu
tiền.
Thứ hai , lãi suất là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính
phủ, giúp cho việc đảm bảo tiền tiết kiệm sẽ đợc chuyển vào đầu t và kích thích
tăng trởng kinh tế.
NHTW là cơ quan tổ chức thực hiện các chính sách tiền tệ, mục tiêu của
chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng GDP, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Vì chính
sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trờng tiền tệ, qua đó tác động lên
tổng cầu nên việc kiểm soát của NHTW tập trung vào hai công cụ chủ yếu là
mức cung tiền và lãi suất.
Quan hệ cung cầu tiền ấn định mức lãi suất cân bằng tức lãi suất thị trờng và
quan hệ này cũng chịu sự tác động ngợc trở lại của lãi suất.
4. Vai trò của lãi suất
a.Cấp vi mô:
ở cấp vi mô, lãi suất tác động trực tiếp đến ngời đi vay, ngời cho vay và
hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.

Đối với ng ời cho vay
Ngời ta nắm giữ tiền vì các động cơ giao dịch, dự phòng và tài sản. Nhng
ngời ta phải trả chi phí cơ hội cho việc giữ tiền : đó là khoản lãi hoặc lợi tức bị
mất đi do việc giữ tiền mà không đầu t vào các tài sản khác có khả năng sinh

Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
7
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
lời cao hơn. Nếu đem cho vay, khoản tiền đó sẽ mang lại thu nhập từ lãi suất.
Lãi suất càng cao chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền càng lớn nhng đồng thời
khuyến khích ngời ta tiết kiệm nhiều hơn bởi họ có thể nhận đợc nhiều thu
nhập hơn từ lãi. Do đó với ngời cho vay lãi suất đem lại nguồn thu nhập và giúp
họ phần nào cải thiện đời sống.

Đối với ng ời đi vay
Với ngời vay tiền để kinh doanh, lãi suất vừa là chi phí cho khoản vay nhng
đồng thời nó cũng đem lại thu nhập từ lợi nhuận thu đợc do việc sử dụng tiền
vay. Vì vậy họ sẽ quyết định đầu t bao nhiêu bằng việc so sánh lãi suất phải trả
với hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn vay đó cho các dự án đầu t. Lãi suất
tăng nghĩa là chi phí vay vốn đầu t sẽ cao làm cho lợi nhuận giảm, lúc đó nhà
đầu t phải xem xét tính toán kỹ lỡng chuyện vay vốn làm ăn. Chính vì vậy để
giảm bớt tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng ngời ta có thể dùng
công cụ lãi suất.

Đối với các tổ chức kinh doanh tiền tệ
Các tổ chức này đóng vai trò trung gian trong nền kinh tế. Nó thực hiện
chức năng dẫn vốn từ các chủ thể thừa tới các chủ thể thiếu vốn. Khi huy động
vốn, các tổ chức này phải trả lãi cho ngời gửi và thu đợc lãi khi cho vay. Là các
nhà kinh doanh tiền tệ, điều quan tâm trớc hết là:" giá mua, giá bán quyền sử
dụng vốn " bởi thu nhập của họ chủ yếu là khoản chênh lệch giữa lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi sau khi đã trừ đi chi phí các nghiệp vụ kinh doanh, mức
rủi ro hợp lý .... Trong điều kiện lãi suất cho vay không thay đổi hoặc tăng
chậm hơn lãi suất tiền gửi sẽ làm giảm thu nhập của họ, bù lại họ sẽ thu hút đ-
ợc nhiều vốn để mở rộng cho vay. Ngợc lại nếu lãi suất cho vay tăng lên trong
khi lãi suất tiền gửi tăng chậm hơn hoặc không đổi sẽ làm tăng thu nhập nhng

lại hạn chế khả năng mở rộng cho vay. Thông thờng lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi thờng biến động thuận chiều, lãi suất tiền gửi tăng thì lãi suất cho vay
cũng tăng và ngợc lại. Tuy nhiên, vì là tổ chức huy động vốn để cho vay nên họ
không thể nâng mức huy động lên quá cao đợc bởi lẽ khi đó lãi suất cho vay
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
8
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
tăng lên bóp nghẹt nhu cầu vay vốn. Mức lãi suất cho vay cao sẽ thu hút hết lợi
nhuận của những nghành có lợi nhuận thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng,
ngời đi vay không còn thu nhập, ảnh hởng tới sản xuất và đời sống. Chính vì lẽ
đó, điều hành lãi suất của các TCTD một mặt phải duy trì mức lãi suất cho vay
vừa đảm bảo thu nhập của mình vừa đảm bảo đợc hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp. Xuất phát từ đó ta có một nguyên tắc:
Tỷ lệ lạm phát < lãi suất huy động bình quân < lãi suất cho vay bình quân < tỷ
lệ lợi nhuận bình quân.
Nh vậy, sự biến động lãi suất có tác động trực tiếp đến cả hoạt động huy
động vốn và cho vay của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.
b.Cấp vĩ mô
Lãi suất có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ, là công cụ điều hành
kinh tế vĩ mô hớng tới mục tiêu: tăng trởng kinh tế và giải quyết việc làm, kiểm
soát lạm phát và ổn định giá cả, cải thiện cán cân thanh toán ...
Ngoài ra lãi suất còn có vai trò quan trọng trong việc khai thác, sử dụng hiệu
quả nguồn vốn và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

Thúc đẩy tăng tr ởng kinh tế và giải quyết việc làm:
Sự biến động của lãi suất tác động tới đâù t, tiêu dùng, xuất khẩu ròng, qua
đó tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy
thoái: tăng trởng kinh tế giảm sút và thất nghiệp gia tăng, NHTW bằng các biện
pháp nhằm giảm lãi suất sẽ kích thích nhà đầu t vay vốn, mở rộng và phát triển
sản xuất kinh doanh, thu hút thêm nhiều việc làm. Lãi suất giảm cũng giúp cho

xuất khẩu ròng gia tăng, mở rộng và phát triển sản xuất hạn chế thất nghiệp và
tăng thu nhập quốc dân, tạo điều kiện cho nền kinh tế ngày càng phát triển.

