NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 1
CHƯƠNG 12
TIẾT KIỆM, ĐẦU TƯ VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Hãy tưởng tượng bạn vừa tốt nghiệp đại học (chuyên ngành kinh tế) và bạn quyết định mở
một doanh nghiệp riêng - chẳng hạn công ty dự báo kinh tế. Trước khi kiếm được tiền từ việc
bán các thông tin dự báo, bạn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để thành lập công ty. Bạn
phải mua máy tính để tiến hành dự báo, c
ũng như bàn, ghế, giá lưu trữ để trang bị nội thất
cho văn phòng mới. Mỗi loại tài sản này là một dạng tư bản mà công ty của bạn sử dụng để
sản xuất và bán dịch vụ.
Làm thế nào để bạn có tiền đầu tư vào các hàng tư bản đó? Có thể bạn mua chúng từ khoản
tiền tiết kiệm trong quá khứ. Song thường thì giống như hầu hế
t các doanh nhân khác, bạn
không có đủ tiền để trang trải cho các khoản chi phí khởi nghiệp. Vì vậy, bạn phải tìm kiếm
số tiền cần thiết từ các nguồn khác.
Bạn có nhiều cách để tài trợ cho các khoản đầu tư vào những tài sản đó. Bạn có thể vay tiền
từ ngân hàng, bạn bè hoặc người thân. Trong tình huống này, bạn phải hứa với người cho vay
không những sẽ hoàn trả toàn bộ tiền vay đúng hẹ
n, mà còn phải trả một khoản lãi cho việc
sử dụng tiền. Một cách khác là bạn thuyết phục ai đó cấp cho bạn số tiền cần thiết cho hoạt
động kinh doanh để đổi lấy một phần lợi nhuận tương lai của bạn, bất kể nó là bao nhiêu.
Trong cả hai tình huống, khoản tiền đầu tư cho máy tính và trang thiết bị văn phòng đều được
tài trợ từ nguồn tiết kiệ
m của ai đó.
Hệ thống tài chính bao gồm những định chế trong nền kinh tế giúp cho tiết kiệm của người
này ăn khớp với đầu tư của người khác. Như chúng ta đã thảo luận trong các chương trước,
tiết kiệm và đầu tư là những nhân tố cơ bản quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Khi một
nước tiết kiệm phần lớn
GDP của mình, thì nó có nhiều nguồn lực để đầu tư vào tư bản, và
khối lượng tư bản lớn hơn làm tăng năng suất và mức sống. Song chương trước chưa giải
thích việc nền kinh tế phối hợp tiết kiệm và đầu tư như thế nào. Tại bất cứ thời điểm nào cũng
có người muốn tiết kiệm một phần thu nh
ập để dành cho tương lai, đồng thời lại có người
muốn vay tiền để đầu tư vào các doanh nghiệp mới và mở rộng sản xuất. Điều gì đưa hai
nhóm người này lại với nhau? Điều gì bảo đảm rằng mức cung về vốn từ người muốn tiết
kiệm cân bằng với mức cầu về vốn từ những người muốn đầu tư?
Chương này xem xét phương thức hoạt động của hệ thống tài chính. Thứ nhất, chúng ta thảo
luận về hàng loạt các định chế cấu thành hệ thống tài chính trong nền kinh tế của chúng ta.
Thứ hai, chúng ta thảo luận mối quan hệ giữa hệ thống tài chính và một số biến kinh tế vĩ mô
then chốt - đặc biệt là tiết kiệm và đầu tư. Thứ ba, chúng ta phát triển mô hình cung và cầu về
vốn trong các thị tr
ường tài chính. Trong mô hình, lãi suất là giá cả có thể điều chỉnh để cân
bằng cung và cầu. Mô hình cho thấy các chính sách của chính phủ ảnh hưởng như thế nào
đến lãi suất và quá trình phân bổ những nguồn lực khan hiếm của xã hội.
CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ MỸ
Nói theo cách chung nhất, hệ thống tài chính có chức năng chuyển các nguồn lực khan hiếm
của nền kinh tế từ người tiết kiệm (những ngườ
i chi tiêu ít hơn thu nhập) tới người đi vay
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 2
(những người chi tiêu nhiều hơn thu nhập). Người ta tiết kiệm vì nhiều lý do: chuẩn bị tiền
bạc cho con cái vào học đại học trong mấy năm tới hoặc dành dụm cho buổi xế chiều trong
vài chục năm nữa. Tương tự như thế, người ta vay tiền vì nhiều lý do: mua một căn hộ để ở
hoặc mở một doanh nghiệp vì kế sinh nhai. Người tiết kiệm cung ứng tiề
n của họ cho hệ
thống tài chính với hy vọng sẽ nhận lại khoản tiền gốc cùng với tiền lãi vào một ngày trong
tương lai. Người đi vay có nhu cầu về tiền từ hệ thống tài chính với nhận thức rằng họ phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi vào một ngày trong tương lai.
Hệ thống tài chính được tạo nên bởi nhiều định chế tài chính giúp kết nối người tiết ki
ệm với
người đi vay. Để chuẩn bị cho việc phân tích các lực lượng kinh tế chi phối hệ thống tài
chính, chúng ta xem xét những định chế quan trọng nhất. Chúng ta có thể phân loại chúng
thành hai nhóm: thị trường tài chính và trung gian tài chính. Bây giờ chúng ta lần lượt xem
xét từng nhóm.
Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là các định chế qua đó người muốn tiết kiệm có thể trực tiếp cung cấp
vốn cho người muốn vay. Hai thị trườ
ng tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế của
chúng ta là thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu.
Thị trường trái phiếu. Khi Intel, một đại gia trong lĩnh vực sản xuất chíp máy tính, muốn
vay tiền để xây dựng nhà máy mới, nó có thể vay trực tiếp từ công chúng. Nó làm như thế
bằng cách bán trái phiếu. Trái phiếu là chứng từ vay nợ xác định trách nhiệm của người đi
vay đối với người n
ắm giữ trái phiếu. Nói một cách đơn giản, trái phiếu là chứng từ xác nhận
rằng "tôi nợ anh" (IOU). Trong trái phiếu có ghi ngày người đi vay phải hoàn trả khoản nợ,
gọi là ngày đáo hạn, và lãi suất người đi vay phải trả thường kỳ cho đến khi đáo hạn. Người
mua trái phiếu đưa tiền cho Intel để đổi lấy lời hứa trả lãi thường kỳ và nhận lại số ti
ền cho
vay vào ngày đáo hạn (gọi là vốn gốc). Người mua trái phiếu có thể nắm giữ nó đến ngày đáo
hạn hoặc bán nó cho người khác trước khi nó đến hạn.
Có hàng triệu loại trái phiếu khác nhau được lưu hành ở Mỹ. Khi các công ty lớn, chính
quyền liên bang, bang hay địa phương cần vay nợ để tài trợ cho việc mua nhà máy mới, máy
bay chiến đấu mới hay xây dựng trường học mới, họ thường phát hành trái phiếu. Nếu xem t
ờ
Tạp chí phố Uôn hay mục kinh doanh trên các tờ báo địa phương, bạn thấy danh sách liệt kê
giá cả và lãi suất của những trái phiếu quan trọng nhất. Mặc dù các trái phiếu rất khác nhau,
nhưng chúng có ba đặc tính chung quan trọng nhất.
Đặc tính thứ nhất là kỳ hạn của trái phiếu - khoảng thời gian cho đến khi trái phiếu đáo hạn.
Một số trái phiếu có kỳ hạn ngắn, ví dụ vài tháng, nhưng một số trái phi
ếu có kỳ hạn dài tới
30 năm. (Chính phủ Anh thậm chí đã từng phát hành một loại trái phiếu không bao giờ đáo
hạn, gọi là trái phiếu vĩnh viễn. Loại trái phiếu này trả lãi mãi mãi, nhưng không bao giờ hoàn
trả vốn gốc.) Lãi suất của trái phiếu một phần phụ thuộc vào kỳ hạn của nó. Trái phiếu dài
hạn thường rủi ro hơn trái phiếu ngắn hạn, vì người nắm giữ
trái phiếu dài hạn phải đợi lâu
hơn mới đến ngày nhận lại vốn gốc. Nếu người nắm giữ trái phiếu dài hạn cần tiền trước ngày
đáo hạn, anh ta chỉ có cách bán trái phiếu ấy cho một người khác, có thể với mức giá thấp
hơn. Để bù lại mức rủi ro cao hơn, trái phiếu dài hạn thường có lãi suất cao hơn trái phiếu
ngắn hạn.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 3
Đặc tính quan trọng thứ hai của trái phiếu là mức rủi ro tín dụng của nó - đó là xác suất người
đi vay không thể trả một phần lãi suất hay vốn gốc của trái phiếu đó. Hiện tượng đó được gọi
là vỡ nợ. Người đi vay có thể (và đôi khi họ vẫn làm như vậy) tuyên bố vỡ nợ đối với các
khoản tiền vay của họ bằng cách tuyên b
ố phá sản. Khi người mua trái phiếu nhận thấy xác
suất vỡ nợ cao, họ yêu cầu mức lãi suất cao để bù lại rủi ro. Vì chính phủ được coi là không
có rủi ro tín dụng, nên lãi suất trái phiếu chính phủ thường thấp. Trái lại, các công ty không
đáng tin cậy về mặt tài chính thường phát hành trái phiếu mạo hiểm, có lãi suất cực cao.
