Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số giải pháp tăng cường quan hệ đối tác công tư trong cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam TIỂU LUẬN MÔN HỌC PHÂN CẤP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.21 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: PHÂN CẤP QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
ĐỀ TÀI:
Một số giải pháp tăng cường quan hệ đối tác công tư
trong cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam
Học viên: Nguyễn Thị Bích Ngọc
Lớp Cao học Hành chính công 16M

Huế, năm 2013
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG CHƯƠNG I: XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG VÀ QUAN HỆ
HỢP TÁC CÔNG TƯ - CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
2. Quan hệ hợp tác công tư: 2
2.1. Khái niệm: 2
1.2. Lợi ích của mối quan hệ hợp tác công tư đối với nhà nước và đối với tư
nhân 3
1.3. Đặc điểm của của quan hệ đối tác công tư 3
1.4. Các hình thức của PPP ( Bảng 1) 4
1.5. Quan điểm của Đảng và nhà nước về quá trình hình thành các khái niệm xã
hội hóa và quan hệ đối tác công-tư ở Việt Nam 7
1.6. Những định hướng cơ bản: 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI PPP Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY 10
2.1. Thực trạng 10
2.2. Những thuận lợi và hạn chế khi thực hiện dự án PPP 12
2.2.1. Thuận lợi của PPP 12


2.2.2. Hạn chế và những bất cập của PPP: 13
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC
CÔNG TƯ TRONG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY 13
KẾT LUẬN 16
Đề xuất giải pháp tăng cường quan hệ đối tác công tư trong cung ứng dịch
vụ công ở Việt Nam hiện nay
2
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết,với vai trò cung ứng các dịch vụ công nói chung, dịch
vụ khác nói riêng, Nhà nước luôn là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc
đảm bảo tài chính để cung ứng các dịch vụ nói trên. Tuy nhiên, với cách huy
động nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường chủ yếu từ nguồn ngân sách và
viện trợ nước ngoài (ODA) như hiện nay, nhu cầu nguồn vốn rất lớn cho hiện tại
và trong tương lai vẫn chưa đủ đáp ứng. Từ nay đến năm 2020, nước ta cần huy
động một lượng vốn đầu tư khoảng 150-160 tỷ đô la Mỹ để thực hiện thành
công kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đặt ra, tạo sự đột phá trong
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên, các nguồn vốn đầu tư Nhà nước
truyền thống từ trước tới nay chỉ có thể đáp ứng 50% nhu cầu, do ngân sách Nhà
nước chỉ có mức tăng nhất định, vốn ODA ưu đãi sẽ giảm dần vì nước ta đã là
nước có thu nhập trung bình và đặc biệt công nợ của Chính phủ như ODA, trái
phiếu Chính phủ và các khoản vay khác có bảo lãnh của Chính phủ bị hạn chế ở
mức nhất định so với tổng GDP, không được vượt quá mức hạn an toàn nhằm
đảm bảo duy trì ổn định kinh tế vĩ mô (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2010). Mặt khác
kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu Nhà nước cùng đóng góp vốn tham gia thực
hiện một dự án với đối tác tư nhân, dự án đó có tính khả thi cao hơn, dễ dàng
tiếp cận nguồn vốn từ thị trường tài chính hơn và thậm chí các nhà tài chính đó
còn góp vốn cùng thực hiện kinh doanh. Với cách thức cùng hợp tác này, trên
thế giới người ta gọi là mô hình hợp tác công tư (Public – Private Partnership).
Để có được một cái nhìn tổng quan cũng như cơ sở khoa học định hướng cho

nhà hoạch định chính sách về việc tiếp cận và thực hiện một số giải pháp tăng
cường quan hệ hợp tác công tư ở Việt Nam theo mô hình hình thức hợp tác công
tư (PPP), một hình thức phân cấp quản lý nhà nước mới ở Việt Nam hiện nay.
Nội dung bài tiểu luận này sẽ tập trung nghiên cứu kỹ về cơ sở lý luận về hình
thức PPP , tìm hiểu thực trạng triền khai PPP hiện nay. Từ đó mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường quan hệ hợp tác công tư trong cung ứng
dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG VÀ QUAN HỆ HỢP
TÁC CÔNG TƯ - CƠ SỞ LÝ LUẬN
2. Quan hệ hợp tác công tư:
2.1. Khái niệm:
Có nhiều cách hiểu về mối quan hệ của PPP:
(1) Darrin Grimsey và Mervin K. Lewis thì đưa ra định nghĩa là “một mối
quan hệ chia sẻ rủi ro dựa trên nguyện vọng của khu vực công với một hoặc
nhiều đối tác thuộc khu vực tư nhân hay thiện nguyện cùng chia sẻ việc cung
ứng một đầu ra (outcome) và/hoặc dịch vụ công cộng được thỏa thuận công
khai.”(1)
(2) Từ điển Bách khoa mở Wikipedia lại mô tả đó là: “một dịch vụ của
chính quyền hay thương vụ tư nhân được cấp vốn và vận hành thông qua quan
hệ đối tác giữa chính quyền với một hoặc nhiều công ty thuộc khu vực tư nhân,
thể hiện bằng một hợp đồng giữa hai bên, trong đó bên tư nhân cung ứng dịch
vụ công/dự án và đảm nhiệm rủi ro về tài chính, kỹ thuật và vận hành.”
(3) Ở nước ta, trong Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công tư
vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định 71/2010, PPP được
định nghĩa là “việc Nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện Dự án phát
triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở Hợp đồng dự án”.
Quy chế nêu rõ “tổng hợp các hình thức tham gia của Nhà nước bao gồm:
Vốn Nhà nước, các ưu đãi đầu tư, các chính sách tài chính có liên quan, được