Kiểm soát lạm phát và ổn định giá cả:
Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng tác động một cách mạnh mẽ
đến tình hình lạm phát nếu nguyên nhân cơ bản của lạm phát bắt nguồn từ
nguyên nhân tiền tệ. Khi lạm phát gia tăng, có thể nâng cao mức lãi suất danh
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
9
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
nghĩa để đảm bảo mức lãi suất thực dơng hấp dẫn thu hút phần lớn lợng tiền
mặt lu thông vào hệ thống ngân hàng, do đó có tác dụng làm giảm khối lợng
tiền cung ứng M1- bộ phận tiền có tính lỏng cao nhất đối ứng trực tiếp với khối
lợng hàng hoá- dịch vụ trong lu thông. Mặt khác lãi suất tăng cao có tác dụng
giảm bớt tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hoá, làm tăng lợng cung ứng cho thị
trờng. Do vậy mối quan hệ hàng hoá- tiền tệ đợc cải thiện, đẩy lùi lạm phát.
Tuy nhiên không thể kéo dài tình trạng tăng lãi suất để chống lạm phát vì điều
đó sẽ hạn chế đầu t và tăng trởng kinh tế, gia tăng thất nghiệp. Với tác dụng
trên, nâng cao lãi suất đợc gọi là biện pháp " tình thế " để chống lạm phát của
nhiều quốc gia.

Cải thiện cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán quốc tế là tấm gơng phản chiếu mọi hoạt động kinh tế
đối ngoại của một đất nớc với các nớc khác. Sự biến động của lãi suất có tác
động đến tình trạng của cán cân thanh toán cũng nh từng khoản mục riệng biệt
trong đó. Lãi suất là một nhân tố ảnh hởng đến cán cân thơng mại, cán cân vốn
và kết quả là ảnh hởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, tự do di chuyển vốn và tỷ giá thả nổi, khi
lãi suất đồng bản tệ giảm xuống, một mặt sẽ kích thích luồng vốn ròng chảy ra
ảnh hởng xấu đến cán cân vốn mặt khác lãi suất giảm làm đồng nội tệ giảm

giá sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu làm cho cán cân thơng mại
tốt hơn. Kết quả là cán cân thanh toán đợc cải thiện và dần về vị trí cân bằng.
Ngợc lại, nếu lãi suất đồng bản tệ tăng lên, cán cân thanh toán vãng lai xấu đi
nhng cán cân vốn lại tốt hơn. Kết quả là cán cân thanh toán đợc cải thiện. Nh
vậy, trong điều kiện tỷ giá thả nổi, sự biến động của lãi suất tăng hay giảm đều
giúp cho cán cân thanh toán tự động cân bằng.

Đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng nguồn vốn hiệu quả
Lãi suất đợc thừa nhận phổ biến nh một động lực quan trọng kích thích tiết
kiệm, thu hút vốn nhàn rỗi trong dân c. Muốn huy động đợc các nguồn vốn từ
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
10
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, ngoài việc đáp ứng các dịch vụ khách
hàng thật tốt còn đòi hỏi giá cả ( lãi suất ) phải hợp lý và hấp dẫn. Bởi vậy, tăng
lãi suất huy động tiền gửi sẽ khuyến khích dân chúng tiết kiệm nhiều hơn đồng
thời nó cũng gây áp lực buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay hiệu quả ,
phải thực sự chú tâm vào công việc kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn
cả vốn lẫn lãi. Lãi suất thực quá cao sẽ gây khó khăn cho ngời vay, hạn chế đầu
t và thâm hụt tài chính. Nhng nếu lãi suất thực dơng ở mức độ vừa phải, phù
hợp với mức cân bằng của thị trờng sẽ có những tác động tích cực tới cả đầu t
và tiết kiệm, tăng trởng kinh tế và các chỉ số kinh tế khác nh độ sâu tài
chính( đợc đo bằng tỷ lệ M2/GDP ), tỷ lệ lạm phát và hiệu quả vốn đầu t... Mức
lãi suất thực dơng hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho tiết kiệm dới hình thức tài
chính hơn so với các dạng tiết kiệm khác. Khi đó thu hút đợc nhiều nguồn tiết
kiệm cho đầu t, đồng thời khi lợng tiền tiết kiệm đi qua hệ thống tài chính gia
tăng làm tăng cờng độ sâu tài chính. Ngoài ra lãi suất thực dơng đóng góp cho
tăng trởng kinh tế không chỉ qua nguồn tăng tiết kiệm để cung ứng nguồn vốn
đầu t mà còn hỗ trợ tăng trởng chủ yếu qua việc nâng cao hiệu quả vốn đầu t,
giúp nền kinh tế tăng trởng cả mặt lợng và mặt chất.


Góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Vai trò này của lãi suất đợc thể hiện thông qua việc kích thích hoặc hạn chế
đầu t ở ngành, lĩnh vực này so với các ngành và lĩnh vực khác. Thông qua việc
điều chỉnh các mức lãi suất, các nhà doanh nghiệp nói riêng, các nhà quản lý
nói chung có thể lựa chọn những ngành hay vùng lãnh thổ để đầu t nhằm thu đ-
ợc lợi nhuận cao. Vai trò này đặc biệt có ý nghĩa với những nớc đang tiến hành
công nghiệp hoá bởi lãi suất góp phần làm thay đổi cơ cấu đầu t, hớng đầu t
vào các ngành, lĩnh vực đợc u tiên và đầu t vào khu vực nông nghiệp nông thôn.
Ngoài các vai trò quan trọng kể trên, lãi suất còn là công cụ để đo lờng tình
trạng sức khoẻ của nền kinh tế: lãi suất thờng có xu hớng tăng trong giai đoạn
phát triển của nền kinh tế và giảm xuống trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lãi
suất là biến số thờng xuyên biến động trong nền kinh tế, qua sự biến động đó
ngời ta có thể đa ra các dự báo về các yếu tố khác của nền kinh tế nh: tính sinh
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
11
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
lời của các cơ hội đầu t, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách... và
triển vọng của nền kinh tế trong tơng lai.
5.Các nhân tố ảnh h ởng đến lãi suất :
5.1.Nhân tố khách quan
a.Cung - cầu về vốn:
Lãi suất ta thờng thấy hàm chứa một mâu thuẫn, đó là: ngời cho vay muốn
có lãi cao nhất, trong khi ngời đi vay muốn có lãi suất thất thấp. Vì vậy, nh giá
cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu đợc xác định bởi cung tiền và
cầu tiền.
Cung tiền lại bị quyết định bởi ba yếu tố:
- Chính sách của Ngân hàng Trung ơng: Những Ngân hàng Trung ơng th-
ờng tác động đến cung tiền thông qua chính sách tiền tệ. Quá trình tăng hoặc
giảm cung tiền đợc thực hiện theo sự chỉ đạo duy nhất của Ngân hàng Trung -