Người mua trái phiếu có thể đánh giá mức độ rủi ro tín dụng bằng cách tham khảo ý kiến các
tổ
chức tư vấn chuyên xếp loại rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu, ví dụ công ty Standard
& Poor's.
Đặc tính thứ ba của trái phiếu liên quan đến chính sách thuế - tức cách xử lý của luật thuế đối
với lãi thu được từ trái phiếu. Vì lãi của hầu hết các trái phiếu đều bị đánh thuế, nên người sở
hữu trái phiếu thường phải trả một phần lãi dưới dạng thuế thu nhập. Trái lạ
i, khi chính quyền
bang và địa phương phát hành trái phiếu, gọi là trái phiếu thành phố, người sở hữu trái phiếu
không phải nộp thuế thu nhập liên bang từ lãi. Vì có lợi thế về thuế như vậy, nên trái phiếu do
chính quyền bang và địa phương phát hành thường có lãi suất thấp hơn trái phiếu của các
công ty hay chính quyền liên bang.
Thị trường cổ phiếu. Một cách khác mà Intel áp dụng để có tiền xây dựng nhà máy sản xuất
thiết bị bán d
ẫn của mình là bán cổ phiếu trong công ty. Cổ phiếu biểu thị quyền sở hữu tài
sản của doanh nghiệp, do đó nó cũng biểu thị quyền được hưởng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ví dụ, nếu Intel bán 1.000.000 cổ phiếu, thì mỗi cổ phiếu biểu thị quyền sở hữu một phần
triệu tài sản của Intel.
Việc bán cổ phiếu để có tiền
được gọi là tài trợ bằng cổ phần, còn việc bán trái phiếu được gọi là
tài trợ bằng nợ. Mặc dù các công ty thường sử dụng cả cách tài trợ bằng cổ phần lẫn cách tài trợ
bằng nợ để có tiền đầu tư mới, nhưng cổ phiếu và trái phiếu rất khác nhau. Người sở hữu cổ
phiếu của Intel là một trong số các chủ sở hữu của Intel, trong khi ng
ười sở hữu trái phiếu của
Intel lại là chủ nợ của nó. Nếu công việc kinh doanh của Intel rất hiệu quả, người nắm giữ cổ
phiếu (cổ đông) của nó có thu nhập cao, trong khi người nắm giữ trái phiếu chỉ nhận được lãi từ
trái phiếu của mình. Nhưng khi Intel gặp khó khăn về tài chính, thì nó có trách nhiệm trả nợ cho
người nắm giữ trái phiếu trước tiên, sau đó mới tớ
i người nắm giữ cổ phiếu. So với trái phiếu,
cổ phiếu có rủi ro cao hơn, nhưng cũng có thể đem lại lợi tức cao hơn.
Sau khi một công ty phát hành cổ phiếu bằng cách bán cổ phần cho công chúng, những cổ
phiếu này được mua đi bán lại giữa những người nắm giữ cổ phiếu tại các thị trường chứng
khoán có tổ chức. Trong các giao dịch này, bản thân công ty không nhận được ti
ền khi cổ
phiếu của nó trao tay. Thị trường chứng khoán quan trọng nhất trong nền kinh tế Mỹ bao gồm
Thị trường chứng khoán Niu Oóc, Thị trường chứng khoán Mỹ và hệ thống NASDAQ (Hệ
thống yết giá tự động của hiệp hội các nhà buôn chứng khoán Quốc gia). Phần lớn các nước
đều có thị trường chứng khoán riêng để trao đổi cổ phiếu của các công ty trong nước.
Giá của cổ phiếu buôn bán trong thị
trường chứng khoán do cung và cầu về cổ phiếu của các
công ty đó quyết định. Vì cổ phiếu biểu thị quyền sở hữu tài sản trong một công ty, nên nhu
cầu về cổ phiếu (và do đó là giá của nó) phản ánh nhận thức của dân chúng về khả năng sinh
lợi trong tương lai của công ty. Khi mọi người lạc quan về triển vọng của một công ty, họ
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 4
muốn được sở hữu cổ phiếu của nó và đẩy giá cổ phiếu tăng lên. Ngược lại, khi mọi người
nghĩ lợi nhuận của một công ty thấp, thậm chí lỗ, giá cổ phiếu của nó giảm xuống.
Người ta dùng nhiều loại chỉ số chứng khoán để theo dõi mức giá chung của cổ phiếu. Chỉ số
chứng khoán được tính dưới dạng giá bình quân của một nhóm các cổ
phiếu. Chỉ số chứng
khoán nổi tiếng nhất là Chỉ số công nghiệp bình quân Dow Jones, xuất hiện từ năm 1896.
Hiện tại chỉ số này được tính trên cơ sở giá cổ phiếu của 30 công ty lớn ở Mỹ như General
Motor, General Electric, Microsoft, Côca Côla, AT&T và IBM. Chỉ số nổi tiếng khác là Chỉ
số Standard & Poor's 500, là chỉ số được tính trên cơ sở giá cổ phiếu của 500 công ty lớn. Vì
giá cổ phiếu phản ánh mức lợ
i nhuận dự kiến, nên các chỉ số chứng khoán này được theo dõi
sát sao với tư cách những chỉ số về tình hình kinh tế trong tương lai.
PHẦN ĐỌC THÊM Cách đọc các bảng chứng khoán trên báo chí
Hầu hết các tờ nhật báo đều có các bản tin về tình hình mới nhất trên thị trường chứng khoán
liên quan đến cổ phiếu của nhiều công ty. Sau đây là những thông tin mà chúng thường nêu ra:
• Giá cả. Thông tin quan trọng nhất về cổ phiếu là giá cổ phiếu. Báo chí thường thông
báo nhiều loại giá cả. Giá mới nhất hay giá “đóng cửa” là giá của giao dịch cuối cùng
diễn ra trước khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào ngày hôm trước. Nhi
ều tờ báo
còn ghi giá “cao” và giá “thấp” của ngày trước đó, thậm chí đôi khi cả của năm trước
đó.
• Khối lượng giao dịch. Hầu hết báo chí đều ghi số lượng cổ phiếu bán ra trong ngày giao
dịch trước, gọi là khối lượng giao dịch hàng ngày.
• Cổ tức. Các công ty thanh toán một phần lợi nhuận của họ cho cổ đông. Số tiền này được
gọi là cổ
tức. Phần lợi nhuận không trả dưới dạng cổ tức được gọi là thu nhập giữ lại. Nó
thường được công ty sử dụng để đầu tư. Báo chí thường thông báo lợi tức được trả trong
năm trước cho mỗi cổ phiếu. Đôi khi họ còn thông báo tỷ lệ cổ tức, tức cổ tức tính bằng
phần trăm của giá cổ phiếu.
• Tỷ lệ giá-thu nhập. Thu nhập của một công ty, hay lợi nhuận, là số doanh thu mà nó nhận
được khi bán sản phẩm của mình trừ chi phí sản xuất do các nhân viên kế toán của công
ty tính. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu bằng tổng thu nhập của công ty chia cho số cổ phiếu
hiện có. Các công ty sử dụng một phần thu nhập của mình để trả cổ tức cho cổ đông, phần
còn lại được dùng để th
ực hiện các khoản đầu tư mới. Tỷ lệ giá-thu nhập, thường gọi là
P/E, bằng giá cổ phiếu của một công ty chia cho số tiền công ty đó kiếm được trong năm
trước. Theo kinh nghiệm thì tỷ lệ giá-thu nhập bằng khoảng 15. Tỷ lệ P/E cao hơn hàm ý
cổ phiếu của một công ty tương đối đắt so với thu nhập gần đây của nó; điều này có thể
cho thấy mọ
i người dự kiến thu nhập sẽ tăng trong tương lai, hoặc cổ phiếu của nó bị định
giá quá cao. Ngược lại, tỷ lệ P/E thấp hơn hàm ý cổ phiếu của một công ty tương đối rẻ so
với thu nhập gần đây của nó; điều này cho thấy mọi người dự kiến thu nhập sẽ giảm, hoặc
cổ phiếu của nó bị định giá quá thấp.
T
ại sao hàng ngày báo chí lại công bố tất cả những thông tin trên? Nhiều người đầu tư tiền
tiết kiệm của mình vào cổ phiếu dựa vào những con số này khi quyết định mua hay bán cổ
phiếu. Tuy nhiên, cũng có một số cổ đông tuân thủ chiến lược mua và nắm giữ: họ mua cổ
phiếu của các công ty quản lý tốt, giữ nó trong một thời gian dài và không phản ứng lại
những biến động hàng ngày đượ
c thông tin trên báo chí.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 5
Trung gian tài chính
Trung gian tài chính là các định chế tài chính mà nhờ đó người tiết kiệm có thể gián tiếp
cung cấp vốn của họ cho người đi vay. Thuật ngữ trung gian (hay môi giới - ND) phản
ánh vai trò của những định chế này trong việc đứng giữa người tiết kiệm và người đi vay.
