BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Đề tài tiểu luận:
GVHD : TS. Hay Sinh
NHÓM : IV
LỚP : Kinh tế vi mô Đêm 6 – K20
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2011
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
2
NHÓM IV KINH TẾ VI MÔ ĐÊM 6 – K 20
STT
HỌ TÊN NGÀY SINH GHI CHÚ
1 Trần Huy Bình 27/01/1985
2 Nguyễn Kiên Cường 14/09/1980 Nhóm trưởng
3 Nguyễn Viết Cường 22/08/1985
4 Nguyễn Thị Hương Dịu 26/01/1985
5 Lê Thị Mỹ Dung 27/10/1981
6 Nguyễn Ngọc Duy 26/09/1982
7 Nguyễn Phương Duy 14/07/1985
8 Nguyễn Lê Đức 26/10/1982
9 Nguyễn Tường Lâm 4/10/1985
10 Trần Thùy Linh 8/2/1986
11 Ngô Thanh Nhã 19/02/1984
12 Ngô Lê Thạnh Phong 30/10/1983
13 Hà Thị Ngọc Thúy 28/09/1986
14 Nguyễn Thị Ngọc Trinh 16/01/1986
15 Trần Văn Trung 24/09/1983
16 Đặng Văn Út 25/05/1982
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương I: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU 6
1.1. Lý thuyết về thị trường chứng khoán 6
1.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán 6
1.1.2. Thành phần tham gia thị trường chứng khoán 6
1.2. Vai trò của thông tin trên TTCK 7
1.3. Lý thuyết về thông tin bất cân xứng 8
1.3.1. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng 8
1.3.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng 9
1.3.2.1. Lựa chọn nghịch
9
1.3.2.2. Rủi ro đạo đức
9
1.3.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư 10
1.3.4. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng 11
1.3.4.1. Phát tín hiệu:
11
1.3.4.2. Sàng lọc
11
1.3.4.3. Cơ chế giám sát
12
Chương II: THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN CÁC BÊN THAM GIA 12
2.2. Thực trạng thông tin bất cân xứng trong thị trường chứng khoán 15
2.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về minh bạch hóa thông tin trên thị
trường……… 15
2.2.2. Thực trạng công bố thông tin theo qui định hiện hành 16
Chương III: GIẢI PHÁP 19
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
4
LỜI MỞ ĐẦU
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện vào
những năm 1970 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng
sự kiện năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof, Michael
Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. Thông tin bất cân xứng có
thể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng, các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy
thông tin, người mua không có thông tin xác thực đầy đủ và kịp thời nên trả giá thấp hơn giá
trị thực của hàng hoá. Hậu quả là người bán cũng không còn động lực để sản xuất hàng hoá
có giá trị và có xu hướng cung cấp những sản phẩm có chất lượng thấp hơn chất lượng trung
bình trên thị trường. Rốt cuộc trên thị trường chỉ còn lại những sản phẩm chất lượng xấu –
những “trái chanh” bỏ đi, hàng tốt bị loại bỏ, dẫn đến lựa chọn bất lợi (adverse selection)
cho cả hai bên. Ngày nay, tình trạng thông tin bất cân xứng ngày càng trở nên phổ biến và
trầm trọng hơn khi tính minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin
yếu kém. Trải qua hơn hai thập kỷ, lý thuyết về thông tin bất cân xứng đã trở nên vô cùng
quan trọng và là trọng tâm nghiên cứu của kinh tế học hiện đại.
Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng bất cân xứng xảy ra phổ biến như các doanh
nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi; doanh nghiệp sau khi phát
hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung “làm giá”
trên thị trường chứng khoán; có sự rò rỉ thông tin nội gián; một số nhà đầu tư tạo cung cầu
ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị của doanh nghiệp; một số kẻ xấu tung tin
đồn thất thiệt cho doanh nghiệp; các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các
trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác…Tình trạng bất cân xứng về
thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư không chính xác, gây
cung cầu ảo, bong bóng thị trường và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế
giới, đó là tình trạng thông tin bất cân xứng diễn ra hết sức phổ biến, phức tạp và hỗn độn.
Tính đến thời điểm cuối năm 2011, nhiều nhà đầu tư cá nhân đã thua lỗ hàng trăm triệu đến
bạc tỷ do mua cổ phiếu của các công ty lần đầu tiên lên sàn có giá bị đẩy lên quá cao. Tiếp
theo là sự bất thường trong hàng loạt các cuộc đấu giá cổ phiếu khi sự chênh lệch giữa các
mức đấu giá thành công quá cao khiến nhiều nhà đầu tư muốn bỏ tiền đặt cọc chạy lấy
người. Đây sẽ không phải là những trường hợp cá biệt mà có thể trở thành một làn sóng làm
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
5
rung chuyển toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam, mà một trong những nguyên nhân
sâu xa chính là hiện tượng thông tin bất cân xứng.