ơng đơn giản sẽ chỉ thị cho các ngân hàng áp dụng một lãi suất cụ thể cho các
khoản vay hoặc tiền gửi.
- Việc cho vay của ngân hàng: khi một ngân hàng cho vay tiền thông qua
những khoản tín dụng thì phần lớn số tiền này sẽ quay trở lại hệ thống ngân
hàng thông qua các khoản tiền gửi. Những khoản tiền gửi thêm này lại đợc cho
vay tiếp và phần lớn số tiền này sẽ quay trở lại hệ thống ngân hàng. Quá trình
này đợc gọi là sự tạo ra tiền gửi ngân hàng.
- In thêm tiền: biện pháp tăng cung tiền này thờng ít đợc sử dụng vì nó gây
ảnh hởng lạm phát.
Xét đến cầu tiền, ta thấy rằng ngời dân có ba lý do để giữ tiền. Đó là: để
thanh toán nhiều giao dịch khác nhau (những giao dịch này là một phần tất yếu
của tiêu dùng trong một nền kinh tế chuyển đổi); để lựa chọn thời gian thích
hợp, để mua một tài sản tài chính nh trái phiếu; và để đề phòng những trờng
hợp khẩn cấp. Lãi suất tiền gửi tăng sẽ thúc đẩy ngời dân đầu t và giữ ít tiền
hơn. Cầu về tiền tăng khi nền kinh tế phát triển (lúc đó GDP tăng) hoặc khi tỷ
lệ lạm phát tăng. Ngoài ra những dự đoán cũng ảnh hởng đến cầu tiền. Tiền đợc
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
12
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
giữ để tránh thua lỗ do giữ các trái phiếu và cổ phiếu khi ngời ta dự đoán chúng
sẽ giảm giá. Nếu ngời ta dự đoán lãi suất của trái phiếu hoặc giá cổ phiếu sẽ
tăng thì cá nhân sẽ giữ ít tiền hơn.
Nh vậy rõ ràng, nguồn cung vốn tín dụng phụ thuộc vào lợng vốn tiền tệ
nhàn rỗi trong dân c, quy mô của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, tình hình
cán cân ngân sách. Còn nguồn cầu vốn tín dụng lại phụ thuộc vào mục tiêu mở
rộng sản xuất của doanh nghiệp, tình hình thâm thủng ngân sách, tình hình thu
nhập của dân c...Nếu cung vốn tín dụng lớn hơn cầu vốn tín dụng, lãi suất tín
dụng sẽ giảm xuống. Nếu cung vốn tín dụng nhỏ hơn cầu vốn tín dụng, lãi suất
tín dụng sẽ tăng.
b. Mức độ rủi ro:

Bất kỳ lãi suất nào cũng đợc cấu thành từ 2 nhân tố, thứ nhất là phần tiền trả
cho ngời cho vay khi họ trao lại quyền sử dụng khoản vốn của mình, thứ hai là
phần tiền trang trải yếu tố rủi ro trong trờng hợp vốn không đợc hoàn trả. Khi
cho vay vốn mà không phải lo bất kỳ rủi ro nào thì lãi suất trong trờng hợp này
đợc coi nh lãi suất ròng. Khoản lãi chi trả cho những chứng khoán chính phủ là
một ví dụ cho kiểu lãi suất ròng này, không thể xảy ra việc Chính phủ từ chối
thanh toán.
Rủi ro trong việc hoàn trả vốn càng cao thì ngời cho vay sẽ tính lãi suất càng
cao và ngợc lại. Do vậy, lãi suất áp dụng đối với các loại cho vay của ngân
hàng sẽ khác nhau và tăng lên tuỳ theo bối cảnh của khoản cho vay, nghĩa là
ngời đi vay có thể đa ra đảm bảo hay không đa ra đảm bảo? Đó là khoản cho
cá nhân vay hay cho doanh nghiệp vay? Các công ty thẻ tín dụng, công ty thuê
mua, các công ty tài chính khác cũng sẽ áp dụng giống nh vậy để tính lãi suất.
c. Số l ợng và thời hạn vốn vay:
Số lợng và thời hạn vốn vay cũng đợc phản ánh trong lãi suất. Vì vậy, một
ngân hàng hay một hội tiết kiệm nhà ở có thể tính cho ngời đi vay một lãi suất
cao hơn cho lợng vốn vay vợt quá một mức nhất định. Cũng giống nh thế, một
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
13
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng có thể nhận đợc lãi suất cao hơn với số vốn
lớn hơn và thời hạn vốn vay dài hơn. Đặc biệt, khi sử dụng tín dụng, ngời cho
vay và ngời đi vay đều rất quan tâm đến thời hạn tín dụng bởi vì nó liên quan
đến những rủi ro có thể xảy ra đối vơí tiền vay, đến thời gian sử dụng tiền
vay...Khi thời hạn vốn huy động hay cho vay càng dài càng đòi hỏi một mức lãi
suất cao hơn, với thời hạn ngắn hơn thì thờng có mức lãi suất thấp hơn.
d.Yếu tố lạm phát:
Trong một thời gian nếu tỷ lệ lạm phát cao, ngời cho vay thờng muốn một
mức lãi suất cao hơn để bù đắp cho sự hao hụt vốn gốc dự kiến của họ, khi lạm
phát thấp thì mức lãi suất sẽ giảm đi. Ngời cho vay có thể đạt mục tiêu này nh

