Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

bài giảng kinh tế học chương 15 lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.41 KB, 13 trang )




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 1



CHƯƠNG 15
LẠM PHÁT

Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng lớn đến các mặt
của đời sống kinh tế - xã hội. Một ví dụ hết sức nổi bật về lạm phát là thời kỳ siêu lạm phát
mà nước Đức đã trải qua vào đầu những năm 1920. Người ta cho rằng, siêu lạm phát đã phá
huỷ toàn bộ hệ thống chính ph
ủ dân chủ mà nước Đức đã nỗ lực xây dựng sau thất bại trong
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và tạo cơ sở cho sự tăng cường quyền lực của Đảng
phát xít do Hitler đứng đầu. Một loạt các nước Mỹ La-tinh đã lâm vào lạm phát rất cao trong
những năm 1980 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982. Việt Nam

ng như phần lớn các nước trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế
hoach hoá tập trung sang kinh tế thị trường đều trải qua lạm phát cao.
Trong phần đầu của chương chúng ta sẽ đề cập đến định nghĩa và cách đo lường lạm phát.
Sau đó, chúng ta sẽ giới thiệu các lý thuyết giải thích nguyên nhân gây ra lạm phát. Một lý
thuyết về lạm phát chỉ thực sự có í nghĩa, khi nó giải thích
được thực tế là lạm phát thường
xuyên biến động và liên kết được sự tăng/giảm lạm phát với sự tăng/giảm của các biến độc
lập hay các nhân tố quyết định lạm phát. Trong phần cuối của chương, chúng ta sẽ bàn về
những tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội và mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp.
I. Khái niệm và đo lường
1. Khái niệm


Lạm phát đượ
c định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất
thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ,
mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá của một số hàng
hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được
định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong bối cảnh
lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói
một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều tiền hơn để
mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định.
Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thự
c tế, tức là sức mua
của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong thời
kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá
nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay
không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá h
ơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn tốc
độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia
tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc
xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở l
ại
mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.
Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do
đó có thể gây ra lạm phát. Chúng ta sẽ xét một tình huống như được mô tả trong Bảng 9-1.



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 2




Trong mỗi trường hợp, chúng ta giả thiết chỉ có một cú sốc xuất hiện vào thời kỳ 3 mà trước
đó mức giá được ổn định ở mức 100. Trong trường hợp thứ nhất, mức giá tăng 100% trong
thời kỳ 3, sau đó giảm 50% trong thời kỳ 4 và lại ổn định trong các thời kỳ tiếp theo. Như
vậy, từ thời kỳ 4 giá cả trở lại mức ban đầu giống nh
ư trước khi cú sốc tác động đến nền kinh
tế. Trong trường hợp thứ hai, mức giá tăng 100% trong thời kỳ 3, sau đó ổn định trong các
thời kỳ tiếp theo. Vấn đề trở nên phức tạp hơn trong trường hợp thứ ba, khi mức giá tăng
50% trong thời kỳ 3, sau đó tăng chậm lại trong các thời kỳ tiếp theo do mọi người điều chỉnh
một phần theo sai số dự
báo về lạm phát. Trong trường hợp này mức giá chung tăng liên tục
và gây ra lạm phát kéo dài nhưng giảm dần theo thời gian.
Bảng 9-1 Tác động của một cú sốc đến tỷ lệ lạm phát
Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3
Thời kỳ
Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát Mức giá Lạm phát
1 100 100 100
2 100 0 100 0 100 0
3 200 100 200 100 150 50
4 100 -50 200 0 175 6,7
5 100 0 200 0 187,50 7,1
6 100 0 200 0 193,75 3,3
Trong thực tế, việc phân biệt được các sự kiện chỉ xảy ra một lần nhưng có ảnh hưởng kéo
dài với sự gia tăng liên tục được lặp lại của mức giá trong mỗi thời kỳ có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ thường chỉ điều chỉnh
chính sách trước các cú sốc kéo dài, còn các mất cân đối tạm thời thườ
ng để thị trường tự giải
quyết.

Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục giảm.
Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng.
2. Đo lường lạm phát
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà
thống kê kinh tế sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức
giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau:
π
t
=
%100
P
PP
1t
1tt
×




Trong đó:
π
t
: tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
P
t
: mức giá của thời kỳ t
P
t-1
: mức giá của thời kỳ trước đó

Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ
số giá nào để phản ánh mức giá. Như chúng ta đã biết từ Chương 2 là người ta thường sử
dụng chỉ số điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung.
Tuy nhiên, nếu mục tiêu là xác
định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 3



giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát
trên toàn thế giới đều được tính trên cơ sở CPI.
3. Phân loại lạm phát
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Việc
phân loại lạm phát theo tính chất sẽ được đề cập khi bàn về tác động của lạm phát, còn trong
mục này chúng ta sẽ phân loại lạm phát theo mứ
c độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này
các nhà kinh tế thường phân biêt 3 loại lạm phát: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu
lạm phát.
Lạm phát vừa phải. Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung
có thể dự đoán trước được vì tương đối ổn định. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở
mức một con số th
ường được coi là vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh
tế trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi người vẫn sẵn
sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính bằng tiền vì họ tin rằng
giá và chi phí của hàng hóa mà họ mua và bán sẽ không đi chệch quá xa.
Lạm phát phi mã. Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm th

ường được gọi là
lạm phát phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường đều phải đổi mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực
hiện cải cách.
Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh
tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị mất giá r
ất nhanh, cho nên mọi người chỉ
giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ
hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm
phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
Siêu lạm phát. Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu
lạm phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50%
trở lên. Trong khi lạm phát 50% một tháng có thể không thực sự gây ấn tượng, nhưng nếu tỷ
lệ lạm phát này được duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm sẽ lên tới khoảng
13.000 phần trăm. Theo định nghĩa này, cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm
phát. Một trường hợp được nghi nhận chi ti
ết về siêu lạm phát là nước Đức sau Chiến tranh
Thế giới thứ Nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mác vào tháng 1 năm 1921 lên đến
70.000.000 mác chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng với tốc độ
tương tự. Từ tháng Giêng năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên
10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế
Đức đến mức
nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và
cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện
trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng
xuất hiện trong thời gian sau chiế
n tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về
ngân sách chính phủ. Vào những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ
của thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước

Mỹ La-tinh.



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 4



Đặc điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều này
thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa, một
khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể kiểm soát
được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với GDP,
làm tăng thâm h
ụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều
này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng chứng lịch sử, dường như
là thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng từ 10-12 % của
GDP sẽ gây ra siêu lạm phát
1
.
II. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
Điều gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến, song các nhà kinh tế vẫn còn những bất
đồng. Có nhiều lý thuyết giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát mà dưới đây chúng ta sẽ
giới thiệu những lý thuyết chính.
1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá
mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách
định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây
ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này
nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực

sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao
chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lầ
n lượt xem xét các thành tố của tổng
cầu.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và
đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của
những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát
cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan củ
a các nhà đầu tư làm
tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương
trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư
nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt
giảm các chương trình chi tiêu công cộ
ng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức
giá sẽ giảm.









1
Sachs, J.D. and Larrain, F. (1993), Macroeconomics in the Global Economy, Harvester Wheatsheaf, New
York.
E
0

AD
0
AD
1
AS
0

P

P
2


P
1

P
0

E
2

AD
2

Y
0
Y*Y
2
Y




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 5




Hình 9-1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác động tới
lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung
ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và
luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá hối đ
oái cố định,
vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng
2
. Tình hình ngược
lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế
giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái.
Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, lạm phát do cầu kéo xuất hiện khi có sự dịch chuyển sang
bên phải của đường tổng cầu. Như minh họa trong hình 9-1, sự gia tăng của một thành tố nào
đó của tổng cầu sẽ làm dịch chuyển
đường tổng cầu sang bên phải. Do đường tổng cung dốc
lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất nghiệp thấp hơn,
nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là
vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều
nguồn lự
c chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD
0

đến AD
1
:
lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do
cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng
cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD
1
đến AD
2
. Khi
đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng
lên rất ít.
2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh
tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển
lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi bi
ến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều
biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng.
Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy
thoái (stagflation).
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập
khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm
cách tă
ng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ
tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng
tiền tệ.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có
thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại l
ệ phí bắt buộc)
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so

sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận
định rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng


2
Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, khi dòng vốn từ nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng cung về ngoại tệ. Để
ngăn cản đồng nội tệ lên giá, ngân hàng trung ương cần tung nội tệ ra để mua ngoại tệ. Kết quả là dự trữ ngoại tệ
của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời cung tiền cũng tăng.