Trong nội bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày về sự tồn tại và tác động của thông tin
bất cân xứng đến các bên tham gia thông qua việc nghiên cứu tác động của thông tin bất cân
xứng lên thị trường chứng khoán, cụ thể là thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở
phân tích, chúng tôi sẽ đề xuất một số các giải pháp để khắc phục tình trạng này.
Kết cấu của đề tài nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 05 mục, chi tiết như sau:
- Lời mở đầu
- Chương I: Tổng quan lý thuyết nghiên cứu
- Chương II: Thực trạng thông tin bất cân xứng và tác động của nó đến các bên tham
gia
- Chương III: Giải pháp
- Kết luận
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
6
Chương I
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết về thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là lĩnh vực phong phú, đa dạng và rất phức tạp; là nơi mua
bán các chứng khoán và thường được thực hiện chủ yếu tại sở giao dịch chứng khoán, một
phần ở các công ty môi giới (công ty chứng khoán), và cả ở thị trường chợ đen.
Về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán; qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng
khoán. Như vậy, ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, đó có thể là thị trường chứng khoán có tổ chức hoặc không có tổ
chức, tập trung hay không tập trung.
Thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán hay Trung tâm giao dịch chứng
khóan. Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm; các
lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên
giá giao dịch.
Thị trường chứng khoán phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter).
Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán
phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này
được hình thành theo phương thức thỏa thuận (Nguồn: Công ty chứng khoán ngân hàng
ngoại thương).
1.1.2. Thành phần tham gia thị trường chứng khoán
Thành phần tham gia thị trường chứng khoán có 6 thành phần như sau: Các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư riêng lẻ, các tổ chức tài chính, nhà môi giới kinh doanh chứng khoán,
người tổ chức thị trường và Nhà nước.
Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là chủ thể tạo ra hàng hóa để cung
cấp cho thị trường. Các doanh nghiệp này cũng có thể được gọi là các công ty niêm yết hay
nhà phát hành theo cách gọi thông thường. Ngoài chức năng chính tạo ra hàng hóa (cổ
phiếu) để huy động vốn, các doanh nghiệp cũng có thể mua đi bán lại các chứng khoán do
các công ty khác phát hành.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
7
Nhà đầu tư riêng lẻ là những người có vốn nhỏ nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán
trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời.
Các tổ chức tài chính bao gồm công ty đầu tư quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, công ty
tài chính, ngân hàng, các công ty chứng khoán…tham gia thị trường cả tư cách người mua
và người bán. Thông thường các tổ chức tài chính có thời gian đầu tư và khối lượng giao
dịch trên thị trường dài và lớn hơn nhà đầu tư riêng lẻ. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức trên
thị trường thì rất ít so với số lượng nhà đầu tư riêng lẻ.
Nhà môi giới kinh doanh chứng khoán có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Đa phần các
hoạt động môi giới hiện nay là những công ty chứng khoán. Ngoài nghiệp vụ môi giới các
công ty này có thể thực hiện nhiều chức năng khác như tự doanh, quản lý quỹ đầu tư, bảo
lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Người tổ chức thị trường chiếm vai trò chủ yếu của người tổ chức thị trường là các
Trung tâm giao dịch chứng khoán hay Sở giao dịch chứng khoán. Các Trung tâm, Sở này
cung cấp địa điểm và phương tiện để thực hiện việc mua bán chứng khoán cho các chủ thể
tham gia giao dịch, điều hành thị trường để các giao dịch diễn ra công bằng và minh bạch.
Ngoài các Trung tâm và Sở giao dịch, Trung tâm lưu ký, công ty dịch vụ máy tính chứng
khoán, cũng có chức năng không kém phần quan trọng làm cho thị trường hoạt động hiệu
quả.
- Nhà nước góp phần đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng các qui định của
pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người đầu tư, đảm bảo thị trường hoạt động bền
vững và hiệu quả. Ngoài ra Nhà nước cũng có thể tham gia thị trường với tư cách là nhà phát
hành. Đó là thông qua Chính phủ hoặc các chính quyền địa phương phát hành các trái phiếu
nhằm huy động vốn trên thị trường chứng khoán để vay nợ hoặc tài trợ các dự án công. Nhà
nước cũng có thể bán hoặc mua các chứng khoán của các doanh nghiệp nhằm kiểm soát
quyền chi phối các doanh nghiệp theo mục đích.
1.2. Vai trò của thông tin trên TTCK
Thị trường được xem là hiệu quả khi nó thể hiện ở ba khía cạnh: phân phối hiệu quả,
hoạt động hiệu quả và thông tin hiệu quả.
Phân phối hiệu quả khi các nguồn vốn được đầu tư có hiệu quả nhất, tức có nghĩa vốn
của nhà đầu tư đầu tư vào những công ty có tiềm năng phát triển nhất.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
8
Hoạt động hiệu quả khi các chi phí giao dịch trong thị trường được quyết định theo
quy luật cạnh tranh. Chi phí giao dịch hiệu quả là chi phí mà nhà đầu tư trả cho các nhà môi
giới có sự cạnh tranh lẫn nhau và chi phí này được xem là chi phí bình thường mà nhà đầu tư
phải bỏ ra.