thế nào thì còn phải bàn thêm, nhng chắc chắn rằng khi lạm phát diễn ra ở mức
cao hơn thì lãi suất cũng cao tơng ứng. Nếu lạm phát tăng thì đến cuối năm, giá
trị thực của tài khoản tiền gửi của khách hàng sẽ giảm xuống. Mức lãi suất
ngang bằng với mức lạm phát sẽ giữ cho giá trị thực khoản vốn của khách hàng
sẽ không thay đổi. Tất nhiên, ở đây chúng ta giả thiết rằng lãi suất đợc tính một
lần một năm và tính vào cuối năm. Đa số các ngân hàng tính lãi theo nửa năm
hoặc đôi khi theo tháng, quý. Kết quả của việc thanh toán lãi thờng xuyên nh
vậy là ngời tiết kiệm đợc lãi đẻ ra lãi. ta cũng có thể giải thích hiện tợng lạm
phát tăng, lãi suất tăng theo nh phần a. Đó là khi lạm phát tăng, giá cả sẽ tăng
và làm cầu về tiền tăng dẫn đến lãi suất tăng.
e.Sự ảnh h ởng của lãi suất trên các trung tâm tài chính Quốc tế khác hay
trong khu vực kinh tế.
Ví dụ, lãi suất thờng bị ảnh hởng trên phạm vi toàn thế giới bởi sự phát triển
của nền kinh tế Mỹ. Điều này cũng dễ hiểu vì Mỹ là một trung tâm tài chính
kinh tế lớn. Vào tháng 8/2000 vừa rồi, nhằm kìm hãm lạm phát, giảm mức tăng
trởng quá nóng trong bốn năm qua, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi
suất cho vay lên đến 7,25%/năm đã làm cho nhiều nớc chao đảo, ảnh hởng tiêu
cực đến nền kinh tế, làm tụt giá cổ phiếu, gây nguy cơ tan vỡ của các thị trờng
chứng khoán thế giới. Các ngân hàng thơng mại của nớc ta đã phải tăng lãi suất
huy động ngoại tệ lên tơng ứng đồng thời đổ dòng vốn ngoại tệ này sang Mỹ để
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
14
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
hởng chênh lệch lãi suất. Song nếu FED không hạ cánh nhẹ nhàng lãi suất,
triển vọng phát triển kinh tế có thể bị nguy hiểm, tác động đến hệ thống ngân
hàng tài chính các nớc, và làm lãi suất biến động là điều không tránh khỏi.
Không riêng gì Mỹ, đối với các khu vực kinh tế lớn, mức độ và số lợng luân
chuyển vốn rất khổng lồ cho nên chỉ cần một thay đổi nhỏ của dòng vốn ra, vào
(do thay đổi lãi suất) của chúng chắc chắn sẽ tác động đến cung cầu tiền tệ trên
thế giới và gây thay đổi lãi suất trong nớc.

5.2. Nhân tố chủ quan
Thực tế cho thấy rằng ổn định về tiền tệ, ổn định về hệ thống tài chính là
điều kiện hàng đầu cho sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nớc và là cơ sở
của tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững. Để thực hiện đợc điều đó thì nhiệm
vụ trọng tâm của NHNN là quản lý và điều hành khối lợng tiền cung ứng hay
chính là điều hành lãi suất cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nớc.
a. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Việc quy định tỷ lệ DTBB hợp lý linh hoạt sẽ góp phần nâng cao khả năng
dự đoán đợc nhu dự trữ của các TCTD, qua đó tăng cờng đợc vai trò kiểm soát
tiền tệ của NHNN. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc nếu đợc điều chỉnh bám sát theo diễn
biến thị trờng đặc biệt là tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ và nội tệ sẽ làm cho thị tr-
ờng tiền tệ ổn định và tạo điều kiện xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và
ngoại tệ, giữa lãi suất và tỷ giá trên thị trờng.
Việc tăng tỷ lệ DTBB lên sẽ giảm lợng cung tiền dẫn đến lãi suất tăng, ngợc
lại nếu giảm tỷ lệ DTBB sẽ tăng lợng cung tiền làm cho lãi suất biến động
giảm. Hay việc NHNN trả lãi cho tiền gửi DTBB sẽ không khuyến khích các hệ
thống NHTM tận dụng tối đa nguồn vốn, dẫn đến có thời kỳ các hệ thống
nHTM dự trữ quá nhiều.
b. Công cụ tái cấp vốn
Đối với công cụ tái cấp vốn từng bớc đổi mới theo hớng thực hiện vai trò là
cung cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN. NHNN thực hiện vai trò ngời cung cấp
vốn cuối cùng. Cho đến nay việc tái cấp vốn theo chỉ định ngày càng hạn chế,
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
15
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
thay vào đó tái cấp vốn thờng thông qua các hình thức khác nh vay có đảm bảo
bằng thơng phiếu và các giấy tờ có giá trị ngắn hạn, chiết khấu, tái chiết khấu
thơng phiếu, ... đã ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tái cấp vốn từ
NHNN cho các NHTM.
c. Công cụ lãi suất của NHNN