Bây giờ chúng ta nghiên cứu hai loại trung gian tài chính quan trọng nhất: ngân hàng và
quĩ tương hỗ.
Ngân hàng. Nếu chủ một cửa hàng tạ
p hóa muốn có tiền để mở rộng kinh doanh, chắc chắn
anh ta không thể làm như Intel. Anh ta khó lòng tăng vốn kinh doanh thông qua thị trường
trái phiếu hay cổ phiếu. Mọi người chỉ muốn mua chứng khoán của các công ty lớn, có tên
tuổi. Vì vậy, người chủ cửa hàng tạp hóa mở rộng kinh doanh bằng cách đi vay từ một ngân
hàng địa phương.
Ngân hàng là loại trung gian tài chính quen thuộc nhất đối với mọi người. Nghiệp vụ cơ
b
ản nhất của ngân hàng là nhận tiền gửi của người tiết kiệm và cho vay lại số tiền đó. Ngân
hàng trả lãi cho người gửi tiền và tính lãi cao hơn một chút đối với khách hàng vay tiền. Số
tiền chênh lệch giữa hai mức lãi suất cho phép bù đắp chi phí của hoạt động ngân hàng và
đem lại cho chủ ngân hàng một khoản lợi nhuận.
Bên cạnh chức năng là trung gian tài chính, ngân hàng còn có vai trò quan trọng khác nữa: nó
làm cho hoạt động mua, bán trở nên thuậ
n tiện hơn bằng cách cho phép mọi người viết séc
vào các khoản tiền gửi trong ngân hàng. Nói cách khác, ngân hàng góp phần tạo ra một loại
tài sản đặc biệt cho phép mọi người sử dụng như một phương tiện trao đổi. Phương tiện trao
đổi là một thứ cho phép mọi người thực hiện các giao dịch. Vai trò cung cấp phương tiện trao
đổi là điểm quan trọng làm cho ngân hàng phân biệt với các trung gian tài chính khác. Giống
như tiền gử
i, cổ phiếu và trái phiếu là phương tiện để cất giữ giá trị của khối lượng của cải
mà người người tích luỹ được trong quá khứ, nhưng việc sử dụng các tài sản ấy không dễ, rẻ
và nhanh như viết séc. Bây giờ chúng ta tạm thời bỏ qua vai trò thứ hai của ngân hàng và sẽ
quay trở lại với nó trong chương 27, khi bàn về hệ thống tiền tệ.
Quĩ tương hỗ
. Một loại hình trung gian tài chính ngày càng có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Mỹ là quĩ tương hỗ. Quĩ tương hỗ là định chế phát hành cổ phiếu ra công chúng rồi
dùng số tiền thu được để mua một kết hợp - gọi là cơ cấu đầu tư (portfolio) - gồm nhiều loại
trái phiếu, cổ phiếu hoặc cả trái phiếu và cổ phiếu. Cổ đông của quĩ tương hỗ chấ
p nhận mọi
rủi ro và lợi tức gắn với cơ cấu đầu tư đó. Nếu giá trị của cơ cấu đầu tư tăng, cổ đông sẽ được
lợi. Nếu giá trị của cơ cấu đầu tư giảm, cổ đông sẽ bị thiệt.
Lợi thế trước hết của các quĩ tương hỗ là chúng cho phép mọi người đ
a dạng hóa cơ cấu đầu
tư với số tiền ít ỏi. Những người mua cổ phiếu và trái phiếu thường được khuyên là nên chú ý
đến câu ngạn ngữ là: Đừng bỏ toàn bộ trứng của bạn vào cùng một giỏ. Vì giá trị của bất kỳ
cổ phiếu hay trái phiếu nào cũng gắn liền với vận mệnh của một công ty, nên việc giữ một
loại cổ phiếu hay trái phiế
u duy nhất hết sức mạo hiểm. Ngược lại, nếu giữ cơ cấu đầu tư gồm
nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu, người ta sẽ gặp ít rủi ro hơn vì họ nắm một phần nhỏ tài sản
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 6
của mỗi công ty. Các quĩ tương hỗ cho phép thực hiện việc đa dạng hóa này một cách dễ
dàng. Chỉ với vài trăm đô la, một người có thể mua cổ phiếu của quĩ tương hỗ và gián tiếp trở
thành người tham gia sở hữu hay chủ nợ của hàng trăm công ty lớn. Để được hưởng dịch vụ
này, mỗi năm cổ đông phải trả cho công ty kinh doanh quĩ tương hỗ
một khoản lệ phí bằng
khoảng từ 0,5% đến 2% giá trị tài sản.
Lợi thế thứ hai mà các công ty kinh doanh quĩ tương hỗ thường quả quyết là quĩ tương hỗ tạo
điều kiện cho những người bình dân sử dụng chuyên môn của các nhà quản lý tiền tệ chuyên
nghiệp. Các nhà quản lý của hầu hết quĩ tương hỗ theo dõi sát sao diễn biến và triển vọng của
các công ty mà họ mua cổ phi
ếu. Họ mua cổ phiếu của các công ty được đánh giá là có lợi
nhuận trong tương lai và bán cổ phiếu của các công ty có triển vọng ít sáng sủa hơn. Người ta
lập luận rằng cách quản lý chuyên nghiệp này làm tăng lợi tức mà những người đầu tư vào
quĩ tương hỗ nhận được từ các khoản tiền tiết kiệm của mình.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế tài chính thường nghi ngờ luận điểm thứ hai này. Vớ
i hàng ngàn
nhà quản lý tiền tệ theo dõi chặt chẽ triển vọng của mỗi công ty, giá cổ phiếu của một công ty
thường phản ánh đúng giá trị thực của nó. Kết quả là, thật khó có thể "đánh bại thị trường"
bằng cách mua cổ phiếu tốt và bán cổ phiếu tồi. Trong thực tế, các quĩ tương hỗ được gọi là
quỹ chỉ số mua tất cả các cổ phiếu trong m
ột loại chỉ số chứng khoán nhất định đạt được kết
quả cao hơn một chút so với các quĩ tương hỗ khai thác lợi thế từ việc quản lý chủ động của
các nhà quản lý tiền tệ chuyên nghiệp. Cách lý giải cho tính ưu việt của quỹ chỉ số là chúng
có chi phí thấp do mua, bán rất ít và không phải trả tiền lương cho các nhà quản lý tiền tệ
chuyên nghiệp.
Tóm tắt
Có rấ
t nhiều định chế tài chính trong nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh thị trường trái phiếu, thị
trường cổ phiếu, ngân hàng và quĩ tương hỗ, còn có quỹ hưu trí, hiệp hội tín dụng, công ty
bảo hiểm, thậm chí cả những kẻ vay tiền lừa đảo ở địa phương. Các định chế này khác nhau
về nhiều mặt. Tuy nhiên, khi nghiên cứu vai trò vĩ mô của hệ thống tài chính, chúng ta cần
chú ý tới sự giống nhau c
ủa chúng, chứ không phải tìm kiếm sự khác biệt giữa chúng. Tất cả
các định chế đều có chung một mục đích - chuyển nguồn lực từ người tiết kiệm tới người đi
vay.
Kiểm tra nhanh: Cổ phiếu là gì? Trái phiếu là gì? Chúng khác nhau như thế nào? Chúng
giống nhau ở những điểm nào?
TIẾT KIỆM VÀ ĐẦU TƯ TRONG CÁC TÀI KHOẢN THU NHẬP QUỐC DÂN
Các sự kiện diễn ra trong hệ
thống tài chính là vấn đề chính yếu để hiểu sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Như chúng ta đã thấy, các định chế cấu thành hệ thống này - thị trường trái
phiếu, thị trường cổ phiếu, ngân hàng và quỹ tương hỗ - có vai trò gắn tiết kiệm với đầu tư
trong nền kinh tế. Và như chúng ta đã thấy trong chương trước, tiết kiệm và đầu tư là nhân tố
quan tr
ọng quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn và mức sống. Do đó, các nhà kinh tế vĩ mô
phải hiểu các thị trường tài chính vận hành như thế nào cũng như các sự kiện và chính sách
tác động đến chúng.
Để làm quen với việc phân tích thị trường tài chính, trong phần này chúng ta thảo luận về các
biến số vĩ mô phản ánh hoạt động của các thị trường này. Ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh cơ
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 7
sở hạch toán, chứ không phải hành vi của thị trường. Hạch toán là khái niệm dùng để chỉ
cách thức định nghĩa và cộng các con số lại với nhau. Nhà kế toán tư nhân có thể giúp một cá
nhân cộng các khoản thu nhập và chi tiêu của anh ta lại với nhau. Nhà kế toán thu nhập quốc
dân cũng làm như vậy, nhưng với toàn bộ nền kinh tế. Tài khoản thu nhập quốc dân bao gồm
GDP và nhiều đại lượng thố
ng kê liên quan.