Thông tin hiệu quả khi giá giao dịch phản ảnh đầy đủ và tức thời các thông tin có ảnh
hưởng tới thị trường.
Để đánh giá được vai trò của thông tin, chúng ta hãy xem xét hành vi mua bán cổ
phiếu của nhà đầu tư trên thị trường theo phương pháp của Kendall, theo Ông các nhà đầu tư
sẽ tìm cách mua khi giá có khuynh hướng tăng và bán khi giá có khuynh hướng giảm. Thực
tế, khi nhà đầu tư dự đoán giá có khuynh hướng tăng thì ngay lập tức giá chứng khoán trên
thị trường sẽ tăng. Vì vậy giá chứng khoán sẽ phản ứng ngay lập tức khi có thông tin dự
đoán giá sẽ tăng và ngược lại đối với trường hợp dự đoán giá sẽ giảm.
Như vậy, thông tin là một trong ba yếu tố cấu thành để làm nên một thị trường chứng
khoán hiệu quả. Trong đó thông tin có vai trò quyết định đến giá chứng khoán trên thị
trường. Thị trường có thông tin minh bạch và đầy đủ sẽ hình thành nên giá chứng khoán hợp
lý và tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán.
1.3. Lý thuyết về thông tin bất cân xứng
1.3.1. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện vào
những năm 1970 và đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng
sự kiện năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof, Michael
Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. Bất cân xứng về thông
tin có ba đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch
Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên
Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi:
Một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn một bên khác. Điển hình là người bán
biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua hoặc ngược lại.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
9
Một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì không biết đích thực mức độ
thông tin ở mức nào đó.
Một hoặc nhiều nhà đầu tư sở hữu được thông tin riêng hoặc có nhiều thông tin đại
chúng hơn về một công ty.
1.3.2. Hệ quả của thông tin bất cân xứng
1.3.2.1. Lựa chọn nghịch
Sự lựa chọn nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng giữa các bên khi
tham gia giao dịch, hoặc một trong các bên thiếu thông tin và hiểu biết phục vụ cho
quá trình đàm phán, thực hiện hợp đồng. Bất cân xứng thông tin càng lớn nguy cơ
lựa chọn nghịch càng cao.
Trên thị trường các hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản
phẩm có mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của bất cân xứng thông tin là
yếu tố quan trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có thông tin tốt hơn người mua
nên sự nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của người mua là không thể tránh khỏi. Điều
đó đẩy người mua đến hai con đường: hoặc là chọn mặt hàng thay thế, hoặc là tìm
cách có thêm thông tin về hàng hóa đó ( mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…).
Tuy nhiên, việc làm này tăng chi phí giao dịch mà người mua phải trả thêm. Những
yếu tố này làm giảm nhu cầu của người mua và kết quả là trên những thị trường như
thế, doanh số giao dịch sẽ không cao.
Chẳng hạn như, trên thị trường tín dụng, người cho vay thường không thể nắm
bắt đầy đủ thông tin về người vay tiền nên sẽ tính một mức lãi suất cho vay có phần bù
rủi ro. Những dự án kinh doanh có rủi ro thấp, lợi nhuận sẽ không đủ trả lãi, chỉ còn
lại những dự án rủi ro cao mới có thể chấp nhận vay mức lãi suất cao. Chính vì tình
trạng thông tin không cân xứng về dự án kinh doanh giữa người cho vay và người đi
vay, nên cuối cùng người cho vay chỉ toàn cho vay những dự án có rủi ro cao hoặc sẽ
không chấp nhận cho vay. Điều này đương nhiên sẽ thu hẹp thị trường tín dụng. Khi
đó, người cho vay đã thực hiện một lựa chọn đối nghịch thay vì cho vay những khách
hàng có mức tín nhiệm cao thì họ lại chọn những khách hàng có mức tín nhiệm thấp
vay.
1.3.2.2. Rủi ro đạo đức
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
10
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin không cân xứng. Khác với lựa chọn
đối nghịch, rủi ro đạo đức xuất hiện sau các cuộc giao dịch khi một bên thực hiện
những hành động ẩn giấu và có ảnh hưởng đến lợi ích của phía đối tác.
Rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu. Một bên tham gia giao dịch
không thể giám sát hành động của phía bên kia.
Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu dù vô tình hay cố ý sẽ làm tăng xác suất xảy ra
hậu quả xấu.
Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường,
chẳng hạn: Có một số thị trường mà tình trạng bất cân xứng thông tin dễ được nhận
thấy như thị trường bảo hiểm (y tế, tài sản, tai nạn), thị trường cho vay tín dụng,
thị trường chứng
khoán.