tính trong tổng vốn đầu tư của Dự án, nhằm tăng tính khả thi của Dự án. Căn cứ
tính chất của từng Dự án, Phần tham gia của Nhà nước có thể gồm một hoặc
nhiều hình thức nêu trên. Phần tham gia của Nhà nước không phải là phần góp
vốn chủ sở hữu trong Doanh nghiệp dự án, không gắn với quyền được chia lợi
nhuận từ nguồn thu của Dự án”.
Tham khảo nhiều cách hiểu và nhìn nhận nói trên,cuối cùng PPP có thể
được hiểu, đó là:
Quan hệ đối tác công-tư là việc Nhà nước cùng với một hoặc nhiều đối
tác thuộc khu vực tư nhân tự nguyện cùng phối hợp và chia sẻ rủi ro để
thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung ứng dịch vụ công cộng trên
cơ sở Hợp đồng quan hệ đối tác.
Định nghĩa này nêu rõ tính chất của mối quan hệ không phải là quan hệ
mua bán mà là quan hệ đối tác, theo đó cả hai bên thỏa thuận cùng phối hợp thúc
đẩy thực hiện một dự án kết cấu hạ tầng. Về tài chính, PPP không chỉ nhằm thu
hút vốn đầu tư tư nhân để bổ sung cho vốn đầu tư công, mà còn nhằm giảm chi
ngân sách thông qua sử dụng đối tác tư nhân vào quản lý vận hành tiện ích và
cung ứng dịch vụ công cộng.
2
1.2. Lợi ích của mối quan hệ hợp tác công tư đối với nhà nước và đối với tư
nhân
Đối với nhà nước: Huy động vốn của khu vực tư vào cung cấp dịch vụ công
để bổ sung cho nguồn ngân sách eo hẹp của nhà nước. Đây là giải pháp nhằm
tiếp kiệm vốn của nhà nước để đầu tư vào các hạn mục thiết yếu bên cạnh đó
các khoản vay ODA ngày càng giảm
Nâng cap chất lượng thực hiện các dự án thông qua sự tham gia và giám sát
của đối tác tư nhân. Dưới áp lực về các hợp đồng hợp tác của các đối tác tư
nhân thì đòi hỏi nhà nước phải thay đổi cách thức làm việc.
Tạo cơ hội để nhà nước tiếp cận với các thành tựu khoa học mới
Chuyển gánh nặng từ người chịu thuế sang nười tiêu dung tạo nên sự tiết
kiệm hơn

Nâng cao tính minh bạch và phòng chống tham nhũng
Đối với tư nhận Có công việc ổn định, có ý nghĩa
1.3. Đặc điểm của của quan hệ đối tác công tư
Thuật ngữ PPP miêu tả một loạt các mối quan hệ có thể có giữa các tổ
chức nhà nước và tổ chức tư nhân liên quan đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch
vụ khác . Một số thuật ngữ có thể được sư dụng để miêu tả dạng hoạt động này
là sự tham gia của khu vục tư nhân và tư nhân hóa
Mối quan hệ này bao gồm những đặc điểm sau:
Mối quan hệ hợp tác công tư thể hiện khuôn khổ có sự tham gia của khu vực
tư nhân nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập vai trò của Chính phủ đảm bảo đáp ứng
các nghĩa vụ xã hội và đạt được thành công trong cải cách của khu vực Nhà
nước và đầu tư công.
Một số quan hệ hợp tác công - tư chặt chẽ phân định một cách hợp lý các
nhiệm vụ, nghĩa vụ và rủi ro mà mỗi đối tác nhà nước và đối tác tư nhân phải
gánh vác. Đối tác nhà nước trong mối quan hệ hợp tác công tư là các tổ chức
chính phủ , bao gồm các bộ ngành , các chính quyền địa phương hoặc các doanh
nghiệp Nhà nước. Đối tác tư nhân có thể là đối tác trong nước hoặc đối tác nước
ngoài, và có thể là doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư có chuyên môn về tài
chính hoặc kỹ thuật liên quan đến dự án.Mối quan hệ đối tác Nhà nước – tư
nhân cũng có thể bao gồm các tổ chức phi Chính phủ hoặc tổ chức cộng đồng
đại diện cho những tổ chức và cái nhân mà dự án có thể tác động rực tiếp.
Mối quan hệ hợp tác công – tư hiệu quả ghi nhận rằng khu vực Nhà nước và
khu vực tư nhân có những lợi thế tương đối nhất định so với khu vực còn lại khi
thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Đóng góp của Chính phủ cho mối quan hệ đối
tác Nhà nước – Tư nhân có thể dưới dạng vốn đầu tư, chuyển giao tài sản, hoặc
các đóng góp hiện vật khác hỗ trợ cho mối quan hệ đối tác này. Chính phủ cũng
góp phần trong các yếu tố về trách nhiệm xã hội, ý thức thức môi trường, kiến
thức bản địa và khả năng huy động sự ủng hộ chính trị. Vai trò của khu vực tư
nhân trong mối quan hệ đối tác là sử dụng chuyên môn về thương mại, quản lý,
điều hành và sáng tạo của mình để vận hành hoạt động kinh doanh một cách