Trong các nguyên tắc hạch toán thu nhập quốc dân có nhiều đồng nhất thức quan trọng. Nên
nhớ rằng đồng nhất thức là một phương trình luôn luôn đúng do cách chúng ta định nghĩa các
biến số trong phương trình. Hãy nhớ rằng các đồng nhất thức có ý nghĩa quan trọng vì nó mô
tả mối quan hệ giữa các biến với nhau. Bây giờ chúng ta hãy xem xét một số đồng nhất thức
nói lên vai trò vĩ mô của thị trường tài chính.
Một số
đồng nhất thức quan trọng
Hãy nhớ lại rằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) vừa là tổng thu nhập trong nền kinh tế,
vừa là tổng chi tiêu về các hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế đó. GDP (ký hiệu là Y) bao
gồm bốn thành tố: tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ (G) và xuất khẩu ròng
(NX). Chúng ta có thể viết:
Y = C + I + G + NX
Phương trình trên là một đồng nh
ất thức, vì mỗi đô la chi tiêu nằm ở vế trái cũng nằm ở một
trong bốn thành tố ở vế phải. Do cách định nghĩa và tính toán các biến số, phương trình trên
phải luôn luôn đúng.
Trong chương này, chúng ta đơn giản hóa phân tích bằng cách giả định rằng nền kinh tế mà
chúng ta xem xét là nền kinh tế đóng. Nền kinh tế đóng là nền kinh tế không có quan hệ với
các nền kinh tế khác. Nền kinh tế đóng không buôn bán v
ới nước ngoài, cũng không tham gia
vào hoạt động vay hoặc cho vay quốc tế. Tất nhiên, các nền kinh tế trên thực tế là nền kinh tế
mở - nghĩa là chúng có giao lưu với nước ngoài. (Chúng ta sẽ nghiên cứu kinh tế vĩ mô của
nền kinh tế mở ở phần sau của cuốn sách). Tuy nhiên, giả định nền kinh tế đóng là cách đơn
giản hóa có lợi mà nhờ đó chúng ta có thể rút ra một số bài học đúng với t
ất cả các nền kinh
tế. Ngoài ra, giả định này hoàn toàn đúng với nền kinh tế thế giới (bởi vì hiện nay chưa có
thương mại giữa các hành tinh).
Vì nền kinh tế đóng không tham gia vào thương mại quốc tế, nên xuất và nhập khẩu đúng
bằng 0. Bởi vậy, xuất khẩu ròng (NX) cũng bằng 0. Trong tình huống này, chúng ta có thể
viết:
Y = C + I + G
Phương trình trên nói rằng GDP là tổng c
ủa tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu của chính phủ. Mỗi
đơn vị sản lượng bán ra của nền kinh tế được tiêu dùng, đầu tư hoặc được chính phủ mua.
Để thấy điều mà đồng nhất thức trên cho chúng ta biết về thị trường tài chính, chúng ta trừ C
và G ra khỏi hai vế của phương trình này. Chúng ta nhận được:
Y - C - G = I
Vế trái (Y - C - G) của phương trình trên là tổ
ng thu nhập của nền kinh tế còn lại sau khi đã
thanh toán cho các khoản tiêu dùng của mọi người và mua hàng của chính phủ. Phần còn lại
được gọi là tiết kiệm quốc dân, hay đơn giản là tiết kiệm, và ký hiệu là S. Thay Y - C - G bằng
S vào vế trái, chúng ta có thể viết lại phương trình trên dưới dạng:
S = I
Phương trình này nói rằng tiết kiệm bằng đầu tư.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 8
Để hiểu rõ hơn ý nghĩa của tiết kiệm quốc dân, chúng ta biến đổi phương trình trên thêm một
chút nữa. Gọi T là tổng số tiền thu được từ thuế của chính phủ sau khi đã trừ các khoản trợ
cấp cho hộ gia đình hoặc chuyển giao thu nhập (ví dụ bảo hiểm xã hội hay phúc lợi). Chúng
ta có thể viết tiết kiệm quốc dân theo hai cách:
S = Y - C - G
hoặc:
S = (Y - T -
C) + (T - G)
Hai phương trình này tương đương nhau, nhưng phương trình thứ hai đã chia tiết kiệm quốc
dân thành hai phần: tiết kiệm tư nhân (Y - T - C) và tiết kiệm của chính phủ (T - G).
Chúng ta hãy xem xét hai thành phần này. Tiết kiệm tư nhân là phần thu nhập của hộ gia đình
còn lại sau khi đã nộp thuế cho chính phủ và tiêu dùng. Vì thu nhập của hộ gia đình là Y, thuế
phải nộp là T
và tiêu dùng của họ là C, nên tiết kiệm tư nhân bằng Y - T - C. Tiết kiệm của
chính phủ là phần thu nhập từ thuế của chính phủ còn lại sau khi đã chi tiêu để mua hàng hóa
và dịch vụ. Chính phủ nhận được thuế T dưới dạng thu nhập từ thuế và chi tiêu G để mua
hàng hóa và dịch vụ. Nếu T lớn hơn G, chính phủ có thặng dư ngân sách
vì thu nhiều hơn
chi. Phần thặng dư ngân sách này chính là tiết kiệm của chính phủ. Nếu chính phủ chi nhiều
hơn thu, G sẽ lớn hơn T. Trong trường hợp này, chính phủ có thâm hụt ngân sách, và tiết
kiệm của chính phủ là một số âm.
Bây giờ chúng ta hãy xem các đồng nhất thức hạch toán này gắn với thị trường tài chính
như thế nào. Phương trình S = I nói lên một thực tế quan trọng: Đố
i với nền kinh tế nói
chung, tiết kiệm nhất định phải bằng đầu tư. Nhưng thực tế này làm nảy sinh một số câu
hỏi quan trọng: Cơ chế nào nằm sau đồng nhất thức này? Điều gì phối hợp những người
quyết định cần tiết kiệm bao nhiêu với những người quyết định nên đầu tư bao nhiêu?
Câu trả lời là: hệ thống tài chính. Thị
trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, ngân hàng,
quĩ tương hỗ, cũng như các thị trường và định chế tài chính khác đứng giữa hai vế của
phương trình S = I. Nó thu nhận các khoản tiết kiệm quốc dân và chuyển chúng cho các
nhà đầu tư.
Ý nghĩa của tiết kiệm và đầu tư
Thuật ngữ tiết kiệm và đầu tư đôi khi vẫn bị hiểu lầ
m. Hầu hết mọi người sử dụng những
thuật ngữ này một cách tự nhiên và đôi khi thay thế chúng cho nhau. Ngược lại, các nhà kinh
tế vĩ mô sử dụng hai thuật ngữ này một cách thận trọng và với hàm ý khác nhau.
Chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Giả sử Larry chi tiêu ít hơn khoản tiền anh ta kiếm được, và
quyết định gửi số tiền chưa tiêu vào ngân hàng hoặc đem ra mua trái phiếu hay cổ phiếu công
ty. Vì Larry chi tiêu ít hơn thu nhập, nên anh ta làm tă
ng tiết kiệm quốc dân. Larry có thể cho
rằng anh ta đang "đầu tư" số tiền của mình, nhưng nhà kinh tế vĩ mô gọi hành động của Larry
là tiết kiệm, chứ không phải đầu tư.
Trong ngôn ngữ của kinh tế vĩ mô, đầu tư nghĩa là mua thêm tư bản, ví dụ máy móc hay nhà
xưởng. Khi Meo vay tiền ngân hàng để xây một ngôi nhà mới, anh làm tăng đầu tư của quốc
gia. Tương tự như thế, khi công ty Curly bán cổ
phiếu và sử dụng số tiền thu được để xây nhà
máy mới, nó cũng làm tăng đầu tư của quốc gia.
Mặc dù đồng nhất thức S = I nói lên sự cân bằng giữa đầu tư và tiết kiệm trong tổng thể
nền kinh tế, nhưng nó không thể áp dụng cho một hộ gia đình hay một doanh nghiệp riêng
lẻ. Tiết kiệm của Larry có thể lớn hơn đầu tư c
ủa anh ta và anh ta gửi phần còn lại vào
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 9
ngân hàng. Tiết kiệm của Meo có thể ít hơn đầu tư của anh ta, nên anh ta phải vay tiền từ
ngân hàng. Ngân hàng và các định chế tài chính cho phép cá nhân duy trì sự chênh lệch
giữa đầu tư và tiết kiệm của họ, đồng thời làm cho tiết kiệm của người này trở thành
nguồn tài trợ cho đầu tư của người kia.
Kiểm tra nhanh: Hãy định nghĩa tiết kiệm tư nhân, tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệ
m quốc
dân và đầu tư. Chúng có quan hệ với nhau như thế nào?
THỊ TRƯỜNG VỐN VAY
Sau khi thảo luận về một số định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế Mỹ và vai trò
kinh tế vĩ mô của chúng, chúng ta đã có thể xây dựng một mô hình về thị trường tài chính.
Mục tiêu của chúng ta khi xây dựng mô hình này là lý giải xem thị trường tài chính gắn tiết
kiệm với đầu tư của nền kinh tế nh
ư thế nào. Mô hình này cũng đem lại cho chúng ta một
công cụ để phân tích ảnh hưởng của các chính sách mà chính phủ thực hiện tới tiết kiệm và
đầu tư.