Trong thị trường cho vay tín dụng, người vay tiền biết nhiều thông tin hơn
người cho vay về hiệu quả của phương án kinh doanh, khả năng quản lý vốn và mức
độ rủi của dự án hơn người cho vay tiền, thậm chí anh ta còn hiểu rõ về uy tín của bản
thân và biết chắc rằng mình có sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích cam kết hay
không. Nói tóm lại, trong thị trường cho vay tín dụng bất cân xứng thông tin sẽ dẫn
đến cả lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức.
1.3.3. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư
Khi xảy ra thông tin bất cân xứng, lợi ích của một bên cao hơn lợi ích kỳ vọng của thị
trường. Lợi ích kỳ vọng của thị trường là lợi ích bình quân của toàn thị trường, nó thường
được đánh giá thông qua các chỉ số như EPS hay chỉ số P/E. Tuy nhiên, đối với mỗi công ty,
căn cứ vào tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận… mà các chỉ số này cao hay thấp. Thông
thường lợi ích kỳ vọng khi đầu tư vào thị trường phải cao hơn lợi ích khi gửi tiền vào ngân
hàng, vì đầu tư vào thị trường chứng khoán có rủi ro cao hơn. Vì thế trong trường hợp nhà
đầu tư mua cổ phiếu của một công ty có giá thấp hơn giá được kỳ vọng, khi đó khả năng đạt
được lợi tức từ việc đầu tư cổ phiếu này sẽ cao hơn so với lợi tức kỳ vọng.
Bên cạnh đó, khi thông tin bất xứng, chi phí kỳ vọng của bên bất lợi thông tin cao hơn
chi phí kỳ vọng của thị trường. Ngược lại so với tác động trên, nếu như nhà đầu tư mua cổ
phiếu của một công ty có giá cao hơn giá trị kỳ vọng, khi đó khả năng đạt được lợi tức từ
việc đầu tư cổ phiếu này sẽ thấp hơn so với lợi tức kỳ vọng.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
11
Thông tin bất cân xứng còn có thể khiến một bên đối tác có thể rời bỏ thị trường,
nguyên nhân là do nhà đầu tư ít thông tin nên sẽ chịu chi phí kỳ vọng cao hơn chi phí kỳ
vọng thị trường, do đó không nhiều thì ít, các đối tượng này sẽ là đối tượng rời bỏ thị trường
trước tiên.
1.3.4. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng
Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện thông tin bất cân xứng thì các giải pháp thường được
áp dụng chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng
lọc và cơ chế giám sát.
1.3.4.1. Phát tín hiệu:
Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể
vay được vốn với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay
người cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình. Thông
thường người đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi
nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu như
họ không biết rõ về khách hàng của mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu
rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt. Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp
này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng công ty, năng lực tài chính, tài sản
đảm bảo v.v , ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người đi vay thực hiện
trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản, lãi suất cho vay
…Cũng giống như thị trường tài chính, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của một công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán, ít nhiều họ cũng cần biết công ty đó hoạt động
ra sao, sản xuất cái gì vv. Vì thế công ty muốn nâng cao vị thế, bán cổ phiếu với giá
cao và hợp lý, nó phải cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt động và
tiềm năng phát triển của nó.
1.3.4.2. Sàng lọc
Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn
mức tín dụng khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối với
tổ chức bảo hiểm, cơ chế sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần, điều
này cho thấy ngay cả đối với nhóm bất cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần của
mình trong sự cố bồi thường có thể xảy ra. Ở thị trường chứng khoán, ngoại trừ một số
nhà đầu cơ, đa phần nhà đầu tư mong muốn mình sẽ đầu tư vào những công ty có khả
năng mang lại hiệu quả cao và bền vững. Vì vậy cơ chế sàng lọc đối với nhà đầu tư là
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
12
đầu tư vào các công ty có thông tin minh bạch, uy tín, làm ăn hiệu quả và có tiềm năng
phát triển cao.
1.3.4.3. Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế
bao gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp.
Giám sát trực tiếp: nhà đầu tư sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm soát thông
tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của nhà đầu tư
muốn giám sát công ty niêm yết sẽ bị hạn chế.
Giám sát gián tiếp: thông qua các qui định của các nhà tổ chức thị trường
(UBCK, Sở GDCK), mặc nhiên các công ty niêm yết phải có trách nhiệm thông báo
trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhà đầu tư và nhà đầu tư cũng thông qua các quyền lợi đã
được qui định mà có thể tiếp cận giám sát gián tiếp công ty niêm yết. Ngoài ra còn có
giám sát thị trường: căn cứ đánh giá của thị trường để biết nhiều thông tin hơn về các
công ty niêm yết sau khi thực hiện giao dịch. Cơ chế giám sát được thực hiện rất chặt
chẽ trên thị trường chứng khoán. Vì nhà đầu tư không thể bỏ ra một số tiền mà không
biết số tiền đó được sử dụng như thế nào.