3
hiệu quả. Tùy theo hình thức của hợp đồng, đối tác tư nhân cũng có thể góp vốn
đầu tư .
Cơ cấu của mói quan hệ hợp tác cần được thiết lập để phân bố các rủi ro cho
đối tác nào có khả năng giải quyết rủi ro đó một cách tốt nhất và vì thế giảm
được chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.4. Các hình thức của PPP ( Bảng 1)
+Hơp đồng dịch vụ:Trong hợp đồng dịch vụ , Chính phủ( cơ quan nhà nước)
sẽ thuê một công ty tư nhâ n tiến hành những công việc hoặc dịch vụ cụ thể
trong một khoảng thời gian, thường là từ 1 đến 3 năm.Tuy nhiên, cơ quan nhà
nước vẫn là người cung cấp chính dịch vụ cơ sở hạ tầng và chỉ thuê đối tác tư
nhân điều hành một phần hoạt động. Đối tác tư nhân thực hiện dịch vụ với một
mức chi phí được thỏa thuận và thường phải đáp ứng những tiêu chuẩn hoạt
động do cơ quan nhà nước đặt ra.Trong hợp đồng dịch vụ, Chính phủ trả đối tác
tư như một khoảng chi phí định trước cho dịch vụ. Vì thế, lợi nhuận của nhà
thầu sẽ tăng lên nếu nhà thầu có thể giảm được chi phí điều hành mà vẫn đáp
ứng được các yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ
+Hợp đồng quản lý: Hợp đồng quản lý rộng hơn hợp đồng dịch vụ phạm vi của
nó được mở rộng 1 phần hoặc toàn bộ hoạt động quản lý và điều hành của dịch
vụ công. Nghĩa vụ cung cấp dịch vụ vẫn thuộc trách nhiệm của nhà nước hoạt
động quản lý kiểm soát hàng ngày được giao cho đối tác tư nhân. Đối tác tư
nhân sẽ là người cung cấp vốn cho hoạt động quản lý điều hành nhưng không
cung cấp vốn đầu tư. Khu vực nhà nước vẫn giữ nghĩa vụ cung cấp các khản đầu
tư chủ yếu, những khoản đầu tư liên quan đến việc mở rộng và cải thiện hệ
thống.
Các nhà đầu tư tư nhân được trả một tỷ lệ thỏa thuận trước cho chi phí lao
động và các chi phí điều hành khác . Ngoài ra để tạo thêm động lực nhà thầu
được trả thêm một khoản cho việc đạt được những mục tiêu đã được thỏa thuận
và quy định cụ thể từ trước. Trong hợp đồng này, khu vực nhà nước sẽ chịu
trách nhiệm quy định biểu phí dịch vụ.

+Hợp đông thầu hoặc cho thuê: Theo hợp đồng cho thuê , đối tác tư nhân chịu
trách nhiệm về toàn bộ dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến chất
lượng và tiêu chuẩn của dịch vụ. Ngoại trừ các khoản đầu tư mới và đầu tư thay
thế thuộc trách nhiệm về cơ quan nhà nước, nhà điều hành có trách nhiệm cung
cấp dịch vụ với chi phí và rủi ro do mình gánh chịu.Theo hợp đồng này, trách
nhiệm cung cấp dịch vụ được chuyển từ khu vực nhà nước sang khu vực tư
nhân và rủi ro tài chính đối với việc điều hành và duy trì dịch vụ hoàn toàn do
nhà điều hành tư nhân gánh chịu. Việc cho thuê không bao gồm việc bán bất cứ
tài sản nào cho khu vực tư nhân.
Hệ thống ban đầu được thiết lập trên nguồn tài chính của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và được ký hợp đồng giao cho công ty tư nhân điều hành và duy
4
trì hệ thống. Một phần chi phí dịch vụ được chuyển cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để thanh toán các khoản vay tài trợ cho việc mở rộng hệ thống
Hợp đồng giao thầu khác với hợp đồng cho thuê ở chỗ cho phép khu vực tư
nhân thu từ khách hàng thanh toán cho nhà nước có thẩm quyền ký hợp đồng
giao thầu một khoản phí giao thầu cụ thể và giữ lại khoản doanh thu còn lại.
Phí giao thầu thường được tính theo một tỷ lệ thỏa thuận trong mỗi đơn vị dịch
vụ được bán ra.
+Nhượng quyền:Hoạt động nhượng quyền cho phép nhà điều hành tư
nhân( người được nhượng quyền ) chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ dịch vụ
trong khu vực cụ thể, bao gồm điều hành, duy tu bào dưỡng, thu phí, quản lý,
xây dựng và tu bổ hệ thống. Đặc biệt là nhà điều hành tư nhân chịu trách nhiệm
đối với toàn bộ các khoản đầu tư
Mặc dù nhà điều hành tư nhân chịu trách nhiệm cung cấp các tài sản này
vẫn thuộc sở hữu của Khu vực nhà nước( cả trong thời gian chuyển nhượng
quyền). Khu vực nhà nước chịu trách nhiệm thiết lập các tiêu chuẩn hoạt động
và đảm bảo rằng người được nhượng quyền đáp ứng được các tiêu chuẩn này.
Và vai trò của khu vực nhà nước chuyển từ việc cung cấp dịch vụ sang một
người điều tiết , quản lý giá và chất lượng dịch vụ.