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 6



nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.








Hình 9-2 Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công
nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế
thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biế
n động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát

trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá
mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm
phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng hợp,
làm cho lạm phát có thể
tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua các chính
sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình của nhiều
nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
3. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu
hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ
l
ạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước.
Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán
trong tương lai.







Hình 9-3 Lạm phát ỳ
Hình 9-3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu
cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ nh
ư nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên,
trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.


AD

0

AS
1
AS
0

P


P
1

P
0

E
0

E
1

Y
1
Y*
Y
AD
2

AD

1

AD
0
E
2

AS
2

AS
1

AS
0
P


P
2

P
1

P
0

E
0


E
1


Y*
Y



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 7



NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: Lạm phát tăng tốc trong năm 2004
Sau một thời gian dài được kiềm chế ở mức thấp, lạm phát đã bùng lên trong năm 2004. Điều
này được coi là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng năm 2004 tăng 9,5%, trong đó, chỉ số giá nhóm lương
thực-thực phẩm tăng cao nhất: 15,6% (giá hàng l
ương thực tăng 14,3%, giá thực phẩm tăng
17,1%); nhóm dược phẩm y tế tăng 9,1%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,4%; các
nhóm hàng khác tăng từ 2,2 đến 5,9%. Đây là mức tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và cũng
là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra (5%). Câu hỏi
đặt ra là tại sao lạm phát ở Việt Nam trong năm 2004 lại tăng đột biến như v
ậy?
Trước hết, cần phải khẳng định rằng diễn biến lạm phát toàn cầu đã có hưởng quan trọng đến
động thái lạm phát ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Cùng với quá trình hội nhập ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, những biến động của giá cả trên thị trường
thế giới đã có tác động ngày càng rõ nét đến thị trường trong nước. Thực t
ế cho thấy lạm phát

thấp trong giai đoạn 1999 – 2003 không phải do chính sách tài khoá và tiền tệ quá thắt chặt
hay do nền kinh tế tăng trưởng quá cao gây ra tình trạng dư thừa hàng hoá, mà nguyên nhân
chủ yếu là do xu hướng giảm giá toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á.
Còn trong năm 2004, bất chấp nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, trong khi các chính sách tài
khoá và tiền tệ không có sự điều chỉnh đáng kể so với các năm trước, nhưng l
ạm phát vẫn
tăng tốc.
Thực ra lạm phát cao trong năm 2004 không phải là hiện tượng riêng có của Việt Nam mà là
hiện tượng kinh tế mang tính toàn cầu. Hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới đều đối mặt
với mức lạm phát cao hơn trong năm 2004
3
. Lạm phát cao ở nước ngoài đã lan truyền vào
nền kinh tế Việt Nam qua cả hai kênh: xuất khẩu và nhập khẩu. Với kênh xuất khẩu, theo tính
toán của Bộ Thương mại tính trung bình giá hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 đã tăng
8% so với năm 2003. Sự gia tăng giá xuất khẩu làm tăng giá thu mua trong nước và góp phần
làm tăng mức giá chung trên thị trường nội địa. Đồng thời, khi thu nhập của các nhà sản xu
ất
và kinh doanh hàng xuất khẩu được cải thiện, họ sẽ mua nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn, điều
này tiếp tục làm tổng cầu tăng. Kết quả là cả mức giá và sản lượng đều tăng lên mức cao hơn.
Đây là một lý do quan trọng làm cho nền kinh tế trong năm 2004 vừa tăng trưởng nhanh hơn,
vừa trải qua lạm phát cao hơn. Còn với kênh nhập khẩu, giá của nhiều v
ật tư quan trọng nhập
khẩu như: phôi thép, hạt nhựa, hoá chất sản xuất tân dược, xăng dầu, khi đốt hoá lỏng, phân
bón hoá học, clinker, phụ liệu ngành dệt may đã tăng mạnh trong năm 2004. Các doanh
nghiệp đều tìm cách đưa chi phí cao hơn vào giá cả và do đó đẩy giá nhiều mặt hàng sản xuất
trong nước tăng lên.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nước châu Á khác cũng chịu những tác động khách quan bên
ngoài tương tự như
Việt Nam, nhưng mức lạm phát của họ chỉ thấp hơn 5%. Do vậy, lạm
phát cao ở Việt Nam trong năm 2004 nhất định phải có sự đóng góp quan trọng của các nhân

tố bên trong mà dưới đây là những lực lượng cơ bản.
Thứ nhất, dịch cúm gà lan rộng 57 tỉnh, thành phố, làm cho nước ta thiệt hại hơn 1.300 tỷ
đồng, làm giảm 1% tăng trưởng GDP, làm chết 1/10 đàn gia cầm, đẩy hàng nghìn h
ộ chăn