Chương II
THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC BÊN THAM GIA
2.1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Thị trường Chứng khoán Việt Nam ra đời từ khi nào?
Nhằm đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, ngày 11-7-1998 Chính
phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
13
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành
lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho
TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày
28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (gọi tắt là TTGDCK TP.HCM) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt
động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Trung tâm Giao dịch chứng
khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK
TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà
Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
2.1.2. Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng khoán:
Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào ngày 28/07/2000 tại TTGDCK TP. HCM đánh
dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam. Tại thời điểm đó chỉ có 2 loại cổ phiếu được niêm yết là
REE và SAM và một số ít trái phiếu của chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến
2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001 do đó thị
trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến
tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận
hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam; Mốc thời gian kể từ đầu
năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán
Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở
giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.Với mức tăng
trưởng đạt tới 60%, lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm. Cũng giai đoạn này,
đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết,
cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện
tượng “bong bóng chứng khoán” xảy ra.
Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ: Luật Chứng khoán có
hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả
năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức
niêm yết được tăng cường. Giai đoạn này cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn thăng
trầm nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất thường: giai đoạn thị
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
14
trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5
tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối
năm.
Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại
năm 2008 với sự sụt giảm mạnh: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh
(nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại,
sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.
Giai đoạn 2009: giai đoạn của suy giảm tận đáy để sau đó hồi phục ngoạn mục: Đầu
năm 2009 do ảnh hưởng của tình hình chung trên toàn thế giới, chỉ số ck Việt Nam giảm
mạnh. Tuy nhiên sau đó, nhờ sự can thiệp và hỗ trợ của chính phủ, TTCK Việt Nam vào
cuối năm 2009 đã phục hồi đáng kể.
Giai đoạn 2011 : giai đoạn của những kỷ lục: Kỷ lục về giá trị huy động vốn, tăng
gấp 3 lần so với năm 2009, cũng như kỷ lục về việc thoái vốn của quỹ đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, là kỷ lục về sự thay đổi trong cơ chế quản lý cũng như cơ chế giao dịch của thị
trường thể hiện bằng những quy định, thông tư 13, luật chứng khoán…
2.1.3. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam trong 10 năm tới
Trong 10 năm tới, TTCK Việt Nam đặt các mục tiêu phát triển như sau:
Một là, phát triển thị trường chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung của thị
trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước, tích cực hội nhập với thị trường tài chính khu vực và
quốc tế.
Hai là, phát triển TTCK đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả, vận hành an toàn,
lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ
hội đầu tư sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán được tổ chức giao dịch
theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các tổ chức
kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền tảng quản trị rủi
ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
15
các trung gian thị trường trên nguyên tắc không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các thành viên thị trường.
Năm là, phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát triển thị trường tiền tệ,
thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có
sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của
các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải
pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh,
từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa TTCK Việt Nam so với các thị trường
khác trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Thực trạng thông tin bất cân xứng trong thị trường chứng khoán
2.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về minh bạch hóa thông tin trên thị
trường
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế
giới, hiện tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực.
Thứ nhất, ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh
nghiệp không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có
cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư
hầu như mù mờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các thông
tin tìm được chủ yếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin đồn. Một
thực trạng nữa là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực hiện đấu giá tại cơ
sở, Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để “dìm giá“ sao cho những
người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
Thứ hai, có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ
thông tin phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban
hành chỉ yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia
đấu giá và tổng lượng CP đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc
đặt giá như số lượng nhà đầu tư tổ chức/nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng
CP đặt mua của các đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, những
thông tin này không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp một cách riêng lẻ cho những
đối tượng có nhu cầu. Những người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
16
trường, các cá nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán được hợp lý mức giá mà mình
bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin.
Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu
tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không
công bố rộng rãi.
Thứ tư là hiện tượng lừa đảo. Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường
chứng khoán Việt Nam nhưng rất đáng cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt những
người không có kiến thức về chứng khoán và kinh tế lại có tham vọng làm giàu bằng kinh
doanh chứng khoán. Báo Vnexpress đăng tin, một số cá nhân đã lừa đảo bán cổ phiếu giả
cho những nhà đầu tư nhẹ dạ ở Hải Phòng để thu được gần 800 tỷ đồng. Tiếp đó là vụ lừa
đảo hàng chục tỷ đồng, lợi dụng lòng tin của những người chơi chứng khoán nhỏ lẻ để ôm
tiền bỏ chạy.
Thứ năm là việc tung tin đồn thất thiệt. Trong thời gian 6 năm hoạt động của thị trường
chứng khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin này
thường được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán (forum), trên các sàn giao dịch chứng
khoán, hoặc được truyền miệng. Do nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm
chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của doanh nghiệp còn yếu kém, chậm
chạp nên dẫn đến gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu
trên thị trường. Trong khi đó, các quy định của Nhà nước về việc xử phạt đối với việc tung
tin đồn trên thị trường chứng khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo. Cơ chế phát hiện đối
với việc tung tin đồn cũng chưa rõ ràng.