Người được nhượng quyền thu phí trực tiếp từ những người sử dụng hệ
thống. Mức thu phí thong thường được thiết lập trong hợp đồng nhượng quyền.
Người được nhượng quyền chịu trách nhiệm đối với nhứng khoản đầu tư cần
thiết để xây dựng nâng cấp hoặc mở rộng hệ thống và chịu trách nhiệm thu xếp
vốn cho các khoan đầu tư có nguồn lực của mình. Hợp đồng nhượng quyền
thường có giá trị từ 20 đến 30 năm để điều hành có đủ thời gian thu hồi vốn đầu
tư và có được một khoản lợi nhuận hợp lý. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
thể góp chi phí đầu tư vốn nếu cần thiết
+Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao( BOT) (Build - Operate -
Transfer) và các thảo thuận tương tự là một hình thức nhượng quyền được
chuyên môn hóa trong đó một công ty tư nhân cung cấp vốn và xây dựng một dự
án có cơ sở hạn tầng mới hoặc một phần chính của dự án cơ sở hạ tầng căn cứ
trên các tiêu chuẩn thực hiện do Chính phủ quy định.
Theo hợp đồng BOT, đối tác tư nhân cung cấp vốn đầu tư cần thiết để xây
dựng cơ sở dịch vụ mới. Khác với hợp đồng nhượng quyền, trong hợp đồng
BOT nhà điều hành tư nhân được quyền sở hữu tài sản trong một khoản thời
gian đủ để cho đối tác tư nhân xây dựng cơ sở hạ tầng thu hồi chi phí đầu tư qua
việc trả phí của người sử dụng. Thêm nữa, hợp đồng nhượng quyền thường liên
quan đến việc mở rộng và điều hành một hệ thống hiện có , trong khi BOT liên
quan đếncác khoản đầu tư lớn để xây dựng một hệ thống mới. Hợp đồng này
hiện là hình thức hơp tác chính giữa Nhà nước và tư nhân ở Việt Nam. Ngoài ra,
còn rất nhiều biến thể của hợp đồng BOT như:
Các hợp đồng xây dựng – chuyển giao- kinh doanh( BTO) (Build - Transfer
-Operate ) trong đó việc chuyển giao về sở hữu Nhà nước được tiến hành khi
xây dựng kết thúc mà không phải khi hợp đồng kết thúc,
5
Các hợp đồng xây dựng – sở hữu- kinh doanh (BOO) Build - Own -
Operate). Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công
trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà máy
điện cả ở Việt Nam và trên thế giới.Trong đó nhà đầu tư phát triển xây dựng và

điều hành cơ sở dịch vụ mà không chuyển lại quyền sở hữu cho khu vực Nhà
ước. Theo một hợp đồng thết kế -xây dựng- kinh doanh( DBO) sở hữu không
khi nào nằm trong tay tư nhân. Thay vào đó, một hợp đồng được lập ra cho việc
thiết kế, xây dựng và điều hành dự án cơ sở hạ tầng.
Các hợp đồng thiết kế-xây dựng- cấp vốn- kinh doanh(DBFO) Design- Build
- Finance - Operate), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành
công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Với cách tiếp cận DBFO trách
nhiệm thiết kế, xây dựng cấp vốn, điều hành được gói cùng với nhau và được
chuyển cho các đối tác tư nhân. Các thảo thuận DBFO khác nhau rất nhiều về
mức độ trách nhiệm tài chính được chuyển giao cho đối tác tư nhân.
+ Liên doanh
Liên doanh là phương án thay thế cho việc tư nhân hoá toàn bộ, theo đó
cơ sở hạ tầng được sở hữu và điều hành bởi khu vực Nhà nước và nhà điều hành
tư nhân. Trong một liên doanh, các đối tác nhà nước và tư nhân có thể thành lập
một công ty mới hoặc thực hiện việc liên doanh sở hữu trong một công ty hiện
có ( qua việc bán cổ phần). Một yêu cầu chủ chốt cho cấu trúc này là có một môi
trường quản trị công ty tốt, đặc biệt khả năng của công ty trong việc duy trì độc
lập với chính phủ. Trong hình thức này, đối tác tư nhân sẽ đảm nhiệm vai trò
điều hành và một giám đốc thường được xây dựng dựa trên tỷ lệ phần vốn góp
hoặc dựa trên năng lực và trình độ.
Quan trọng hơn trong cơ cấu liên doanh , cả đối tác nhà nước và tư nhân phải
sắn sàng đầu tư vào công ty và cùng chia sẻ những rủi ro nhất định.
Bảng1: Các hình thức hợp tác công tư
Hình thức Thời gian Quyền sở
hữu
Vốn đầu tư Rủi ro Vận hành
và bảo trì
Hợp đồng
dịch vụ
1-2 Nhà nước Nhà nước Nhà nước Nhà nước

và TN
Hợp đồng
quản lý
3-5 Nhà nước Nhà nước Nhà nước TN
Cho thuê 8- 15 Nhà nước Nhà nước Nhà nước
và TN
TN
BOT/ BOO/
BTO/
DBFO
20-30 Nhà nước
và TN
Nhà nước TN TN
Liên doanh TN và Nhà
nước
TN và Nhà
nước
TN và
Nhà nước
TN và
Nhà nước
Ghi chú: TN: Tư nhân
1.5. Quan điểm của Đảng và nhà nước về quá trình hình thành các khái
niệm xã hội hóa và quan hệ đối tác công-tư ở Việt Nam
6
Ở nước ta, trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987(và trong các Luật thay
thế tiếp theo) đã nêu ra các Hợp đồng BOT, BTO và BT về xây dựng và kinh
doanh công trình kết cấu hạ tầng. Như vậy PPP ở nước ta được chú ý trước tiên
như một hình thức đầu tư nước ngoài, với lý do rất dễ hiểu là vào giai đoạn đó
khu vực kinh doanh tư nhân nước ta mới bắt đầu hình thành và rất yếu ớt. Tuy