Để đơn giản hóa vấn đề, chúng ta hãy giả định rằng nền kinh tế chỉ có một thị trường tài
chính, gọi là thị trường vốn vay. Mọi người tiết kiệm đều đến thị trường này để gửi tiền tiế
t
kiệm của họ và mọi người đi vay đều đến thị trường này để vay tiền. Như vậy, thuật ngữ vốn
vay được dùng để chỉ mọi khoản thu nhập mà dân cư đã quyết định tiết kiệm và cho vay, chứ
không phải để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân của họ. Trong thị trường vốn vay chỉ có
một lãi suất; nó vừa là lợi tức của tiết kiệm, v
ừa là chi phí của tiền vay.
Dĩ nhiên giả định chỉ có một thị trường tài chính duy nhất không hoàn toàn thực tế. Như
chúng ta đã thấy, nền kinh tế có nhiều loại định chế tài chính. Nhưng như chúng ta đã thảo
luận trong chương 2, nghệ thuật thiết lập mô hình kinh tế là đơn giản hóa thế giới để lý giải
nó. Để phục vụ cho mục đích hiện tại, chúng ta bỏ qua sự đ
a dạng của các định chế tài chính
và giả định nền kinh tế chỉ có một thị trường tài chính duy nhất.
Cung và cầu về vốn vay
Giống như các thị trường khác trong nền kinh tế, thị trường vốn vay bị chi phối bởi cung và
cầu. Do đó để hiểu thị trường vốn vay vận hành như thế nào, trước hết chúng ta xem xét
nguồn gốc của cung và cầu trên thị trường này.
Cung về v
ốn vay bắt nguồn từ những người có một số thu nhập dôi ra mà họ muốn tiết kiệm
và cho vay. Họ có thể cho vay trực tiếp, chẳng hạn khi một hộ gia đình mua trái phiếu của
một công ty, hoặc gián tiếp, ví dụ một hộ gia đình gửi tiền vào ngân hàng, sau đó ngân hàng
sử dụng khoản tiền đó để cho vay lại. Trong cả hai trường hợp, tiết kiệm là nguồn cung về
vố
n vay.
Cầu về vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư.
Nhu cầu này bao gồm các hộ gia đình mua nhà theo hình thức trả góp. Nó cũng bao gồm các
doanh nghiệp vay tiền để mua thiết bị mới hay xây dựng nhà máy. Trong cả hai trường hợp,
đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 10
Hình 1. Thị trường vốn vay. Lãi suất trong nền kinh tế điều chỉnh để cân bằng cung và cầu
về vốn vay. Cung về vốn vay bắt nguồn từ tiết kiệm quốc dân, bao gồm cả tiết kiệm tư nhân
và tiết kiệm của chính phủ. Cầu về vốn vay bắt nguồn từ các doanh nghiệp và hộ gia đình
muốn vay tiền để đầu t
ư. Ở đây lãi suất cân bằng là 5%, còn cả lượng cung và lượng cầu về
vốn vay đều bằng 1.200 tỷ đô la Mỹ.
Lãi suất là giá của một khoản vay. Nó biểu thị lượng tiền mà người vay trả cho khoản vay và
lượng tiền mà người cho vay nhận được từ khoản tiết kiệm của họ. Bởi vì lãi suất cao làm
cho việc vay tiền trở nên tốn kém hơn, nên lượng cầu về vố
n vay giảm khi lãi suất tăng.
Tương tự, lãi suất cao làm cho tiết kiệm trở nên hấp dẫn hơn, lượng cung về vốn vay tăng khi
lãi suất tăng. Nói cách khác, đường cầu về vốn vay dốc xuống và đường cung về vốn vay dốc
lên.
Hình 1 biểu thị mức lãi suất làm cân bằng cung và cầu về vốn vay. Tại trạng thái cân bằng, lãi
suất bằng 5%, lượng cung và lượng cầu về vốn vay đều bằng 1.200 t
ỷ đô la Mỹ. Quá trình
điều chỉnh của lãi suất đến mức cân bằng xảy ra vì những lý do thông thường. Nếu lãi suất
thấp hơn mức cân bằng, lượng cung về vốn vay nhỏ hơn lượng cầu về vốn vay. Sự thiếu hụt
vốn vay khuyến khích những người cho vay tăng lãi suất. Ngược lại, nếu lãi suất cao hơn
mức cân bằng, lượng cung về vốn vay cao hơn l
ượng cầu về vốn vay. Khi những người cho
vay cạnh tranh nhau để giành giật số người đi vay có hạn, lãi suất sẽ giảm. Bằng cách này, lãi
suất tiến dần đến mức cân bằng mà tại đó cung và cầu về vốn vay đúng bằng nhau.
Hãy lưu ý là các nhà kinh tế phân biệt giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế. Lãi suất
danh nghĩa là lãi suất mà chúng ta thường sử dụng để ghi chép, đó chính là thu nhập bằ
ng
tiền từ tiết kiệm và chi phí bằng tiền trả cho các khoản vay. Lãi suất thực tế là lãi suất danh
nghĩa đã loại trừ lạm phát; nó bằng lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát. Vì lạm phát làm
tiền giảm giá trị theo thời gian, nên lãi suất thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập thực tế
từ tiết kiệm và chi phí thực tế từ hoạt động vay tiền. Do đó, cung và cầu v
ề vốn vay phụ thuộc
vào lãi suất thực tế, chứ không phải lãi suất danh nghĩa và trạng thái cân bằng trong hình 1
cần được hiểu là quyết định lãi suất thực tế trong nền kinh tế. Khi nói đến lãi suất trong phần
còn lại của chương này, chúng ta cần nhớ là đang đề cập tới lãi suất thực tế.
Mô hình cung và cầu về vốn vay cho thấy thị trường tài chính hoạt động hoàn toàn tương tự
nh
ư các thị trường khác trong nền kinh tế. Ví dụ trong thị trường sữa, giá sữa điều chỉnh sao
cho lượng cung và lượng cầu về sữa bằng nhau. Bằng cách này, bàn tay vô hình phối hợp
Vốn vay (ngh
ì
n tỷ đồng)
0
Lãi suất
Cầu
Cung
5%
1200
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 11
hành vi của nông dân cung ứng sữa và những người uống sữa. Một khi đã nhận thức được
rằng tiết kiệm biểu thị cung về vốn vay và đầu tư biểu thị cầu, chúng ta cũng hiểu được bàn
tay vô hình phối hợp tiết kiệm và đầu tư như thế nào. Khi lãi suất điều chỉnh để cân bằng
cung và cầu trên thị trường vốn vay, nó phối hợp hành vi của nhữ
ng người muốn tiết kiệm
(người cung về vốn vay) và hành vi của những người muốn đầu tư (người có cầu về vốn vay).
Bây giờ chúng ta có thể sử dụng phân tích này về thị trường vốn vay để phân tích ảnh hưởng
của các chính sách khác nhau mà chính phủ thực hiện đối với tiết kiệm và đầu tư trong nền
kinh tế. Vì mô hình này bao gồm cung và cầu trong một thị trường cụ thể, nên chúng ta phân
tích mỗ
i chính sách theo ba bước như đã thảo luận trong chương 4. Một là, chúng ta phải xác
định xem chính sách ảnh hưởng đến đường cung hay đường cầu. Hai là, chúng ta phải xác
định hướng dịch chuyển. Ba là, chúng ta sử dụng đồ thị cung - cầu để biểu thị sự thay đổi
trạng thái cân bằng.
Chính sách 1: Khuyến khích tiết kiệm
Các gia đình Mỹ có xu hướng tiết kiệm phần nhỏ hơn trong thu nhập của họ nếu so với gia
đ
ình ở nhiều nước khác, chẳng hạn Nhật và Đức. Mặc dù lý do dẫn đến sự khác nhau giữa
các nước này không rõ ràng, nhiều nhà hoạch định chính sách Mỹ coi mức tiết kiệm thấp của
Mỹ là vấn đề lớn. Một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học trong chương 1 là: Mức sống
của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nó. Và như chúng ta
đ
ã thảo luận trong chương trước, tiết kiệm là một yếu tố quan trọng quyết định năng suất dài
hạn của một quốc gia. Nếu Mỹ có cách nào đó để tăng tỷ lệ tiết kiệm lên mức phổ biến ở các
nước khác, tốc độ tăng trưởng GDP sẽ tăng và theo thời gian, công dân Mỹ có mức sống cao
hơn.
Một nguyên lý khác trong Mười Nguyên lý của kinh tế
học là: mọi người phản ứng với các
kích thích. Nhiều nhà kinh tế đã sử dụng nguyên lý này để chỉ ra rằng tỷ lệ tiết kiệm thấp ở
Mỹ một phần là do luật thuế không khuyến khích tiết kiệm. Chính phủ liên bang Mỹ cũng
như chính quyền nhiều bang thu thuế thu nhập bao gồm cả thu nhập từ lãi suất và cổ tức. Để
thấy ảnh hưởng củ
a chính sách này, chúng ta hãy xét một người 25 tuổi tiết kiệm 1000 đô la
và mua một trái phiếu 30 năm với lãi suất 9%. Nếu không có thuế, anh ta sẽ nhận được khoản
tiền là 13.268 đô la vào tuổi 55. Song nếu chính phủ đánh thuế thu nhập từ tiền lãi với tỷ lệ
33%, thì lãi suất sau thuế chỉ còn 6%. Trong trường hợp này, người đó chỉ nhận được 5.743
sau 30 năm. Việc đánh thuế vào thu nhập từ tiền lãi làm giảm
đáng kể thu nhập tương lai từ
các khoản tiết kiệm hiện tại và do đó làm giảm động cơ tiết kiệm của mọi người.