Thứ sáu là các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ. Đây
không phải là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp không
mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Ví dụ, thông tin về SJS "sập
sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/20076. Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu
thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP
xuống còn 190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan truyền thông cung cấp,
chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều các thông tin nhận định phân tích
mang tính định hướng cho nhà đầu tư và thị trường. Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác về
việc một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo trên thị trường khiến cho giá cả biến động
mạnh.
2.2.2. Thực trạng công bố thông tin theo qui định hiện hành
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
17
Thứ nhất, thông tin định kỳ: Đó là những thông tin được cập nhật liên tục như các
báo cáo tài chính quý, sáu tháng và báo cáo tài chính năm, báo cáo thường niên. Mặc dù
các báo cáo này bắt buộc phải công bố trong thời hạn 10 ngày kể từ khi có báo cáo,
nhưng đa số các công ty hiện nay công bố vẫn còn chậm hơn so với qui định. Sự việc
chậm trễ này là do các công ty chưa tạo được thói quen (thị trường chứng khoán còn
mới mẻ) và chưa nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của việc công bố thông tin. Từ
trước đến nay các thông tin tài chính được xem là bí mật của công ty nên các doanh nghiệp
rất ngại công bố các thông tin này.
Thứ hai, thông tin bất thường: Đây là những thông tin bắt buộc công bố trong
vòng 24 giờ hoặc 72 giờ tùy theo nội dung thông tin như tài khoản của công ty tại ngân
hàng bị phong toả hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị
phong toả; Tạm
ngừng kinh doanh; Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc Giấy phép
thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động; Quyết định vay hoặc phát hành trái
phiếu có giá trị từ ba mươi phần trăm (30%) vốn thực có trở lên; Quyết định của Hội
đồng quản trị về chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hàng
năm của công ty; Quyết định thay đổi phương pháp kế toán áp dụng; vv… Nhìn chung
các thông tin bất thường này chưa phổ biến tại thị trường chứng khoán Việt Nam nói
chung và TP.HCM nói riêng nên thời gian vừa qua rất ít thấy các công ty niêm yết vi phạm
qui định này.
Thứ ba, công bố thông tin theo yêu cầu: là thông tin liên quan đến công ty đại chúng
ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có thông tin liên quan đến
công ty đại chúng ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó.
Các thông tin trên đây bắt buộc phải công bố trong vòng 24 giờ. Đây là phần công bố
thông tin mà các công ty niêm yết thường xuyên vi phạm qui định hoặc lơ là không công
bố. Lý do là các qui định công bố về lĩnh vực này chưa được rõ ràng vẫn còn chung
chung nên công ty niêm yết thường hay tránh né. Bên cạnh đó, các công ty niêm yết rất
ngại công bố những thông tin nếu như nó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty nói chung và ảnh hưởng đến lợi ích của một số người chủ chốt nói riêng. Điển
hình trường hợp Công ty cổ phần cao su Tây Ninh (mã CK: TRC) giải thích trễ 4 tháng về
việc không công bố thông tin liên quan đến sự cố gió lốc đã làm gãy đổ 126,000 cây cao
su tại đội K3 của Nông trường Cầu Khởi thuộc Công ty (Báo Tuổi trẻ ngày 10/08/2007).
Thứ tư, công bố thông tin về giao dịch của các cổ đông nội bộ: thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
18
giám đốc, Kế toán trưởng của tổ chức niêm yết và người có liên quan khi có ý định giao
dịch cổ phiếu của tổ chức niêm yết bắt buộc phải công bố thông tin giao dịch trước khi
giao dịch. Tuy nhiên, hiện tượng giao dịch hoàn tất rồi mới báo cáo UBCK, Sở GDCK vẫn
còn xảy ra thường xuyên (tại các công ty Nhiệt điện Phả lại, Petrolimex, Hàng hải Sài
Gòn vv). Có một điều đáng nói là do qui định xử phạt hiện nay còn quá thấp nên các nhà
đầu tư sẵn sàng chấp nhận bị phạt hơn là công bố. Vì thông thường công bố thông tin
giao dịch của cổ đông nội bộ (bán ra) thì giá cổ phiếu sẽ xuống.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
19
Chương III
GIẢI PHÁP
Dựa vào thực trạng những gì đang diễn ra, thiết nghĩ những nhà quản lý thị trường cần
phải quan tâm và thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần phải cải thiện tính minh bạch của thông tin được công bố ở hai phía:
công ty niêm yết và cơ quan quản lý. Nâng cao tính minh bạch thông tin được xem là nội
dung quan trọng hàng đầu để gia tăng tính hiệu quả cho TTCK Việt Nam. Hiện nay các công
ty niêm yết không nhất quán trong việc công bố thông tin khiến cho các công ty khác không
muốn thực hiện. Về phía cơ quan quản lý cần có những biện pháp chặt chẽ hơn trong việc
quản lý việc công bố thông tin để nhà đầu tư thấy được tính chuyên nghiệp và có niềm tin
khi đầu tư vào thị trường chứng khoán.