vậy, đến Báo cáo tổng kết Chương trình khoa học-công nghệ cấp nhà nước
(KC11) về “Nâng cao hiệu quả quản lý và xây dựng đô thị” (1991-1995) của Bộ
Xây dựng thì đã nêu lên vấn đề “xóa bỏ bao cấp trong dịch vụ công cộng đô
thị, thu hút nguồn lực tài chính của Nhà nước, của bản thân đô thị, nguồn vốn
vay của các tổ chức tài chính quốc tế, nguồn vốn viện trợ của các chính phủ,
vốn đầu tư của nước ngoài và thu hút sự tham gia của tư nhân và cộng đồng
dân cư”. Thế nhưng mới dừng lại ở kết quả nghiên cứu mà thôi.
Về đường lối của Đảng thì Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) chưa
đề cập rõ ràng và nhất quán đến PPP. Trong khi nhấn mạnh “ tập trung nguồn
lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu
như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội…”(tr.93) thì cũng đưa ra chủ trương “cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực…,
không phải để tư nhân hóa” (tr.94), “đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho
các hoạt động khoa học và công nghệ” (tr.107),”thu hút nguồn đầu tư từ các
cộng đồng, các giới, trong và ngoài nước cho giáo dục, đào tạo” (tr.110). Thực
hiện chủ trương này, tháng 3/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 06 về việc
hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào
tạo, nghiên cứu khoa học.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thừ IX (2001) đã đề cập cụ thể hơn đến “tạo
điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào
xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội…” (tr.99), “các chính sách
xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa”(tr.108), và “thực hiện chủ
trương xã hội hóa giáo dục”(tr.111). Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã
hội đến năm 2000 cũng đề cập đến “các doanh nghiệp và nhân dân … góp phần
cùng Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và công trình phúc lợi”
(tr.31).
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X (2006) tiến thêm một bước, nhấn mạnh “
doanh nghiệp cổ phần…thúc đẩy xã hội hóa sản xuất, kinh doanh và sở hữu”
(tr.83), “huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội,…hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn,

hệ thống thủy lợi, cấp thoát nước”(tr.92), “thực hiện xã hội hóa giáo dục”(tr.97),
“phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao và ngoài công lập”(tr.102), “khuyến
khích đầu tư trong và ngoài nước phát triển các dịch vụ công cộng”(tr.105) (Ghi
chú tại tr.202: chủ yếu bao gồm giáo dục và đào tạo; y tế; khoa học và công
nghệ; văn hóa; thể dục, thể thao), “khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát
triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng”(tr.199).
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/ 11/2009
về đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO và BT. Ngày 27/ 01/ 2011, Bộ
7
KH&ĐT ra Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện Nghị định
này. Đến ngày 05/4/2011 Chính phủ lại có Nghị định số 24/2011/NĐ-CP sửa đổi
một số điều của Nghị định 108/2009/NĐ-CP, theo đó các lĩnh vực đầu tư được
khuyến khích là:
a) Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ;
b) Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt:
c) Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông;
d) Hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước; hệ thống thu gom,
xử lý nước thải, rác thải;
đ) Nhà máy điện, đường dây tải điện:
e) Các công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa,
thể thao và trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
g) Các công trình kết cấu hạ tầng khác theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ.
Gần đây một số Hội thảo về hình thức đối tác công-tư được tổ chức có
quốc tế tham gia. Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo thực hiện hình thức này và
tháng 11/2010 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 71/2010 ban hành Quy
chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công-tư, trong các lĩnh vực thí điểm
đầu tư có bao gồm hệ thống cung ứng nước sạch và môi trường (nhà máy xử lý
chất thải), thuộc đối tượng dịch vụ công cộng đô thị trong đề tài nghiên cứu này.

Qua việc trích dẫn nói trên có thể thấy ở nước ta có nhiều cách gọi việc tư
nhân tham gia vào lĩnh vực hạ tầng và cung ứng dịch vụ công cộng như:
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước;
- Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư;
- Thu hút nguồn đầu tư;
- Hợp tác đầu tư với nước ngoài;
- Các doanh nghiệp và nhân dân cùng góp phần;
- Xã hội hóa;
- Các thành phần kinh tế tham gia phát triển lĩnh vực kết cấu hạ tầng;
- Đầu tư theo quan hệ đối tác công-tư.
Chủ trương xã hội hóa được nêu ra chủ yếu cho các ngành giáo dục đào tạo
và y tế, mở rộng cho khoa học công nghệ, văn hóa và thể dục, thể thao. Đối với
dịch vụ hạ tầng kỹ thuật thì nhấn mạnh đến sự tham gia đầu tư, hình thức đối tác
công-tư.
Như vậy, trong nội dung vủa bài tiều luận này đề tài nghiên cứu này thì
nghiên cứu chủ trương xã hội hóa dịch vụ công cộng đô thị với 5 ngành dịch vụ
cụ thể đã nêu, chính là nghiên cứu áp dụng phương thức quan hệ đối tác công-
tư vào các ngành dịch vụ công cộng đó.
8
1.6. Những định hướng cơ bản:
 Hợp tác công tư phải được coi là giải pháp chủ yếu để cải thiện chất
lượng cung ứng dịch vụ công ở nước ta và trong tương lai đối với các lĩnh vực
đầu tư được khuyến khích là:
a) Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ;
b) Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt:
c) Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông;
d) Hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước; hệ thống thu gom,
xử lý nước thải, rác thải;
đ) Nhà máy điện, đường dây tải điện:
e) Các công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa,