Mỗi một sự tăng giảm về lãi suất sẽ quyết định đến tiết kiệm hay đầu t của
các chủ thể kinh tế vì lãi suất chính là tiền thởng cho việc giữ tiền, nếu mức lãi
suất càng cao thì ngời ta không có lý do gì để không giữ chúng ngợc lại nếu
tiền thởng cho việc giữ các tài sản tài chính sinh lời ( không phải là tiền ) cao
hơn thì ngời ta giữ tiền càng ít, các cá nhân giảm lợng tiền cất trữ cốt để thu đ-
ợc số lãi cao hơn trả cho các tài sản thay thế cho tiền.
Nh vậy, mỗi thay đổi trong lãi suất sẽ làm cho lợng cung cầu tiền tệ trên thực tế
biến động, có thể lợng cung tiền cao hơn lợng cầu tiền hoặc ngợc lại song xu h-
ớng của nó sẽ tiến dần một điểm cân bằng mới tại đó xác định mức lãi suất
mới.
ii. tự do hoá lãi suất
1.Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất về cơ bản đợc hiểu là lãi suất hoàn toàn đợc điều chỉnh
theo yêu cầu của thị trờng, do thị trờng quyết định. Hay nói cách khác, lãi suất
đợc điều chỉnh theo tín hiệu của thị trờng. Cụ thể, lãi suất đợc điều chỉnh theo
yêu cầu của quan hệ cung - cầu đầu t, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh
tế.
Khi tự do hoá lãi suất, sẽ giảm thiểu sự can thiệp của nhà nớc, sự can thiệp
của nhà nớc lúc này chỉ mang tính gián tiếp và dừng lại ở mức bảo đảm cho tự
do hoá lãi suất đợc an toàn, trôi chảy và có hiệu quả.
Khi tự do hoá lãi suất, sẽ góp phần làm cho các dòng vốn đợc tự do lu
chuyển đến bất cứ đâu, tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu t mà không gặp bất
cứ sự ngăn cản phi kinh tế nào. Lãi suất khi đó sẽ tự điều chỉnh linh hoạt và
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
16
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trờng, nâng cao hiệu quả đầu t và khi
tự do hoá lãi suất sẽ đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính.
Tự do hoá lãi suất đợc thể hiện nh sau: trong điều hành lãi suất, Ngân hàng
Trung ơng chỉ quy định các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái

chiết khấu của Ngân hàng Trung ơng đối với các tổ chức tín dụng. Tự do hoá
lãi suất, khi đó cơ cấu và các mức lãi suất ( bao gồm lãi suất cho vay và huy
động vốn ) của các tổ chức tín dụng với nền kinh tế ( khách hàng ) do các tổ
chức tín dụng tự quy định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh
giữa các tổ chức tín dụng với nhau trên thị trờng, từ đó mà hình thành nên các
mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trờng.
Mối dây liên hệ giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi trong nền kinh tế
thị trờng:
Trong nền kinh tế thị trờng, các ngân hàng thơng mại xác định các mức lãi
suất cho vay trên cơ sở mức thị trờng sẽ chịu đựng đợc, còn thông thờng lãi
suất tiền gửi sẽ phụ thuộc vào mức lợi nhuận của ngân hàng khi cho vay. Mức
chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đợc xác định bằng sự cạnh
tranh trên thị trờng đối với cả tiền vay và tiền gửi.
2.Điều kiện tự do hoá lãi suất
Một là, môi trờng kinh tế vĩ mô tơng đối ổn định: về nhịp độ tăng trởng,
phát triển kinh tế, giá cả, lạm phát ... Bởi nếu, môi trờng kinh tế vĩ mô không
ổn định do tác động nào đó sẽ ảnh hởng tới tự do hoá lãi suất. Đồng thời các
luật pháp, chính sách, nhất là các cơ chế chính sách có liên quan, tác động trực
tiếp đến lãi suất, tỷ giá ... phải thích ứng, đảm bảo việc điều hành linh hoạt,
nhanh, kịp thời khi có tác động bất lợi đến lãi suất.
Hai là, hệ thống tài chính đủ mạnh thể hiện ở năng lực tài chính, khả năng
thanh toán đảm bảo hoạt động có hiệu quả, an toàn, lành mạnh, có thể chủ
động đối phó với diễn biến xấu cho việc tự do hoá lãi suất, dù với bất luận là
nguyên nhân chủ quan hay khách quan do bên trong nớc hay bên ngoài nớc gây
ra.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
17
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Ba là, có môi trờng pháp lý và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh
các quan hệ kinh tế. Có quy chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu

đảm bảo hạn chế và bù đắp đợc những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của
các trung gian tài chính.
Bốn là, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đảm
bảo có hiệu quả, khả năng tài chính đáp ứng đến mức cần thiết cho các nhu cầu
thanh toán, có thể đối phó, xử lý đợc khi có sự tác động do lãi suất gây ra. Các
doanh nghiệp không chỉ đòi hỏi có công nghệ hiện đại mà còn phải có sự phát
triển về bề sâu, có kinh nghiệm về quản lý ở nhiều khía cạnh.
Năm là, dự trữ quốc gia về ngoại tệ cũng nh nền tài chính không có đủ khả
năng để kịp thời tác động, xử lý khi có diễn biến đột xuất do nền kinh tế gây ra.
Sáu là, các công cụ, yếu tố thị trờng hoạt động trong nền kinh tế thị trờng
đợc hình thành, vận động một cách minh bạch, cạnh tranh trở thành việc bình
thờng, không có gì xa lạ với các nhà kinh doanh trong thơng trờng.
Bảy là, vai trò và khả năng điều hành, giám sát, tác động của ngân hàng
trung ơng đối với việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ ở mức có thể can
thiệp kịp thời, nhanh, hiệu quả khi có biến động bất lợi liên quan đến tự do hoá
lãi suất .
Tám là, tự do hóa lãi suất phải gắn liền với tự do hóa tỷ giá hối đoái.
Chín là, chọn đúng thời điểm bắt đầu, tốc độ và lộ trình tự do hoá phù hợp
với điều kiện và bối cảnh của nền kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy tự do hóa lãi
suất không đúng thời điểm có thể làm tăng tính bất ổn định nền kinh tế vĩ mô
do tăng lạm phát và nợ nớc ngoài, giảm sức sản xuất trong nớc.
3. Vai trò của tự do hoá lãi suất
Trớc hết, chúng ta đều biết trong nền kinh tế có 3 loại giá là giá hàng hoá và
dịch vụ; giá vốn ( lãi suất ); và giá ngoại tệ ( tỷ giá hối đoái ) nên tự do hoá lãi
suất ( thờng gắn với nó là tự do hoá tỷ giá hối đoái ) tác động mạnh mẽ tới toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trờng thờng thực hiện tự do hoá lãi suất vì nh trên đã nêu,
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
18
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E