Trước tình hình này, nhiều nhà kinh tế và lập pháp đã đề nghị thay đổi luật thuế nhằm khuyến
khích tiết kiệm. Ví dụ, năm 1995 nghị sĩ Bill Archer của bang Texas trở thành chủ tịch của
Uỷ ban hùng mạnh về nhà ở và sinh hoạt, ông đề nghị
thay thuế thu nhập hiện nay bằng thuế
tiêu dùng. Với thuế tiêu dùng, thu nhập từ tiết kiệm không bị đánh thuế cho đến khi tiết kiệm
được rút ra để chi tiêu; thực chất, thuế tiêu dùng giống thuế doanh thu mà hiện tại nhiều bang
đang sử dụng để tạo nguồn thu. Một đề nghị nhẹ nhàng hơn là mở rộng đối tượng miễn thuế,
chẳng hạn đối với tài khoản h
ưu trí cá nhân, để cho phép người dân giảm nghĩa vụ nộp thuế
từ tiết kiệm. Chúng ta có thể thấy ảnh hưởng của chính sách như vậy đến thị trường vốn vay
trong hình 2.
Trước hết, chính sách này tác động vào đường nào? Bởi vì sự thay đổi thuế ảnh hưởng đến
động cơ tiết kiệm của các hộ gia đình tại mức lãi suất bất kỳ cho trước, nên nó tác động tớ
i
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 12
lượng cung về vốn vay tại mỗi mức lãi suất. Như vậy, đường cung về vốn vay dịch chuyển.
Đường cầu về vốn vay không thay đổi vị trí vì sự thay đổi của thuế không ảnh hưởng trực
tiếp đến lượng cầu về vốn vay của các nhà đầu tư tại bất kỳ mức lãi suất nào.
Hai là, đường cung sẽ dịch chuyển theo hướng nào? Vì tiết kiệm bị
đánh thuế ít hơn so với
luật thuế hiện tại, các hộ gia đình tăng tiết kiệm của họ bằng cách tiêu dùng phần nhỏ hơn
trong thu nhập của mình. Họ dùng phần tiết kiệm tăng thêm để gửi vào ngân hàng hay mua
thêm trái phiếu. Cung về vốn vay tăng và đường cung dịch chuyển sang phải, từ S
1
tới S
2
như
trong hình 2.
Cuối cùng, chúng ta có thể so sánh các trạng thái cân bằng cũ và mới. Trong hình 2, sự gia
tăng cung về vốn vay làm giảm lãi suất từ 5% xuống 4%. Lãi suất thấp hơn làm tăng lượng
cầu về vốn vay từ 1.200 tỷ đô la lên 1.600 tỷ đô la. Nghĩa là, sự dịch chuyển của đường cung
làm cho điểm cân bằng thị trường di chuyển dọc theo đường cầu. Với chi phí vay tiền thấp
hơn, các hộ
gia đình và doanh nghiệp có động cơ vay nhiều hơn để tài trợ cho mức đầu tư lớn
hơn. Như vậy, nếu sự thay đổi của luật thuế nhằm khuyến khích mọi người tiết kiệm nhiều
hơn, kết quả sẽ là lãi suất thấp hơn và mức đầu tư cao hơn.
Hình 2. Sự gia tăng cung về vốn vay. Sự thay
đổi trong luật thuế nhằm khuyến khích người
Mỹ tiết kiệm nhiều hơn làm dịch chuyển đường cung về vốn vay sang phải từ S
1
đến S
2
. Kết
quả là lãi suất cân bằng giảm và lãi suất thấp hơn kích thích đầu tư. Trong trường hợp của
chúng ta, lãi suất cân bằng giảm từ 5% xuống 4%, trong khi lượng vốn được tiết kiệm và đầu
tư cân bằng tăng từ 1.200 lên 1.600 tỷ đô la Mỹ.
Mặc dù phân tích này về ảnh hưởng của sự gia tăng tiết kiệm được các nhà kinh tế thừa
nhận rộng rãi, nhưng người ta chư
a nhất trí nên thay đổi luật thuế như thế nào. Nhiều nhà
kinh tế đề nghị cải cách thuế nhằm làm tăng tiết kiệm với mục đích thúc đẩy đầu tư và
tăng trưởng. Song các nhà kinh tế khác lại hoài nghi về ảnh hưởng của các chính sách như
vậy đến tiết kiệm quốc dân. Sự hoài nghi này còn có nguyên nhân ở niềm tin của họ vào
tính công bằng của các chương trình cải cách. Họ lập luận r
ằng trong nhiều trường hợp,
sự thay đổi thuế chủ yếu có lợi cho nhóm người giàu - những người ít cần giảm thuế nhất.
Chúng ta sẽ giới thiệu cuộc tranh luận này đầy đủ hơn trong chương cuối cùng của cuốn
sách.
Chính sách 2: Khuyến khích đầu tư
3. và tăng lượng vốn vay cân bằng.
S
2
1. Chính sách khuy
ế
n khích
tiết kiệm làm tăng cung v
ề
vốn vay
Lượng v
ố
n vay
(tỷ đô la)
0
Lãi suất
5%
Cung, S
1
1.200
Cầu
1 600
4%
2.
làm giảm lãi
suất cân
bằng
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 13
Giả sử Quốc hội thông qua đạo luật mới cho phép giảm thuế đối với những doanh nghiệp xây
dựng nhà máy mới. Về cơ bản, đây chính là điều mà Quốc hội làm khi đưa ra các chế định về
giảm thuế đầu tư. Chúng ta hãy xem xét ảnh hưởng của chính sách như vậy đến thị trường
vốn vay, như được minh họa trong hình 3.
Hình 3. Sự gia tăng cầu về v
ốn vay. Nếu chính sách giảm thuế đầu tư có tác dụng kích
thích các doanh nghiệp Mỹ đầu tư nhiều hơn, thì cầu về vốn vay sẽ tăng. Kết quả là, lãi suất
cân bằng tăng và lãi suất cao hơn kích thích tiết kiệm. Ở đây, khi đường cầu dịch chuyển từ
D
1
đến D
2
, lãi suất cân bằng tăng từ 5% lên 6% và lượng vốn vay cân bằng được tiết kiệm và
đầu tư tăng từ 1.200 tỷ đô la lên 1.400 tỷ đô la.
Trước hết, đạo luật đó ảnh hưởng đến đường cung hay đường cầu? Vì biện pháp miễn thuế có
tác dụng khuyến khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư bản mới, nên nó
làm thay đổi đầu tư tại mọi mứ
c lãi suất và do vậy làm thay đổi cầu về vốn vay. Ngược lại, vì
biện pháp giảm thuế không ảnh hưởng đến mức tiết kiệm của hộ gia đình tại mọi mức lãi
suất, nên nó không ảnh hưởng đến cung về vốn vay.
Hai là, đường cầu dịch chuyển theo hướng nào? Bởi vì các doanh nghiệp có động cơ đầu tư
nhiều hơn tại mọi mức lãi suất, nên lượng cầu v
ề vốn vay cao hơn tại mọi mức lãi suất. Như
vậy, đường cầu về vốn vay dịch chuyển sang phải, từ D
1
đến D
2
như trong hình 3.
Ba là, trạng thái cân bằng sẽ thay đổi như thế nào? Trong hình 3, việc tăng cầu về vốn vay
làm tăng lãi suất từ 5% lên 6% và đến lượt nó, lãi suất cao hơn làm tăng lượng cung về
vốn vay từ 1.200 tỷ lên 1.400 tỷ đô la, khi hộ gia đình phản ứng lại mức lãi suất cao hơn
bằng cách tăng tiết kiệm. Sự thay đổi này trong hành vi của hộ gia đình được biểu thị
bằ
ng sự di chuyển dọc theo đường cung. Như vậy, nếu sự thay đổi luật thuế có tác dụng
khuyến khích đầu tư, lãi suất sẽ tăng và tiết kiệm cũng tăng.