thể thao và trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
g) Các công trình kết cấu hạ tầng khác theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ.
 Trong quá trình triển khai hợp tác công tư không phải lức nào cũng
thành công do vậy càn nghiên cứu cụ thể từng trường hợp cụ thể để tìn ra các
mô hình, giải pháp thích hợp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI PPP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng
Ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn
1994-2009 đã có 32 dự án được thực hiện theo mô hình PPP với tổng mức vốn
cam kết khoảng 6,7 tỉ đô la. Cũng giống như các nước khác, mô hình BOT và
BOO chiếm tỷ phần chủ yếu. Hai lĩnh vực chiếm tỷ phần lớn nhất là điện và
viễn thông. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều dự án hợp tác công - tư khác đã và
đang được triển khai từ thập niên 1990 đến nay như: BOT cầu Cỏ May, BOT
cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang
được thực hiện theo phương thức BOO.Về mô hình BOT, tổng cộng có 26 dự án
với tổng mức đầu tư là 128 ngàn tỷ đồng.
Riêng năm 2010, theo thống kê của cục đầu tư nước ngoà ( Bảng 2), tổng
số dự án cấp mới được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là 969 dự án, trong đó theo
mô hình đầu tư BOT, BT, BTO có 6 dự án chiếm 1% trên tổng số dự án cấp
mới. Nhưng số lượng dự án cấp mới chiếm 55% so với số dự án đầu tư theo
hình thức BOT,BTO,BT là 11 dự án, chiếm % cao nhất trong số tất cả các hình
thức đầu tư, so với năm 2009 không có dự án mới nào đầu tư theo hình thức
BOT,BT,BTO đó là một sự khởi sắc tốt.
Ta thấy rằng hình thức đầu tư theo hợp đồng BOT, BT, BTO đang phát
triển theo chiều hướng tích cực. Vậy dưới sự giám sát và hỗ trợ của nhà nước,
hình thức đầu tư theo mô hình PPP đã bắt đầu có sự tiến triển so với các hình
thức đầu tư khác.
9

Đặc biệt là sau khi Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy
chế Thí điểm đầu tư theo hình thức PPP được ban hành và chính thức có hiệu
lực từ ngày15/1/2011. Điều này đã thu hút sự chú ý của giới đầu tư trong và
ngoài nước đang dồn vào mô hình hợp tác nhà nước và tư nhân (PPP).
Chính phủ đã giao cho Bộ Giao thông Vận tải thực hiện thí điểm mô hình
PPP ở dự án đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết và hiện nay Bộ Giao thông
Vận tải đã thành lập tổ công tác liên ngành với sự tham gia của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để triển khai dưới sự hỗ trợ của
Ngân hàng Thế giới (WB).
Bảng 2: Thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài năm 2010 theo hình thức
(Tính từ 01/01/2010 đến 21/12/2010)
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Tuy mô hình này đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu nhưng hành lang pháp lý
của chúng ta chưa hoàn thiện, còn thiếu đồng bộ. Ông Ben Darche - Tư vấn
quốc tế về PPP - cho biết: Kinh nghiệm thực hiện PPP của nhiều nước trên thế
giới cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực
hiện thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP thất bại. Phải đặc
biệt quan tâm đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ trợ tài chính
của Chính phủ, cơ chế lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu
trách nhiệm thực hiện các dự án PPP. Ngoài ra, vấn đề tiên quyết đối với việc
huy động các nhà đầu tư thực hiện mô hình PPP chính là cơ hội tìm kiếm lợi
nhuận từ các dự án. nhưng một số doanh nghiệp còn băn khoăn về ràng buộc
bảo lãnh vốn vay của Chính phủ và tỷ lệ góp vốn 30-70 trong một dự án PPP.
Mới đây nhất chính là Văn bản số 1482/TTg-KTN, ngày 9.9.2008 của
Thủ tướng Chính phủ đã giao Tập đoàn Bitexco lập dự án đầu tư dự án đường
cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết - với tổng mức kinh phí lên tới 14.355 tỉ đồng,
10
thời gian thi công 36 tháng theo mô hình PPP. Đây là cũng là dự án trọng điểm
nằm trong hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, có tổng chiều dài 100km. Thiết
kế đường cao tốc này thuộc loại A, vận tốc thiết kế 120km/h, mặt cắt ngang

đường 33 mét gồm 6 làn xe, phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 là 4 làn xe.