và nó chính là hạt nhân của tự do hoá tài chính mà tự do hoá tài chính thành
công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lợc tăng trởng kinh tế của
mỗi quốc gia.
Ta sẽ thấy rõ hơn vai trò của tự do hoá lãi suất khi so sánh giữa tự do hoá
lãi suất với kiểm soát lãi suất :
Thứ nhất, kinh nghiệm cho thấy trong nền kinh tế thị trờng khi tự do
hoá lãi suất đúng hớng và theo đúng trình tự sẽ có những u việt cơ bản sau đây:
- Thúc đẩy tăng trởng kinh tế, tạo điều kiện trở lại để ổn định kinh tế vĩ mô.
- Góp phần làm cho các dòng vốn đợc tự do lu chuyển đến bất kỳ đâu, tuỳ
thuộc theo ý muốn của nhà đầu t mà không gặp phải bất cứ sự ngăn cản phi
kinh tế nào, thờng lu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp.
- Tăng vốn đầu t phát triển sản xuất.
- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh và có hiệu
quả.
- Thâm hụt ngân sách giảm .
- Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi
của thị trờng, hay nói khác nó phản ánh chính xác giá của vốn trên thị trờng,
nâng cao hiệu quả đầu t.
- Đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính.
- Góp phần làm cho thị trờng tài chính chính thức phát triển và thị trờng tài
chính ngầm không có điều kiện phát triển.
- Kích thích tính cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt sự cạnh tranh của các
tổ chức tài chính, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tài chính, cải
thiện chất lợng cung ứng các dịch vụ tài chính.
Thứ hai, khi lãi suất bị kiểm soát quá chặt chẽ trong thời gian dài sẽ
gây ra những thiệt hại tổng thể cho nền kinh tế, khuyến khích sự vay mợn lòng
vòng, và trốn tránh sự kiểm soát, dẫn tới không hiệu quả, cụ thể:
Trong trờng hợp các ngân hàng buộc phải thực hiện cho vay với lãi suất thấp
hơn lãi suất thị trờng dới một sức ép nào đó và phải huy động với lãi suất cao
thì chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra sẽ không đảm bảo bù đắp chi phí hoạt

Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
19
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
động của ngân hàng, từ đó mà tính bền vững (đặc biệt bền vững về tài chính)
không đảm bảo, nh thế các ngân hàng sẽ không phát triển. Mặt khác, khi phải
cho vay với lãi suất thấp và huy động vốn với mức lãi suất thấp để đảm bảo đủ
bù đắp chi phí, lãi suất thấp sẽ không khuyến khích ngời dân duy trì nguồn vốn
tiết kiệm của mình ở trong nớc, dễ xảy ra tình trạng đô la hoá...và cuối cùng
kìm hãm sự tăng trởng các khoản tiết kiệm và giảm hiệu quả của đầu t.
Kinh nghiệm cho thấy, ở những nớc có hệ thống ngân hàng bị kiểm soát
một cách chủ quan thì lãi suất cho vay thờng tăng, nhng lãi suất tiền gửi lại
không tăng và phần chênh lệch lãi suất đó lại bị ngay tính kém hiệu quả của hệ
thống ngân hàng ngốn hết.
Khi kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ, sẽ khuyến khích sự hình thành các
công cụ tài chính và các trung gian tài chính không chính thức phát triển ( và
không bị kiểm soát ) để cạnh tranh với các công cụ tài chính và các trung gian
tài chính chính thức bị kiểm soát, làm cho quá trình phi trung gian tài chính
phát triển và sự trốn tránh các quy chế kiểm soát.
Trong trờng hợp lãi suất tăng ở mức quá cao, tuy tiết kiệm tăng lên, nhng sẽ
làm cho đầu t của nền kinh tế giảm xuống, từ đó tổng cầu sẽ giảm và lạm phát
có thể cũng sẽ giảm, nhng đi liền với nó là công ăn việc làm sẽ giảm theo, thu
nhập cũng sẽ giảm, bởi vì: khi lãi suất tăng, ngân hàng sẽ làm tăng chi phí và
giảm nhu cầu trong nớc trực tiếp, dòng vốn bên ngoài đổ vào nhiều do kết quả
việc tăng lãi suất, từ đó làm tăng giá đồng tiền trong nớc. Bởi vậy, làm giảm
nhu cầu bên ngoài đối với hàng hoá và dịch vụ trong nớc và các khu vực bị ảnh
hởng tiêu cực của chính sách này tăng lên.
Ngợc lại, khi duy trì lãi suất cho vay quá thấp sẽ làm giảm lãi suất tiền gửi
(trong đó có tiết kiệm), từ đó không khuyến khích tiết kiệm và kéo theo hạn
chế nguồn tài trợ lớn. Nh vậy, dẫn đến sai lầm trong phân bổ nguồn lực, đồng
thời tạo nhu cầu lớn về tín dụng, có thể có nhiều dự án không hiệu quả đợc lựa

chọn đầu t và tạo nên sự đầu t nhiều vào lĩnh vực phi sản xuất .
Nếu lãi suất thấp chỉ dành cho một đối tợng cụ thể nào đó, có thể có hiện t-
ợng phân loại cho vay không đúng đối tợng, vì khi đó có thể xuất hiện những
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
20
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
thông tin sai lệch để đợc u đãi. Trờng hợp có quá nhiều đối tợng đợc hởng lãi
suất u đãi khi đó sẽ không còn sự u đãi nữa.
Nếu xét theo khía cạnh cạnh tranh, một số đối tợng hởng lãi suất u đãi sẽ có
lợi thế, những đối tợng khác bất lợi, từ đó không khuyến khích cạnh tranh và
không khuyến khích tăng trởng kinh tế.