Chính sách 3: Thâm hụt và thặng dư ngân sách của chính phủ
Suốt những năm 1980 và 1990, một trong những vấn đề chính sách nổi cộm nhất là qui
mô thâm hụt ngân sách chính phủ. Như bạn đã biết, thâm hụt ngân sách xảy ra khi chi
tiêu củ
a chính phủ vượt quá nguồn thu từ thuế. Chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách
bằng cách vay tiền trên thị trường trái phiếu và sự tích tụ các khoản vay trong quá khứ
được gọi là nợ chính phủ. Vào những năm 1980 và 1990, chính phủ liên bang Mỹ có thâm
hụt ngân sách lớn, gây ra sự gia tăng rất nhanh của nợ chính phủ. Do đó, nhiều cuộc tranh
Vốn vay
(tỷ đô la)
0
Lãi suất
5%
1.200
Cung
Cầu, D
1
1. Chính sách miễn
thuế đầu tư làm tăng
cầu về vốn vay
D
2
6%
2. đi
ề
u này
làm tăng lãi
suất
1.400
3. và tăng lượng vốn vay cân bằng.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 14
luận đã hướng vào ảnh hưởng của các khoản thâm hụt đó đối với sự phân bổ nguồn lực
khan hiếm của nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Chúng ta có thể phân tích ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách đến thị trường vốn vay theo ba
bước như được minh họa trong hình 4. Một là, đường nào dịch chuyển khi thâm hụt ngân
sách tăng? Như các bạn đã biết tiết kiệm qu
ốc dân - cung về vốn vay - bao gồm tiết kiệm tư
nhân và tiết kiệm của chính phủ. Sự thay đổi trong thâm hụt ngân sách chính phủ biểu thị sự
thay đổi trong tiết kiệm của chính phủ và do đó là cung về vốn vay. Bởi vì thâm hụt ngân
sách không ảnh hưởng đến lượng vốn mà các hộ gia đình và doanh nghiệp muốn vay tại mọi
mức lãi suất, nên nó không làm thay đổi cầu về vốn vay.
Hai là, đường cung dịch chuyển theo h
ướng nào? Khi chính phủ có thâm hụt ngân sách, tiết
kiệm chính phủ mang giá trị âm và điều này làm giảm tiết kiệm quốc dân. Nói cách khác, khi
chính phủ vay tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, nó làm giảm cung về vốn vay để tài trợ
cho các dự án đầu tư của hộ gia đình và doanh nghiệp. Như vậy, thâm hụt ngân sách làm dịch
chuyển đường cung về vốn vay sang trái, từ S
1
đến S
2
như được minh họa trong hình 4.
Hình 4. Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách chính phủ. Khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn
thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân. Cung về vốn
vay giảm và lãi suất cân bằng tăng. Như vậy, khi chính phủ vay tiền để tài trợ thâm hụt
ngân sách, nó lấn át doanh nghiệp và hộ gia đình trong việc vay tiền để tài trợ đầu tư. Ở
đây, khi đường cung d
ịch chuyển từ S
1
đến S
2
, lãi suất cân bằng tăng từ 5% lên 6% trong
khi lượng vốn cân bằng được tiết kiệm và đầu tư giảm từ 1.200 tỷ đô la xuống 800 tỷ đô la.
Ba là, chúng ta có thể so sánh trạng thái cân bằng cũ và mới. Trong hình 4, khi thâm hụt
ngân sách làm giảm cung về vốn vay, lãi suất tăng từ 5% lên 6%. Khi đó lãi suất cao hơn
làm thay đổi hành vi của các hộ gia đình và doanh nghiệp tham gia vào thị trường vốn vay.
Cụ thể, nhiều người có nhu cầu vay vố
n thất vọng về mức lãi suất cao hơn. Số gia đình mua
nhà mới và số doanh nghiệp xây dựng thêm nhà máy mới giảm. Sự giảm sút đầu tư do
chính phủ vay tiền gọi là sự lấn át đầu tư và được minh họa trong hình 4 bằng sự di chuyển
dọc đường cầu từ 1.200 tỷ đô la xuống còn 800 tỷ đô la. Nghĩa là, khi chính phủ vay để tài
trợ cho thâm hụt ngân sách, nó lấn át khu vực tư nhân trong việc vay ti
ền để tài trợ cho các
dự án đầu tư.
S
2
1. Thâm hụt ngân
sách làm giảm cung
về vốn vay
Vốn vay (Tỷ đô la)
0
Lãi suất
1.200
Cung, S
1
Cầu
5%
800
3.
và làm giảm lượng vốn vay cân bằng
2.
làm tăng lãi
suất cân bằng
6%
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 15
Như vậy, bài học cơ bản nhất về thâm hụt ngân sách rút ra trực tiếp từ những ảnh hưởng của
nó đến cung và cầu vốn vay là: Khi chính phủ làm giảm tiết kiệm quốc dân do bị thâm hụt
ngân sách, thì lãi suất tăng và đầu tư giảm. Bởi vì đầu tư rất quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế dài hạn, nên thâm hụt ngân sách làm giảm tốc độ tăng trưởng của nề
n kinh tế.
Thặng dư ngân sách chính phủ có tác động hoàn toàn ngược lại so với trường hợp thâm hụt
ngân sách. Khi thu thuế nhiều hơn so với chi tiêu, chính phủ tiết kiệm phần chênh lệch bằng
cách cắt giảm số nợ tồn đọng. Mức thặng dư ngân sách, hay tiết kiệm chính phủ, làm tăng tiết
kiệm quốc dân. Như vậy, thặng dư ngân sách làm tăng cung về vốn vay, làm giảm lãi suất và
khuyến khích đầ
u tư. Đến lượt nó, mức đầu tư cao hơn hàm ý tích luỹ tư bản nhiều hơn và
tăng trưởng kinh tế cao hơn.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: CUỘC TRANH LUẬN VỀ THẶNG DƯ NGÂN SÁCH
Phân tích của chúng ta cho thấy trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, thặng dư ngân
sách có lợi cho tăng trưởng kinh tế hơn so với thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, việc hoạch
định chính sách không phải là công việc đơn giản. Một ví dụ tốt là thực tế vào cuối những
năm 1990, khi chính phủ Mỹ có thặng dư ngân sách và người ta tranh luận rất nhiều về việc
nên làm gì với số thặng dư ngân sách đó.
Nhiều nhà hoạch
định chính sách ủng hộ việc duy trì thặng ngân sách, chứ không thủ tiêu nó
bằng cách tăng chi tiêu hay cắt giảm thuế. Kết luận của họ dựa trên phân tích mà chúng ta đã
biết: Việc sử dụng phần thặng dư để hoàn trả một số khoản nợ chính phủ sẽ khuyến khích đầu
tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế.
Các nhà hoạch định chính sách khác lại có quan điểm khác. Một số cho rằng thặ
ng dư cần
được sử dụng để tăng chi tiêu của chính phủ vào cơ sở hạ tầng và giáo dục, bởi vì theo họ
lợi suất của đầu tư công cộng vào các lĩnh vực đó lớn hơn lợi suất bình quân của đầu tư tư
nhân. Một số lại cho rằng cần cắt giảm thuế. Họ lập luận rằng thuế suất thấp hơn làm bi
ến
dạng quá trình ra quyết định ít hơn và làm cho quá trình phân bổ nguồn lực có hiệu quả
hơn; đồng thời họ cũng cảnh báo rằng nếu không cắt giảm thuế như vậy, Quốc hội sẽ có xu
hướng chi tiêu phần thặng dư vào các dự án địa phương đem lại cho họ nhiều phiếu bầu,
nhưng chẳng có mấy giá trị.
Khi cuốn sách này đưa đi xuất bản, thì cu
ộc tranh luận về thặng dư ngân sách vẫn còn dữ dội.
Vẫn còn chỗ để những con người đáng kính bất đồng với nhau. Chính sách đúng phụ thuộc
vào quan điểm của bạn về giá trị của đầu tư tư nhân và đầu tư công cộng, mức độ biến dạng
do thuế gây ra và mức độ tin cậy của quá trình chính trị.
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: LỊCH SỬ NỢ C
ỦA CHÍNH PHỦ MỸ
Chính phủ Mỹ đã mắc nợ đến mức nào? Lời giải đáp cho câu hỏi này thay đổi đáng kể theo
thời gian. Hình 5 biểu thị mức nợ của chính phủ liên bang Mỹ tính bằng phần trăm GDP của
Mỹ. Nó cho thấy nợ chính phủ đã biến động từ mức bằng 0 năm 1836 lên đến 107% GDP
vào năm 1945. Những năm vừa qua, nợ chính phủ
bằng khoảng 50% GDP.
Biểu hiện của tỷ lệ nợ/GDP là một tiêu chuẩn để đánh giá điều gì đang xảy ra với tài chính
của chính phủ. Bởi vì GDP là một thước đo tốt về cơ sở thuế của chính phủ, nên tỷ lệ
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 16
nợ/GDP giảm dần cho thấy rằng nợ của chính phủ giảm tương đối so với khả năng của chính
phủ trong việc tạo nguồn thu từ thuế. Điều này hàm ý rằng theo một nghĩa nào đó, chính phủ
đang chi tiêu trong phạm vi cho phép. Ngược lại, tỷ lệ nợ/GDP ngày càng tăng hàm ý nợ của
chính phủ đang tăng lên so với khả năng tạo nguồn thu từ thu
ế. Người ta thường cho rằng
chính sách tài khóa - tức chi tiêu và thuế của chính phủ - không thể duy trì mãi ở những mức
hiện hành.