Tóm lại, theo thống kê cho thấy mô hình PPP tuy đã phổ biến ở Việt Nam theo
hình thức chủ yếu là BOO và BOT nhưng còn quá khiêm tốn và khi triển khai
cũng cần những điều kiện nhất định khác. Đặc biệt là vấn đề pháp lý của nhà
nước ta có thu hút hấp dẫn được các nhà đầu tư trong và ngoài nước không? Vì
thế chúng ta cần đưa ra biện pháp cải thiện để có thể tận dụng tốt nguồn vốn từ
các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước một cách hiệu quả và có lợi cho
hai bên tham gia nhất.
Sau đây là một số thuận lợi và thách thức khi áp dụng mô hình PPP tại
Việt Nam theo kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài HIFU đã đầu tư tại TP
Hồ Chí Minh qua nhiều năm trên các lĩnh vực như dự án cơ sở hạ tầng giao
thông, dự án khu công nghiệp Tân Phú Trung, dự án xây dựng nhà máy nước
Thủ Đức, cụm công nghiệp ô tô Hòa Phú, cầu Phú Mỹ, xư lý kênh Đông.
2.2. Những thuận lợi và hạn chế khi thực hiện dự án PPP .
2.2.1. Thuận lợi của PPP
- Đảng và nhà nước đã xác định phương hướng rõ ràng cần phải thu hút
được nguồn lực của tư nhân vào việc phát triển hạ tầng cơ sở và cung cấp dịch
vụ.Nhà nước đã ban hành được khung pháp lý tương đối cụ thể cho lĩnh vực hợp
tác công tư dự án BOT, BTO và dự án PPP theo quyết định 71.Đã triển khai
được nhiều dự án dưới nhiều hình thức khác nhau , từ hợp đồng quản lý
- Sử dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của
khu vực tư nhân. Buộc khu vực công cộng ngay từ đầu phải chú trọng đầu ra và
lợi ích ( thay vì các yếu tố đầu vào). Đưa vốn tư nhân vào và giúp giảm nhẹ
gánh nặng về tài chính cho dự án. Rủi ro được chia sẻ giữa những đối tác khác
nhau. Chắc chắn về ngân sách. Những nhà cung cấp tư nhân có trách nhiệm hơn
trong việc cung cấp dịch vụ trong môi trường khuyến khích thích hợp. Trong mô
hình sáng kiến tài chính tư nhân ( PFI), khu vực công cộng chỉ thanh toán khi
dịch vụ đã được cung cấp.
2.2.2. Hạn chế và những bất cập của PPP:

- PPP ngụ ý việc khu vực công cộng mất quyền kiểm soát quản lý và vì vậy
khó có thể chấp nhận trên góc độ chính trị. Liệu khu vực công có đủ năng lực và
kỹ năng để áp dụng phương pháp PPP và thiết lập môi trường pháp lý để khuyến
khích thích đáng không? Liệu khu vực tư nhân có đủ năng lực chuyên môn để
đảm bảo thực hiện PPP không? Không thể chuyển giao rủi ro tuyệt đối.
- PPP đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng thu hồi lợi nhuận lâu dài, do vậy các
nhà đầu tư phải cân nhắc khi tham gia hợp tác.
-Năng lực đàm phán, ký kết hợp đồng của cơ quan Nhà nước còn hạn chế,
dẫn đến sự chậm trễ trong triển khai dự án, làm nản lòng nhà đầu tư, hoặc không
kiểm soát chất lượng, tiến độ của dự án;
11
- Năng lực của các doanh nghiệp hợp tác tư nhân trong nước vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu của hợp đồng hợp tác công tư, nhất là với dự án lớn, đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư lớn và kỹ thuật cao
- Khung pháp lý để triển khai hợp tác công tư mặc dù đã được triển khai
xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa đủ, chưa tạo được niềm tin
để thu hút sự hợp tác của tư nhân.Nhận thức về hợp tác công tư của các cơ
quan nhà nước và TN vẫn còn rất hạn chế, khó đi đến sự đồng thuận và do đó
ảnh hưởng đến sự liên kết.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ
ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mô hình hợp tác công tư (PPP) trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các
dịch vụ công được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, không nên được nhìn nhận như một “hạt đậu thần” và để mô hình
này có thể thực sự hoàn thiện và đem lại lợi ích như mong muốn rất cần có
những phương pháp tiếp cận PPP phù hợp nhằm đạt được những kết quả về cơ
sở hạ tầng tôt hơn. Chúng tôi cho rằng cần có một số biện pháp đồng bộ khi áp
dụng hình thức PPP vào Việt Nam để có hiệu quả:
Thứ nhất là xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về hợp tác công

tư: .Chúng ta cần phải nghiên cứu để sớm hoàn thành khung pháp lý về PPP,
luật BOT/PPP, khung quy định về các khu vực rõ ràng. Để đảm bảo sự thành
công cho mô hình PPP nói chung và mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng
nói riêng cần hội đủ hai yếu tố cơ bản sau: "hợp đồng hiệu quả" để tăng giá trị
vốn đầu tư và "môi trường thuận lợi" để quản lý PPP, trong đó một trong những
nội dung cơ bản nhất của nhân tố môi trường chính là khung thể chế, pháp lý
đầy đủ và ổn định. Điều này sẽ góp phần giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh
bạch cho các mô hình PPP và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia tích
cực hơn.Chính sách cam kết lâu dài sẽ tạo cho các nhà đầu tư yên tâm, tin tưởng
góp vốn đầu tư.
Thứ hai, Cần thiết phát triển, thành lập một cơ quan quản lý nhà nước về
PPP có đủ năng lực thực hiện đàm phán ký kết các hợp đồng PPP, hỗ trợ địa
phương hay giải quyết các vướng mắc liên quan. Xây dựng chiến lược quy
hoạch cụ thể cho các dự án công tư cũng như khuyến khích việc thành lập các
hiệp hội, các tổ chức kiểm định chất lượng dịch vụ công ngoài công lập; nhà
nước có chính sách hỗ trợ các tổ chức đó thành lập và hoạt động
Thứ ba, tạo ra các cơ chế thúc đẩy hoạt động kinh doanh có trách nhiệm
đối với khu vực tư nhân, thời xây dựng cơ chế bình đẳng trong mối quan hệ
công tư, tăng cường đối thoại giữa nhà nước và tư nhân để timg ra tiếng nói
chung trong quá trình hộp tác. Có nghĩa là một trong những hạn chế của PPP
khu vực tư nhân thường có động cơ đề cao lợi nhuận cá nhân và coi nhẹ trách
nhiện xã hội trong dự án. Vì vậy, khi khu vực tư nhân tham gia đầu tư cần phải
12
tuân thủ các nguyên tắc đã thống nhất và các chuẩn mực hoạt động kinh doanh
có trách nhiệm với môi trường xã hội. Bên cạnh đó khi bắt tay hợp tác với doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước vẫn còng mang nặng nếp tư duy cũ của
thời kỳ kinh tế tập trung nên trong thực tế vẫn chưa thực sự có được sự hợp tác
bình đẳng mà vẫn có cung cách chủ quan hành chính thượng cấp – thuộc quyền
Thứ tư, là hoàn thiện các công cụ quản lý và quản lý nhà nước
Các cấp chính quyền xây dựng quy hoạch, công bố nhu cầu và quy hoạch