3
Lạm phát ở Trung Quốc là 3,4% (năm 2003: 1,2%), Đài Loan là 1,5% (năm 2003: -0,3%), Malaixia là 1,5%
(năm 2003: 1,1%), và Thái Lan là 2,8% (năm 2003: 1,8%).



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 8



nuôi đến bờ vực phá sản. Do giá thịt gà tăng cao cùng với những quan ngại về sự an toàn sử
dụng thực phẩm, người dân đã chuyển mạnh sang sử dụng các loại thực phẩm thay thế (thịt
lợn, thịt bò, cá, ). Nhưng do nguồn cung về các thực phẩm này ít co dãn trong ngắn hạn, nên
giá của chúng đã tăng mạnh trong năm 2004. Số liệu thống kê cho thấy giá thực phẩm cao là
nguồn chủ y
ếu gây ra tình trạng lạm phát cao bất thường trong năm 2004
4
.
Thứ hai, Chính phủ vẫn tiếp tục thực hiện nỗ lực kích cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong năm 2004. Nhìn chung, tốc độ tăng của tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng và
chi tiêu Chính phủ trong năm 2004 được duy trì ở mức cao tương tự như trong giai đoạn
1999-2003
5

. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các nguồn lực nhìn chung đã
được sử dụng gần đến giới hạn trên. Trong bối cảnh đó nếu không có các khoản đầu tư mới
để tăng năng lực sản xuất, sự gia tăng tổng cầu sẽ chủ yếu làm tăng mức giá mà ít ảnh hưởng
đến sản lượng và việc làm. Điều này cũng cảnh báo về tiềm n
ăng mà chính sách kích cầu có
thể tiếp tục khai thác trong thời gian tới.
Thứ ba, tâm lý tăng lương và đưa tiền mới có mệnh giá lớn vào lưu hành cũng tạo yếu tố tâm
lý bất lợi làm tăng tốc độ chu chuyển của tiền và do đó làm tăng giá cả trên thị trường trong
nước.
Thứ tư, việc điều hành quản lý của Nhà nước còn chưa theo kịp yêu cầu, nhất là trong hệ
th
ống phân phối lưu thông (điển hình là thép và thuốc chữa bệnh) đã tạo kẽ hở cho các nhà
cung ứng thông đồng găm giữ hàng để đầu cơ tăng giá.


4. Tiền tệ và lạm phát
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện tượng lạm
phát. Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng lạm phát về cơ bản là hiện
tượng tiền tệ. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác, ví dụ như Friedman đã đi xa hơn và đề ra một
hình thái mạnh hơn của ch
ủ nghĩa tiền tệ. Họ đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa
cung tiền và lạm phát: "Lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ và nó chỉ có
thể xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng"
6
.
Thực ra, kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát gây ra bởi
sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung, và nguyên nhân của sự dư cầu này là do có quá nhiều
tiền trong lưu thông. Nếu cách giải thích này đúng về mặt lịch sử, thì nó khẳng định rằng lạm
phát gây ra bởi sức ép từ phía cầu, chứ không phải từ phía cung. Thứ hai, các nhà ti
ền tệ giả

thiết rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải
ngược lại là giá cả tăng lên làm tăng lượng tiền cung ứng. Để hiểu mối quan hệ đó chúng ta


4
Trong cơ cấu của giỏ hàng tính CPI hiện tại, nhóm hàng thực phẩm chiếm 27%. Trong năm 2004, giá của
nhóm hàng này tăng 17,1%, đóp góp 53% vào sự gia tăng của CPI.
5
Tốc độ tăng cung ứng tiền tệ và dư nợ tín dụng lần lượt là 25% và 30,4% năm 2002; 21% và 27% năm 2003;
22% và 25% năm 2004. Chi ngân sách năm 2004 tăng 19% so với năm 2003 và vượt dự toán 12%. Tuy nhiên,
do thu ngân sách tăng 20,2% so với năm 2003, nên thâm hụt ngân sách vẫn được kiềm chế dưới 5% so với GDP.
6
Friedman, M. (1970) 'The Counter-Revolution in Monetary Theory', Institute of Economic Affair, Accasioanl
Paper, No 33.




NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 9



phải xem xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị trường cân bằng, và bắt đầu từ vị trí cân
bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự mất cân
bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập trạng thái cân bằng, một phần của số tiền dư thừa
được dùng
để mua hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, vì số lượng hàng hoá và dịch vụ được qui
định bởi các nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế, do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường
hàng hoá. Điều này, đến lượt nó sẽ gây áp lực làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân

bằng mới trên thị trường hàng hoá. Trong mô hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng
tiền tệ sẽ dẫn đến s
ự dịch chuyển sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá do
đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn.
Điểm khởi đầu cho lý thuyết số lượng là quan sát cho thấy dân cư giữ tiền chủ yếu để mua
hàng hóa và dịch vụ. Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm và P là
giá của một đơn vị sản lượng đ
iển hình, khi đó số đồng được trao đổi trong năm bằng P.Y. Vì
tiền trao tay khi giao dịch, chúng ta có thể sử dụng thông tin này để dự đoán số lần mà một tờ
giấy bạc điển hình trao tay trong năm. Nếu chúng ta ký hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số
lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển hình được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong
một n
ăm, và M là cung tiền, thì số đơn vị tiền tệ trao đổi trong năm cần phải bằng M.V. Do
vậy, chúng ta có đồng nhất thức:
M.V = P.Y
Đó là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng (M)
và GDP danh nghĩa (P.Y). Phương trình số lượng cho thấy sự gia tăng lượng tiền trong nền
kinh tế phải được phản ánh ở
một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải
tăng, hoặc tốc độ chu chuyển tiền tệ phải giảm.
Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi đó, lạm phát (P
tăng) chỉ có thể xảy ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh hơn sản lượng (Y): tốc độ tăng
cung tiền càng cao thì t
ỷ lệ lạm phát càng cao (khi các nhân tố khác không thay đổi). Đồng
thời, các biện pháp chính sách mà một nước cần thực hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm
tốc độ cung ứng tiền tệ. Như vậy, theo quan điểm này, chính sách tiền tệ sẽ là chính sách then
chốt nhằm kiểm soát lạm phát; và chính sách tài khoá cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát
bởi vì thâm hụt ngân sách của chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền.
-50
0

50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
1987
1989
1991
1993
1995
19
9
7
1999
2001
2003
2005
2007
Lạm phat M2

Hình 9-4. Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng tiền hàng năm ở Việt Nam, 1987-2007



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC

Chương 15 – Lạm phát 10



Hình 9-4 sử dụng số liệu tăng tiền và tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam từ năm 1987 đến
năm 2007. Số liệu này xác minh mối tương quan dương giữa tỷ lệ tăng tiền và tỷ lệ lạm phát.
Những năm Việt Nam có tỷ lệ tăng cung tiền cao có xu hướng đi kèm với lạm phát cao, còn
những năm có tỷ lệ tỷ lệ tăng cung tiền thấ
p có xu hướng đi kèm với lạm phát thấp.


III. Những tổn thất xã hội của lạm phát
Tại sao người dân lại không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa luôn tăng cùng với
mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên không thay đổi. Song điều này thường khó xảy ra.
Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát gây ra cho xã hội.
Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát
được dự tính trước và lạm phát không được dự
tính trước.
1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra đúng như dự tính từ
trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản vay, tiền lương cũng như
hợp đồng về các biến danh nghĩa khác nhìn chung được điều chỉnh thích ứng với tố
c độ trượt
giá. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất gì cho xã hội?
Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người giữ tiền và
được gọi là thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng phân biệt thuế lạm phát với
thuế đúc tiền. Như chúng ta đã biết thâm hụt ngân sách xảy ra khi chính phủ chi nhiều hơn
thu nhập từ
thuế. Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng đi vay hoặc in tiền. Tương tự như
thuế, tiền mới phát hành cũng là một nguồn thu của chính phủ bởi vì chi phí phát hành tiền

mới rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử dụng số tiền đó để mua hàng hóa và dịch vụ. Thu
nhập mà chính phủ nhận được bằng cách in tiền được gọi là thuế đúc tiền. Tuy nhiên, một số