Trước tiên, tập trung xây dựng và phát triển hệ thống công bố thông tin dựa trên nguồn
lực công nghệ thông tin ở trong nước, ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế và xây
dựng từng phần hệ thống công bố thông tin số hóa. Việc xây dựng từng phần này trước hết
sẽ tập trung vào giải quyết những khâu mất nhiều thời gian nhất hiện nay trong quy trình
công bố thông tin. Đồng thời, việc thiết kế cũng đảm bảo tính mở, nghĩa là có thể điều chỉnh
để đáp ứng những yêu cầu mới. Trong thời gian trước mắt, nên bắt đầu việc xây dựng hệ
thống kết nối trực tuyến giữa sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức niêm yết chứng
khoán, các công ty chứng khoán, vì đây là một trong những khâu tốn thời gian xử lý văn bản
nhất.
Ngoài ra, cần thành lập tổ chức định mức tín nhiệm để đánh giá mức độ tín nhiệm của
tổ chức phát hành chứng khoán nói chung và các tổ chức có chứng khoán niêm yết trên sở
giao dịch chứng khoán nói riêng. Tổ chức định mức tín nhiệm sẽ cung cấp cho thị trường và
các nhà đầu tư một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính trên thị trường. Từ đó, sẽ giúp
cho các nhà đầu tư có thêm nguồn cung cấp thông tin làm cơ sở để so sánh, đối chiếu trước
khi thực hiện quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm sẽ
hỗ trợ tích cực cho nghiệp vụ tư vấn đầu tư của các công ty chứng khoán.
Thứ hai, cần nâng cao vai trò của cơ quan giám sát thị trường chứng khoán. Cơ quan
quản lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán và các định chế trung gian (công ty chứng
khoán, công ty quản lý quỹ,…) tạo nên hệ thống giám sát gồm ba tầng theo hàng dọc. Trong
đó, sở giao dịch chứng khoán sẽ theo dõi các công ty chứng khoán thành viên, công ty niêm
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
20
yết về hoạt động giao dịch và thị trường của họ. Để nâng cao vai trò giám sát hoạt động giao
dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán cần xây dựng đầy đủ hệ thống các chỉ tiêu
giám sát, trong đó bao gồm các tiêu chí chính yếu sau: tiêu chí cảnh báo, tiêu chí tạm ngừng
giao dịch, tiêu chí giám sát trong ngày và tiêu chí giám sát nhiều ngày. Đối với lĩnh vực
giám sát hoạt động các công ty niêm yết, cần chuẩn hoá, ban hành và hướng dẫn các quy
trình liên quan đến quy trình quản lý niêm yết để các tổ chức niêm yết thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình. Từ đó hoàn thiện hệ thống nhận công bố thông tin từ tổ chức niêm yết và hệ
thống quản lý dữ liệu tổ chức niêm yết.
Thứ ba, cần tăng cường hơn nữa các tiêu chuẩn niêm yết đối với các công ty có nhu
cầu niêm yết, nhằm tăng tính an toàn cho nhà đầu tư. Nâng cao tiêu chuẩn niêm yết đối với
các công ty có nhu cầu niêm yết sẽ giúp TTCK đi vào ổn định và đạt hiệu quả hơn. Khi tiêu
chuẩn niêm yết thấp sẽ dẫn tới tình trạng có một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh hoạt
động không hiệu quả được tham gia niêm yết, điều này sẽ không chỉ gây rủi ro cho các nhà
đầu tư, mà còn làm xấu đi môi trường đầu tư.
Thứ tư, là quyền được tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Cơ quan thống kê, phân tích
công bố các báo cáo không phải là cho Chính phủ mà là cho thị trường. Thông tin được công
bố có thể miễn phí, có thể phải mua, nhưng nhà đầu tư phải được quyền tiếp cận chúng.
Thứ năm, cần nâng cao tính thực thi của hệ thống luật pháp. Nhằm đảm bảo cho các
quy định của luật có tính khả thi cao, tạo điều kiện áp dụng luật hiệu quả, Bộ Tài chính, Ủy
ban chứng khoán cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết các quy định về
những tội danh trong lĩnh vực chứng khoán. Chỉ có như vậy, mới giúp các cơ quan tố tụng
thuận lợi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. (Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày
08/3/2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán; - Nghị định 85/2010/NĐ-CP ngày 02/08/2010 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán; Thông tư 09/2010/TT-BTC
ngày 15/01/2010 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán…)
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
21
KẾT LUẬN
Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp thị trường chứng
khoán phát triển. Với tư cách là một người chủ sở hữu của doanh nghiệp, cổ đông của công
ty hoàn toàn được quyền biết rõ tình trạng doanh nghiệp của mình. Khi các doanh nghiệp
này đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì câu chuyện minh bạch thông tin
doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở những người chủ sở hữu mà còn là chuyện của những
nhà đầu tư. Doanh nghiệp niêm yết phải có trách nhiệm công bố thông tin một cách rõ ràng
minh bạch theo đúng pháp luật để cho các nhà đầu tư có những quyết định đúng đắn. Tuy
nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng làm được như vậy.