5. Kinh nghiệm của một số n ớc khi tự do hoá lãi suất
a. Một số điều rút ra từ thực tế tự do hoá lãi suất của một số n ớc trên thế
giới
Qua kinh nghiệm của các nớc cho thấy, tự do hoá lãi suất có xu hớng làm
bộc lộ những yếu kém về thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể
làm tổn hại đến hệ thống ngân hàng do những cơn sốc vĩ mô xuất phát từ bên
ngoài và chính sách vĩ mô không thích hợp. Do vậy, cải cách lãi suất nhanh
không gắn liền với việc củng cố quy chế phòng ngừa và khuôn khổ thanh tra
thờng kéo theo sự chấn động hệ thống tài chính nh:
- Các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt các ngân hàng có vốn
tự có thấp, bởi vì với chế độ lãi suất linh hoạt, do cố gắng bù đắp những khoản
thua lỗ, các ngân hàng bị đe doạ về khả năng thanh toán có xu hớng phân bổ tín
dụng vào các dự án có lãi cao nhng nhiều rủi ro mà không chú trọng đúng mức
tới việc thu hồi vốn, xảy ra sự lựa chọn nghịch (đối với cả hệ thống tài chính và
ngời đi vay ).
- Hệ thống ngân hàng không đủ năng lực thể chế, kiến thức và kỹ năng
trong việc kiểm soát tiền tệ và kiểm soát rủi ro trong môi trờng nới lỏng.
- Quy chế an toàn và phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng không thích

hợp, đặc biệt là tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có của các ngân hàng thấp.
- Hệ thống thông tin, công tác kế toán không rõ ràng và không thích hợp,
kiểm toán không đợc quan tâm đúng mức, việc kiểm soát nội bộ của các tổ
chức tài chính không đầy đủ, bởi vậy không đáp ứng đợc yêu cầu công tác
tranh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
21
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
- Sự đánh giá không đầy đủ của công chúng với rủi ro của các loại hình
tổ chức tài chính khác nhau.
- Khuôn khổ luật pháp không đầy đủ và không đủ sức cỡng chế việc thực
hiện các hợp đồng hay trong việc thực hiện luật phá sản, từ đó ảnh hởng đến
việc chấp hành kỷ luật tài chính của các bên vay.
- Thị trờng tài chính cha phát triển và cha đa dạng hoá, từ đó dẫn đến sự
tập trung rủi ro quá mức vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác, làm cho ngời vay
chịu những rủi ro lãi suất quá mức, hoặc hạn chế họ tiếp cận với các nguồn vốn
của các tổ chức tài chính chính thức.
- Hệ thống thanh toán ở trình độ thấp làm cho công tác quản lý tiền tệ
kém hiệu quả, từ đó làm giảm chức năng của lãi suất trong việc phân bổ các
nguồn lực.
Điều cần nhấn mạnh là qua kinh nghiệm quốc tế đã chứng minh rằng ở
những nớc chú trọng đến môi trờng tài chính và thể chế hoạt động của hệ thống
ngân hàng kể từ khi bắt đầu quá trình cải cách sẽ đề ra bớc đi thích hợp trong
cải cách lãi suất và đã đạt đợc các kết quả tốt hơn và tiến xa hơn rất nhiều so
với các nớc không làm nh vậy.
Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, trong vòng hai thập kỷ vừa qua
các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò sống còn của lãi suất trong quá trình phát
triển. Kinh nghiệm của các nớc đang phát triển cho thấy rằng chính sách này
nên đánh giá lại trong bối cảnh các chơng trình điều chỉnh kinh tế.
Chính sách lãi suất là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong

các chiến lợc điều chỉnh kinh tế ở các nớc đang phát triển. Trong các chơng
trình tự do hoá tài chính với mục đích là loại bỏ kiểm soát lãi suất, vẫn cha có
một thoả thuận nào về một chiến lợc tốt nhất để đạt đợc mục tiêu nào. Lãi suất
nên tự do hoá từ từ hay ngay trong một khoảng thời gian ngắn ? Điều kiện cần
có để tự do hoá lãi suất là gì ? Trình tự chính sách cho các nớc có mức lạm phát
thấp có khác với các nớc có lạm phát cao hay không ? Và công tác quản lý,
giám sát các ngân hàng quan trọng nh thế nào?
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
22
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Mặc dù không có cơ chế cố định, hay nói khác là một công thức để đạt đợc
mục tiêu tự do hoá lãi suất, nhng kinh nghiệm của các nớc đang phát triển khi
tự do hoá lãi suất cho thấy tầm quan trọng của trạng thái ban đầu của nền kinh
tế, và quy chế thận trọng đối với thị trờng tài chính.
ở Philippine và Thổ Nhĩ Kỳ trong đầu những năm 80 tự do hóa lãi suất
trong tình trạng mất cân đối kinh tế vĩ mô trầm trọng, tiết kiệm và đầu t đều
thấp, tỷ lệ lạm phát cao, tình hình tài chính của khối doanh nghiệp rất yếu kém.
Sau khi thực hiện tự do hoá tài chính, lợi nhuận của khối t nhân và hệ thống
ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng. Một quy chế quản lý yếu kém đã làm cho
các ngân hàng không có khả năng thanh toán tránh phá sản bằng cách mời chào
lãi suất tiền gửi quá cao, sử dụng vốn mới huy động để thực hiện các khoản cho
vay không hiệu quả. Mặt khác, các doanh nghiệp càng làm ăn thua lỗ lại càng
tăng tỷ lệ vốn vay của mình dù cho chi phí đi vay đã tăng lên. Chính phủ Thổ
Nhĩ Kỳ đã buộc phải khôi phục việc kiểm soát tỷ lệ lãi suất khi lãi suất thực
tăng lên quá cao.
Tình hình ở Malayxia lại hoàn toàn khác. Các giai đoạn dài ổn định kinh tế
và giám sát ngân hàng chặt chẽ đã tạo điều kiện cho chính phủ tự do hoá lãi
suất hoàn toàn. Lãi suất thực dơng đạt đợc cùng với: lợng tín dụng tăng lên với
mức lãi suất ổn định và danh mục các khoản cho vay có hiệu quả của hệ thống
ngân hàng.