Hình 5. Nợ của chính phủ Mỹ. Hình này cho thấy nợ của chính phủ liên bang Mỹ tính bằng
phần trăm GDP đã thay đổi đáng kể theo thời gian. Nó đạt mức cao nhất trong Thế chiến II
do chi tiêu tăng quá mạnh, sau đó giảm dần trong suốt những năm 1950 và 1960. Nhưng vào
đầu những n
ăm 1980, nó lại bắt đầu tăng khi chính quyền Rigân cắt giảm thuế mà không cắt
giảm chi tiêu ở mức tương ứng. Sau đó nó dần dần ổn định và giảm chút ít vào cuối những
năm 1990.
Trong suốt chiều dài lịch sử, nguyên nhân cơ bản nhất gây ra sự dao động của nợ chính
phủ là chiến tranh. Khi chiến tranh xảy ra, chi tiêu của chính phủ cho quốc phòng tăng lên
đáng kể để tuyển quân và mua thiết bị
quân sự. Thuế thường cũng tăng, nhưng ít hơn so
với chi tiêu. Kết quả là thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ tăng. Khi chiến tranh kết
thúc, chi tiêu của chính phủ giảm và tỷ lệ nợ/GDP cũng bắt đầu giảm.
Có hai nguyên nhân để chúng ta tin rằng tài trợ cho chiến tranh bằng nợ là một chính sách
phù hợp. Một là, nó cho phép chính phủ ổn định thuế suất theo thời gian. Nếu không tài
trợ bằng vay nợ, thuế suấ
t sẽ tăng mạnh trong thời chiến và như chúng ta đã thấy trong
chương 8, điều này làm giảm đáng kể hiệu quả kinh tế. Hai là, việc tài trợ cho chiến tranh
bằng vay nợ cho phép chuyển một phần chiến phí sang các thế hệ tương lai, những người
có nghĩa vụ thanh toán nợ chính phủ. Đây là sự phân bổ công bằng gánh nặng của thuế,
bởi vì các thế hệ tương lai được lợi khi th
ế hệ hiện tại đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân
tộc trước sự xâm lược của các thế lực thù địch bên ngoài.
Việc nợ của chính phủ Mỹ đã tăng mạnh trong những năm 1980 hoàn toàn không liên
quan đến chiến tranh. Khi tổng thống Rigân thắng cử vào năm 1981, ông đã cam kết cắt
giảm thuế và thu hẹp hoạt động của chính phủ. Tuy nhiên, ông nhận thấy đ
iều kiện chính
trị làm cho việc cắt giảm chi tiêu của chính phủ khó hơn cắt giảm thuế. Do đó, nước Mỹ
bước vào thời kỳ dài có thâm hụt ngân sách lớn không chỉ trong hai nhiệm kỳ của tổng
thống Rigân, mà còn tiếp diễn nhiều năm sau đó. Kết quả là, nợ chính phủ đã tăng từ 26%
GDP năm 1980 lên 50% vào năm 1993.
0
2
0
4
0
6
0
8
0
10
1950 1955 1960 1965 1970 1975 1980 1985 1990 2000 1995
Nợ của chính phủ Mỹ
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 17
Như chúng ta đã thảo luận, thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, đầu tư và
tăng trưởng kinh tế dài hạn, và đây chính là lý do giải thích tại sao sự gia tăng nợ chính
phủ vào những năm 1980 đã gây ra cuộc tranh luận gay gắt giữa các nhà kinh tế. Các
nhà hoạch định chính sách của cả hai đảng Cộng hoà và Dân chủ đều nhất trí với luận
điểm này và coi thâm hụt ngân sách kéo dài là một vấn đề chính sách nghiêm trọng. Khi
Bill Clinton chuy
ển đến làm việc tại Nhà Trắng vào năm 1993, thì cắt giảm thâm hụt
ngân sách là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của ông. Tương tự, khi
đảng Cộng hoà kiểm soát Quốc hội vào năm 1995, họ đặc biệt quan tâm đến việc cắt
giảm thâm hụt trong chương trình nghị sự của mình. Tất cả những nỗ lực này đã làm
giảm đáng kể qui mô thâm hụt ngân sách của chính phủ và cuối cùng ngân sách đã có
một chút thặng dư. Kết quả là vào cuối những năm 1990, tỷ lệ nợ/GDP một lần nữa lại
giảm.
Kiểm tra nhanh: Nếu người Mỹ thực thi “lối sống gấp”, thì điều này ảnh hưởng như thế nào
đến tiết kiệm, đầu tư và lãi suất?
KẾT LUẬN
Pôlôniút khuyên con trai ông ta trong vở Hamlet của Shakespear là "hãy đừng vay tiền của ai
và cũng không cho ai vay tiền". Nếu mọi người đều làm theo lời khuyên đó, thì chúng ta
không cần nghiên cứu chương này.
Một số nhà kinh tế có thể đồng tình với quan điểm của Pôlôniút. Tuy nhiên trong n
ền kinh
tế của chúng ta, người ta thường đi vay và cho vay, và nhìn chung là có lợi. Một ngày nào
đó bạn có thể vay tiền để kinh doanh hay mua nhà ở mới. Và mọi người có thể cho bạn vay
tiền với hy vọng lãi do bạn trả cho phép họ có được cuộc sống sung túc hơn lúc nghỉ hưu.
Hệ thống tài chính điều phối tất cả các hoạt động đi vay và cho vay này.
Theo nhiều cách, thị trường tài chính giống các thị trường khác trong nền kinh tế
. Giá của
vốn vay - tức lãi suất - là do cung và cầu quyết định, hoàn toàn giống như các loại giá cả khác
trong nền kinh tế. Và chúng ta có thể phân tích sự thay đổi của cung và cầu trên thị trường tài
chính giống như đã làm trên các thị trường khác. Một trong Mười Nguyên lý của Kinh tế học
giới thiệu ở chương 1 là: thị trường thường là một phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh
tế
. Nguyên lý này cũng đúng đối với thị trường tài chính. Khi thị trường tài chính làm cho
cung và cầu về vốn vay cân bằng nhau, nó góp phần phân bổ nguồn lực khan hiếm trong nền
kinh tế cho các mục đích sử dụng theo cách có hiệu quả nhất.
Song theo một nghĩa nào đó, đây là dạng thị trường đặc biệt. Không giống hầu hết các thị
trường khác, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc gắn hiện tại v
ới tương
lai. Những người tiết kiệm cung ứng vốn vay bởi vì họ muốn chuyển một phần thu nhập
hiện tại thành sức mua trong tương lai. Những người đi vay có cầu về vốn vay bởi vì họ
muốn đầu tư hôm nay để có tư bản nhiều hơn trong tương lai và sản xuất được nhiều hàng
hóa và dịch vụ hơn. Như vậy, thị trường tài chính hoạt độ
ng tốt có vai trò đặc biệt quan
trọng không chỉ đối với thế hệ hiện tại, mà cả với các thế hệ tương lai, những người thừa
hưởng nhiều ích lợi từ những hành vi đó.
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 12 – Tiết kiệm, đầu tư và hệ thống tài chính 18
TÓM TẮT
Hệ thống tài chính của Mỹ bao gồm nhiều loại định chế tài chính, như thị trường trái phiếu,
thị trường cổ phiếu, ngân hàng và quĩ tương hỗ. Tất cả các định chế tài chính này hoạt động
để chuyển nguồn lực mà các hộ gia đình muốn tiết kiệm từ thu nhập của mình cho các hộ gia
đình và doanh nghiệp muốn vay tiền.
Các đồng nhất thức hạch toán thu nhậ
p quốc dân phản ánh một số mối quan hệ quan trọng
giữa các biến kinh tế vĩ mô. Cụ thể là đối với một nền kinh tế đóng, tiết kiệm quốc dân bằng
đầu tư. Các định chế tài chính là cơ chế mà nhờ đó tiết kiệm của người này ăn khớp với đầu
tư của người khác.
Lãi suất được qui định bởi cung và cầu về vố
n vay. Cung về vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia
đình muốn tiết kiệm một phần thu nhập của họ và cho vay chúng. Cầu về vốn vay bắt nguồn
từ các hộ gia đình và doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư. Để phân tích xem một chính
sách hay sự kiện nào đó tác động đến lãi suất như thế nào, người ta cần phải xét xem nó tác
động như thế nào tới cung và cầu về vốn vay.
Tiết kiệm quốc dân bằng tiết kiệm tư nhân cộng với tiết kiệm của chính phủ. Thâm hụt ngân
sách chính phủ hàm ý tiết kiệm của chính phủ mang dấu âm, do đó làm giảm tiết kiệm quốc
dân và cung về vốn vay để tài trợ cho đầu tư. Khi thâm hụt ngân sách chính phủ lấn át đầu tư,
nó làm giảm tốc độ tăng năng suất và GDP.
CÁC THUẬT NGỮ CƠ BẢN
Cổ
phiếu
Hệ thống tài chính
Quĩ tương hỗ
Sự lấn át
Thâm hụt ngân sách
Thặng dư ngân sách
Thị trường tài chính
Thị trường vốn vay
Tiết kiệm của chính phủ
Tiết kiệm quốc dân
Tiết kiệm tư nhân
Trái phiếu
Trung gian tài chính
Stock
Financial system
Mutual Fund
Crowding out
Budget deficit
Budget surplus
Financial market
Market for loanable funds
Public saving
National saving
Private saving
Bond
Financial intermediaries