Hàng loạt những bất cập của thị trường chứng khoán đã được phát hiện từ lâu nhưng
chưa được tháo gỡ. Một yếu tố gây mất lòng tin nhà đầu tư là các vi phạm như giao dịch nội
gián, làm giá chứng khoán, vi phạm công bố thông tin… ít được phát hiện và nếu có thì xử
lý theo kiểu “giơ cao đánh khẽ”… Nhiều DN ép cổ đông góp vốn song sử dụng vốn kém
hiệu quả, vừa pha loãng thị trường, vừa lãng phí đồng vốn.
Các thống kê cho thấy hiện tượng bất cân xứng thông tin của các nhà đầu tư chứng
khoán tổ chức và cá nhân ngày càng gia tăng. Chính vì thế mà các tin đồn xuất hiện ngày
càng nhiều và công khai hơn trên TTCK Việt Nam. Kết quả là hàng loạt cổ phiếu được làm
giá một cách quá đà và không khó để có thể nhận biết, cổ phiếu tăng hơn 10 phiên liên tiếp
với thị giá tăng hơn 100% không phải chuyện hiếm như: ALP, TNA, PVC, PVA, VSP, VTV
… chỉ vì vài lời đồn thổi công ty có lợi nhuận “khủng” các dự án bất động sản gì đó, để rồi
sau đó cũng chính giá cổ phiếu này lại giảm đi hơn nửa giá trị chỉ trong có vài ngày.
Ngày 28/10/2010, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành
Quyết định số 847/QĐ-UBCK xử phạt vi phạm hành chính đối với CTCP Khoáng sản Sài
Gòn – Quy Nhơn (SQC) với số tiền nộp phạt là 80 triệu đồng. Theo đúng quy định (Thông
tư 09/2010/TT-BTC) tổ chức niêm yết phải công bố thông tin trong thời hạn hai mươi bốn
(24) giờ kể từ khi có các sự kiện có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc
tình hình quản trị của tổ chức niêm yết. Việc CTCP Khoáng sản Sài Gòn – Quy Nhơn, có
địa chỉ: Lô B6, Đường số 5, Khu Công nghiệp Nhơn Hội, Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định tạm ngừng và sản xuất cầm chừng tại Nhà máy Xỉ titan 3 tháng nhưng không thực hiện
công bố thông tin bất thường theo quy định.
Hồi đầu tháng 4 vừa qua, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) vừa ban hành
Quyết định số 09/QĐ-TT xử phạt 50 triệu đồng đối với Công ty CP Chứng khoán Artex do 3
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
22
lần liên tiếp vi phạm không thực hiện công bố thông tin kịp thời. Trong năm 2010, Công ty
CP Chứng khoán Artex đã 3 lần liên tiếp vi phạm không thực hiện công bố thông tin kịp thời
theo quy định tại Thông tư 09/2010/TT-BTC. Xét tính chất và mức độ vi phạm, UBCKNN
xử phạt vi phạm hành chính đối với Cty CP Chứng khoán Artex 50.000.000 đồng.
Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HoSE) cũng vừa “điểm mặt chỉ tên” một số
doanh nghiệp niêm yết đã vi phạm về việc công bố thông tin. Những doanh nghiệp bị nêu
tên lần này gồm: Công ty CP Đầu tư và Xây dựng Sao Mai An Giang (ASM), Công ty CP
Chứng khoán Bảo Việt (BVH), Công ty CP Tập đoàn Đức Long Gia Lai (DLG), Công ty CP
Khoan và Dịch vụ khoan Dầu khí (PVD)…
Thị trường chứng khoán hoạt động dựa trên niềm tin của các nhà đầu tư. Một khi niềm
tin được củng cố và duy trì, thị trường sẽ phát triển một cách bền vững. Hoạt động quan hệ
nhà đầu tư bao gồm cả việc công bố thông tin sẽ là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà
đầu tư, giúp cho việc truyền tải thông tin giữa hai đối tượng hiệu quả hơn nhằm nuôi dưỡng
và duy trì niềm tin của các cổ đông và nhà đầu tư.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhóm 4
Trang
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Robert S.Pindyck và Daniel L. Rubinfel, Giáo trình Kinh tế học vi mô, tái bản lần thứ
ba, bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Thống kê, năm 1999.
2. Luận văn thạc sỹ của tác giả Lê An Khang “Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối
với nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh”
3. Website : Trang web của Ủy ban chứng khoán nhà nước
4. Website : Trang web của Tạp chí Pháp lý