Những kinh nghiệm ở các nớc đang phát triển trong hai thập kỷ qua cho
thấy, nếu môi trờng kinh tế vĩ mô không ổn định và nếu ngân hàng giám sát
không có hiệu quả, thì việc tự do hóa lãi suất nên tiến hành từ từ trong khi theo
đuổi chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, chính phủ cần giám sát chặt chẽ hệ
thống ngân hàng để giảm thiểu sự mạo hiểm. ở những nớc nào điều kiện kinh
tế vĩ mô ổn định hơn và công cuộc cải cách đợc triển khai dần dần thì không
cần tái áp dụng chế độ kiểm soát lãi suất.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
23
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Tự do hoá lãi suất cần đợc thực hiện song song với cải cách kinh tế vĩ mô,
nếu không sẽ xảy ra hiện tợng các dòng vốn không ổn định, tỷ lệ lãi suất cao,
các công ty lâm vào cảnh khó khăn.
ở đây chúng ta tiếp tục xem xét và rút kinh nghiệm từ việc tiến hành tự do
hoá lãi suất của hai nớc Nhật Bản và Đài Loan vì Nhật Bản là cờng quốc công
nghiệp lớn nhất, cờng quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, còn Đài Loan là
con rồng Châu á , hệ thống ngân hàng của hai nớc đều rất phát triển. Hơn nữa
Nhật Bản và Đài Loan đều thuộc Châu á, có nhiều điểm tơng đồng về kinh tế,
tài chính với Việt Nam. Do đó, có thể đem đến những bài học kinh nghiệm quí
báu hơn cho chúng ta.
b. Nhật Bản
Bắt đầu bằng một khoản thu nhập bình quân đầu ngời rất thấp sau chiến
tranh thế giới II, nền kinh tế Nhật Bản đã tăng trởng rất nhanh từ đầu những
năm 50 cho đến đầu những năm70. Thực vậy, ngời Nhật Bản thờng giản đơn
coi đó là kỷ nguyên tăng trởng kinh tế nhanh một cách tự hào. Hơn nữa, tỷ lệ
của cung ứng tiền tệ (M
3
) và GDP cao và có xu hớng tăng lên trong thời kỳ này.
Lãi suất thực bị kiểm soát công khai ở Nhật Bản là tơng đối cao với chuẩn
mực quốc tế. Luồng tín dụng do chính phủ chỉ định trực tiếp tơng đối nhỏ bé và

chủ yếu đợc phân phối cho các ngành công nghiệp chợ chiều hoặc là đang
xuống dốc. Các doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế không gặp khó khăn nào
trong việc đấu thầu các nguồn vốn có lãi suất sát với lãi suất thị trờng. Nói tóm
lại, trong kỷ nguyên tăng trởng kinh tế nhanh của Nhật Bản, hệ thống tài chính
của Nhật Bản hầu nh không bị kìm hãm.
Thế nhng, các cơ quan chính phủ Nhật Bản không tiến hành tự do hoá hoàn
toàn hệ thống ngân hàng nớc họ bằng cách thay đổi trần lãi suất tiền gửi, bằng
việc cho phép không hạn chế lãi suất cho vay chuẩn đối với các tổ chức phi
ngân hàng, hoặc bằng cách cho phép các ngân hàng tự do vay mợn từ nớc
ngoài. Ngân hàng Trung ơng cũng không nới lỏng việc giám sát các ngân hàng
thơng mại.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
24
Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Hơng Giang - T 2 - K37E
Do đó, sự ổn định tiền tệ bằng một mức giá trong nớc ổn định đợc hỗ trợ
bởi cam kết giữ tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định là phơng thức chủ yếu bảo
đảm lãi suất thực cao. Chính phủ Nhật Bản đã không bị đẩy đến tình huống
phải cho phép (phải ra quyết định) trả lãi suất danh nghĩa cao để bù lại lạm
phát trong nớc cao và biến động mạnh. Chỉ sau khi tăng cờng tài chính một
cách cơ bản ở các bộ phận phi ngân hàng của thị trờng vốn, các cơ quan chính
phủ mới nới lỏng (hoặc nghĩ tới sự nới lỏng) các hạn chế hoạt động của các
ngân hàng thơng mại và các trung gian nhận tiền gửi khác.
c. Đài Loan
Tuy bắt đầu chậm hơn một thập kỷ so với Nhật Bản, nhng thông qua các
chính sách lãi suất ban hành từ năm 1960. Đài Loan đã thúc đẩy tăng trởng tài
chính một cách kiên định hơn bất kỳ một nớc đang phát triền nào khác. Thực
vậy, vào năm 1985, để hỗ trợ cho các lãi suất cao trả cho ngời gửi tiền, lãi suất
cho vay tiêu chuẩn cũng đợc giữ ở mức cao, khoảng 2-3% điểm, cao hơn lãi
suất chuẩn của khoản tiền gửi một năm và có nơi tới 10-14% mỗi năm trong
những thời kỳ không có lạm phát. Mặc dù còn vài sự kìm hãm tài chính dới

hình thức lãi suất u đãi cho xuất khẩu những các lãi suất này nói chung là dơng
và trên thực tế là đủ lớn, cha bao giờ sự cam kết này đối với ngời xuất khẩu đủ
lớn để giảm sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ơng đối với cơ số tiền. Các
doanh nghiệp có thể tuỳ ý từ chối tín dụng ngân hàng. Sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng đã bị hạn chế chỉ vì chúng là ngân hàng quốc doanh. Và kết quả là,
sự bảo hiểm đối với khoản tiền gửi đợc ngầm tạo ra. Nhằm tiếp tục ngăn cản
các ngân hàng thực hiện việc cho vay quá mạo hiểm và ganh đua các khoản
tiền gửi, chính phủ đã đặt ra trần lãi suất vay và cho vay chuẩn (dù là cao).
Điều này dẫn đến chỗ có một loạt ngời đi vay không vay đợc đủ tiền; khi đó họ
có thể đấu thầu để giành khoản tài chính với lãi suất 25% hoặc cao hơn nữa
trong thị trờng có điều tiết mà không làm suy yếu đến sự an toàn của hệ thống
tiền tệ.
Trờng Đại học Ngoại thơng Hà Nội
25

×