người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ. Thực ra, khi in tiền mới, chính phủ đã
đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng nhiều hơn thường gây ra lạm phát và do đó
làm giảm giá trị của những đồng tiền đang lưu hành.
Có một điều chúng ta cần nhận thức đúng là bản thân thuế không phải là chi phí đối với xã
hội, nó chỉ là s
ự chuyển giao nguồn lực từ các hộ gia đình sang cho chính phủ. Nhưng kinh tế
học vi mô lại chỉ ra rằng hầu hết các loại thuế đều làm cho mọi người có động cơ thay đổi
hành vi để tránh thuế và gây biến dạng các kích thích này làm cho xã hội với tư cách một
tổng thể bị tổn thất. Giống như các loại thuế khác, thuế lạm phát cũng gây ra tổn thất cho xã
hội bởi vì mọ
i người lãng phí nguồn lực khan hiếm khi tìm cách tránh thuế. Lạm phát làm
tăng lãi suất danh nghĩa, và do đó làm giảm cầu tiền. Nếu bình quân mọi người giữ ít tiền
hơn, họ cần đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền. Sự bất tiện của việc giữ ít tiền hơn
tạo nên chi phí mòn giày, vì việc đến ngân hàng nhiều hơn làm cho “giày” của bạn chóng
mòn hơn. Tuy nhiên, không nên hiểu khoản chi phí này theo nghĩa đen của nó: chi phí thực t
ế
mà bạn bỏ ra để giữ ít tiền hơn không chỉ ở chỗ giày của bạn nhanh mòn, mà là thời gian và
sự tiện lợi mà bạn phải hy sinh khi giữ ít tiền hơn – cái mà bạn không phải trả khi không có
lạm phát.



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 11




Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Đó là những chi phí phát sinh do các doanh nghiệp
có thể phải gửi các catalô mới cho khách hàng, phân phối bảng giá mới cho nhân viên bán
hàng của mình, các hiệu ăn cũng phải thay đổi thực đơn mới, khi giá cả thay đổi. Việc này
đôi khi cũng tốn kém.
Thứ ba, lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong giá tương đối. Giả sử
một doanh nghiệp có phát hành catalô chỉ thay đổi giá cả m
ỗi năm một lần do phát sinh chi
phí liên quan đến việc in và phân phối catalô, và giả sử các doanh nghiệp khác thay đổi giá cả
thường xuyên hơn. Nếu trong năm các doanh nghiệp khác tăng giá bán cho các sản phẩm của
họ, thì giá tương đối của sản phẩm do doanh nghiệp phát hành catalô sẽ giảm. Như chúng ta
đã biết kinh tế vi mô nhấn mạnh đến vai trò của giá tương đối trong việc phân bổ các nguồn
lực một cách có hiệu quả. Trong chừng mự
c mà lạm phát gây ra sự thay đổi giá cả không đều
và do đó làm méo mó giá tương đối, thì sức mạnh của thị trường tự do sẽ bị hạn chế. Sự phân
bổ sai lệch này cũng cần được hiểu là nội dung truyền đạt thông tin của giá cả bị suy yếu.
Thứ tư, lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân thường trái với ý định
của những người làm lu
ật. Trên thực tế, luật thuế thường không tính đến tác động của lạm
phát, và do vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng, mọi người sẽ phải nộp mức thuế cao hơn, ngay
cả khi thu nhập thực tế của họ không thay đổi và do vậy làm giảm thu nhập khả dụng của họ.
Điều này không khuyến khích mọi người làm nhiều, làm tốt và làm hiệu quả.
Lạm phát có ảnh hưởng chủ y
ếu đến hai loại thuế đánh vào thu nhập từ tiết kiệm:
 Tiền lãi vốn là thu nhập có được từ việc bán một tài sản cao hơn giá mua. Lãi vốn danh
nghĩa là đối tượng chịu thuế. Giả sử bạn mua một cổ phiếu giá 20 đồng và bán nó với giá 50
đồng. Nếu mức giá tăng gấp đôi trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó, thì bạn chỉ thu được một
khoản lãi về vốn thực tế là 10 đồng (bởi vì thực ra bạn phải bán cổ phiếu với giá 40 đồng thì
mới hòa vốn), nhưng bạn phải đóng thuế trên khoản thu nhập danh nghĩa là 30 đồng, vì luật
thuế không tính đến lạm phát.
 Tiền lãi danh nghĩa cũng bị đánh thuế, cho dù một phần tiền lãi danh nghĩa đơn thuần chỉ