phát triển các cơ sở cung cấp dịch vụ công đối với từng loại hình dịch vụ, từng
khu vực, địa bàn, tạo điều kiện cho việc phát triển PPP của các thành phần kinh
tế không bị mất cân đối và phát triển đúng hướng, theo đúng quy hoạch của nhà
nước.
Nhà nước xây dựng và công bố rõ ràng các điều kiện thành lập các cơ sở
cung cấp dịch vụ công; ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn về chất lượng cung cấp
dịch vụ công và các chế tài bắt buộc tất cả các đơn vị cung cấp dịch vụ công
phải thực hiện theo đúng tiêu chuẩn chất lượng quy định.
Xây dựng cơ chế, tổ chức và biện pháp để giám sát, thanh tra, kiểm tra việc bảo
đảm chất lượng cung cấp dịch vụ công theo tiêu chí, chuẩn mực do nhà nước
quy định.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cán bộ ngành , địa phương với các nhà đầu tư trong
và ngoài nước.
Thứ năm, tăng cường năng lực cán bộ tham gia dự án PPP.
Hiện nay khu vực công của Việt Nam vẫn chưa đủ năng lực và kỹ năng để áp
dụng phương pháp PPP. Ở khu vực tư nhân chỉ có một số rất nhỏ doanh nghiệp
có đủ năng lực chuyên môn để đảm bảo thực hiện PPP. Do vậy đây là một vấn
đề mà nhà bước cần phải quan tâm , hỗ trợ
Thứ sáu, khuyến khích phát triển PPP ở quy mô nhỏ, nguồn vốn đầu tư ít.
Theo định hướng của Đảng và nhà nước ta, mô hình PPP được khuyến
khích triển khai đối với dịch vụ hạ tầng kỹ thuật như:
a) Đường bộ, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ;
b) Đường sắt, cầu đường sắt, hầm đường sắt:
c) Cảng hàng không, cảng biển, cảng sông;
d) Hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước; hệ thống thu gom,
xử lý nước thải, rác thải;
đ) Nhà máy điện, đường dây tải điện:
e) Các công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa,
thể thao và trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
Các loại hình dich vụ trên đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nếu không chúng ta thiếu

kinh nghiệm quản lý, chưa đủ năng lực điều hành thì yếu tố rủi ro rất cao. Do
vậy có nên chăng nhà nước nên khuyến khích triển khai các mô hình PPP với
quy mô nhỏ, với nguồn vốn đầu tư nhỏ để các doanh nghiệp tư nhân có thể từng
bước tham gia PPP, và khi có đủ năng lực có thể tham gia PPP với quy mô lớn.
13
Thứ bảy, ngoài ra phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền
- Các cơ quan thông tấn, báo chí cần kịp thời tuyên truyền để nâng cao
nhận thức, tạo sự đồng thuận cao của xã hội đối với sự phát triển PPP.
KẾT LUẬN
Tóm lại, để tăng cường mối quan hệ đối tác công tư thành công trong cung
ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện
khung pháp lý về hợp tác công tư; thành lập một cơ quan quản lý nhà nước về
PPP có đủ năng lực thực hiện đàm phán ký kết các hợp đồng PPP tạo ra các cơ
chế thúc đẩy hoạt động kinh doanh có trách nhiệm đối với khu vực tư nhân; xây
dựng cơ chế bình đẳng trong mối quan hệ công tư, tăng cường đối thoại giữa
nhà nước và tư nhân để timg ra tiếng nói chung trong quá trình hộp tác; hoàn
thiện các công cụ quản lý và quản lý nhà nước và nâng cao năng lực cho cán bộ
tham gia dự án PPP; khuyến khích phát triển PPP ở quy mô nhỏ, nguồn vốn đầu
tư ít. Có như vậy mới tạo điều kiện môi trường tăng cường mối quan hệ đối tác
công tư trong cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay , thực hiện tốt công
tác phân cấp quản lý hành chính nhà nước , phát huy vai trò hiệu lực hiệu quả
của quản lý nhà nước từ “ người chèo thuyền” sang vai trò của “ người lái
thuyền”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa, Đổi mơi scung ứng dịch vụ công, 2006,
NXB Thống kê, Hà Nội
2. TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công- Đồi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở
Việt Nam hiện nay.
3. TS Đinh Sơn Hùng, Trần Gia Trung Đỉnh, Những giải pháp để nâng cao hiệu
quả hợp tác công- tư PPP, trong xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông.

4. TS. Phạm sĩ Liêm, Khía niệm tư nhân hóa xã hội hóa và quan hệ đối tác công
tư (PPP) Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2013 tại địa chỉ :

14

×