để bù đắp lạm phát. Khi chính phủ đánh thu
ế theo một tỷ lệ phần trăm cố định của tiền lãi
danh nghĩa, thì tiền lãi suất thực tế sau thuế vẫn giảm trong điều kiện có lạm phát ngay cả khi
lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh hoàn toàn cùng với tỷ lệ lạm phát. Chẳng hạn, chính phủ
đánh thuế 30% thu nhập từ tiền lãi. Nếu ban đầu, lãi suất danh nghĩa là 10% và tỷ lệ lạm phát
là 5%, thì lãi suất th
ực tế trước thuế là 5% và lãi suất thực tế sau thuế là 2% [=(1-0,3)×10% -
5%]. Sau đó, giả sử tỷ lệ lạm phát tăng lên 10% và lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh hoàn
toàn theo lạm phát lên 15% để duy trì lãi suất thực tế trước thuế không thay đổi. Tuy nhiên,
bây giờ lãi suất thực tế sau thuế giảm xuống chỉ còn 0,5 % [=(1-0,3)×15% - 10%].
Bởi vì thuế đánh trên lãi vốn danh nghĩa và tiền lãi danh nghĩa, cho nên lạm phát làm giảm lợ
i
tức thực tế sau thuế cho các khoản tiết kiệm và vì vậy lạm phát không khuyến khích tiết kiệm
và không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách đưa lạm
phát ra khỏi hệ thống thuế hoặc áp dụng chỉ số trượt giá trong hệ thống thuế sao cho thuế chỉ
còn đánh vào thu nhập thực tế.
Cuối cùng, lạm phát gây ra sự nhầ
m lẫn và bất tiện. Hãy tưởng tượng rằng chúng ta tiến hành
thăm dò ý kiến và đặt ra cho mọi người câu hỏi sau: “Hiện tại 1 m bằng 100 cm. Theo bạn,
năm tới 1 m nên có độ dài bao nhiêu?” Giả sử mọi người đều trả lời một cách nghiêm túc, thì



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 12



chắn chắn họ sẽ nói với chúng ta là độ dài của 1 m năm tới vẫn nên bằng 100 cm. Cách làm
khác chỉ phức tạp hoá vấn đề một cách không cần thiết.

Phát hiện này có gì liên quan đến lạm phát? Chúng ta đã biết tiền là đơn vị hạnh toán, tức tiền
là cái mà chúng ta sử dụng để niêm yết giá và ghi các khoản nợ. Nói cách khác, tiền là thước
đo mà chúng ta sử dụng để đo lường các giao dịch kinh tế. Nhiệm vụ củ
a Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam tương tự công việc của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường ở chỗ là đảm bảo tính
tin cậy của đơn vị đo lường được sử dụng phổ biến. Khi Ngân hàng Nhà nước tăng cung ứng
tiền tệ và gây ra lạm phát, nó làm méo mó giá trị thực tế của đơn vị hạnh toán.
Thật là khó có thể tính toán được tác hại của sự nhầm lẫn và bất ti
ện gắn với lạm phát. Trên
đây chúng ta đã thảo luận việc các luật thuế đo lường sai thu nhập như thế nào khi nền kinh tế
có lạm phát. Điều đó cũng giống như các nhà kế toán tính sai các khoản thu nhập của doanh
nghiệp khi giá cả thay đổi theo thời gian. Vì lạm phát làm cho đồng tiền có sức mua không
giống nhau vào các thời điểm khác nhau, nên việc tính toán lợi nhuận của công ty - phần
chênh lệch giữa các khoả
n thu và chi phí - sẽ phức tạp hơn khi nền kinh tế có lạm phát. Do
vậy, trong một chừng mực nào đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó phân biệt giữa các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và kết quả là
cản trở thị trường tài chính trong trong việc phân bổ một cách hiệu quả các khoản tiết kiệm
của nền kinh tế cho các dự án đầu tư.
2. Đối vớ
i lạm phát không được dự tính trước
Chúng ta đã thảo luận về những tác hại của lạm phát xảy ra ngay cả khi lạm phát ổn định và
được dự tính trước. Tuy nhiên, lạm phát có một tác hại nữa khi nó xảy ra bất ngờ không đúng
như dự tính từ trước của các cá nhân trong nền kinh tế. Lạm phát không được dự tính trước
dẫn đến sự phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội không theo nỗ l
ực, cống
hiến và nhu cầu của họ.
Xét các hợp đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui định mức lãi suất danh
nghĩa dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát thực tế khác với tỷ lệ lạm phát dự
tính thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất thực tế dự tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm

phát thực t
ế lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính, thì lãi suất thực tế thực hiện thấp hơn lãi suất thực
tế dự tính. Điều đó có nghĩa người tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong khi
người đi vay trả vốn gốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự tính ban
đầu. Điều đó hàm ý có sự phân phố
i lại của cải từ người cho vay sang người đi vay. Người đi
vay sẽ được lợi, còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối lại diễn ra theo chiều hướng
ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự tính.
Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người nhận thu nhập danh
nghĩa cố
định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều chỉnh theo lạm phát. Công nhân
và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa trong các hợp đồng lao động
dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm phát. Do vậy, công nhân sẽ bị tổn thất khi lạm phát cao hơn
mức dự kiến, ngược lại các doanh nghiệp lại bị tổn thất khi lạm phát thấp hơn mức dự ki
ến.
Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động mạnh và khó dự đoán trước, gây ra



NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 15 – Lạm phát 13



những bất trắc và rủi ro cho các hoạt động tiết kiệm và đầu tư dài hạn, và do đó không có lợi
cho tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy ổn định lạm phát ở mức thấp là một mục tiêu quan
trọng của điều tiết vĩ mô.





Tóm tắt
 Lạm phát xảy ra khi mức giá chung tăng lên. Ngược lại, nền kinh tế có giảm phát khi mức
giá chung giảm xuống. Ngày nay, chúng ta tính toán lạm phát bằ
ng cách sử dụng chỉ số
giá. Hai chỉ số giá được sử dụng rộng rãi để đo lường mức giá chung là chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP.
 Lạm phát trong mỗi thời kỳ có xu hướng dao động xung quanh một mức nhất định, đó
chính là tỷ lệ lạm phát ỳ hay tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đó là tỷ lệ lạm phát mà mọi người
đã
dự đoán trước và được đưa vào trong các hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác.
 Trong thực tế, các cú sốc cung và cầu thường xuyên tác động đến nền kinh tế, đẩy nền
kinh tế trệch khỏi thế cân bằng dài hạn và lạm phát trệch khỏi mức dự tính. Lạm phát do
cầu kéo xuất hiện là do tổng cầu tăng lên, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượ
t quá
mức tự nhiên. Lạm phát do chi phí đẩy là một hiện tượng mới của các nền kinh tế hiện
đại, xuất hiện là do chi phí sản xuất tăng và kết quả là nền kinh tế trải qua đồng thời cả
lạm phát và suy thoái.
 Trong dài hạn lạm phát về cơ bản là hiện tượng tiền tệ: lạm phát chỉ xảy ra khi lượng tiền
cung ứng tăng nhanh hơn sản lượng thực t
ế. Do đó, biện pháp cơ bản và lâu dài để chống
lạm phát là kiểm soát tốc độ tăng cung ứng tiền tệ.
 Rất nhiều người nghĩ rằng lạm phát làm cho họ trở nên nghèo hơn vì nó làm tăng giá
hàng hoá mà họ mua. Tuy nhiên, quan niệm như vậy là sai lầm vì lạm phát thường cũng
làm tăng thu nhập danh nghĩa.
 Các nhà kinh tế đã chỉ ra 6 tác hại của lạm phát: chi phí mòn giày liên quan đến việc cắt
giả
m lượng tiền nắm giữ; chi phí thực đơn liên quan đến việc điều chỉnh giá thường
xuyên hơn; làm tăng sự biến động của giá tương đối; làm tăng gánh nặng thuế vì luật thuế
không áp dụng chỉ số trượt giá; gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện phát sinh từ sự thay đổi

đơn vị hạnh toán; và tái phân phối của cải một cách tuỳ tiện giữa người đi vay và ng
ười
cho vay. Trong thời kỳ siêu lạm phát, đa số các chi phí này lớn, nhưng qui mô của các chi
phí này không rõ ràng lắm khi lạm phát ở mức vừa phải.

×