Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

tìm hiểu về “khắp” của người thái ở huyện mường la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 113 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
TÌM HIỂU VỀ “KHẮP”
CỦA NGƯỜI THÁI Ở HUYỆN MƯỜNG LA
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn hoá các dân tộc thiểu số
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga
Người hướng dẫn: Tiến sĩ Vi Văn An
Chỉnh lý: Tiến sĩ Phạm Việt Long
Hà Nội, năm 2011
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 1
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu
sắc đến T.S Vi Văn An, người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết
khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Văn hóa dân tộc thiểu
số, đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện tốt nhất để tôi được học tập và
nghiên cứu tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Tôi xin chân thành cảm ơn phòng Văn hóa huyện Mường La, các chuyên
gia, các nghệ nhân, đã giúp đỡ tôi thu thập những thông tin cần thiết để hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và những người
thương yêu tôi, luôn bên tôi, giúp đỡ tôi về vật chất cũng như tinh thần trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài khó tránh khỏi sự thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và mọi người để đề
tài của tôi được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội ngày 18 tháng 5 năm 2011
Sinh viên


Nguyễn Thị Thanh Nga
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 2
Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Là một thành tố của văn hóa phi vật thể, dân ca đóng vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống tinh thần của người Thái Tây Bắc nói chung, của
người Thái ở Mường La nói riêng.
Nhờ sự phong phú, đa dạng về thể loại, nên dân ca đã góp phần tạo nên
bản sắc văn hóa riêng của người Thái, góp phần không nhỏ vào kho tàng
văn hóa văn hóa nghệ thuật của cả nước.
Thật vậy, người ta đã tìm thấy trong dòng chảy văn hóa Thái nhiều bộ
trường ca có giá trị như Táy Pú Xớc (kể về bước đường chinh chiến của ông
cha), Quam tô mương (Kể chuyện bản mường), Phanh mường; những tác
phẩm thơ khuyết danh như: Xống chụ xôn xao (tiễn dặn người yêu), Khun
Lu nang Ủa (Chàng Lú-Nàng Ủa); nhiều điệu múa Thái nhịp nhàng uyển
chuyển qua hình ảnh những cô gái trẻ trong bộ y phục tuyệt đẹp và các điệu
“múa xòe” nổi tiếng. Các điệu dân vũ đã đạt tới trình độ nghệ thuật điêu
luyện như: múa khăn, “múa nón, múa chèo thuyền, v.v Đặc biệt, là những
làn điệu dân ca như “Khắp báo xao”, “Khắp chiêu”…luôn có mặt trong các
cuộc vui hội hè và giữ vai trò chủ đạo tạo nên bầu không khí thanh bình,
náo nhiệt của sinh hoạt cộng đồng. Từ lâu, “khắp” Thái đã gắn chặt với
cuộc sống của người lao động. Dòng đời con người từ khi sinh ra, lớn lên
cho đến khi nằm xuống, luôn có một dòng chảy dân ca như suối nguồn tưới
mát. Dường như mỗi chặng đời người đều được đánh dấu bằng những thể
loại dân ca riêng, hát trao vòng cho trẻ sơ sinh, hát đồng dao cho các em nhi
đồng, thiếu niên, hát giao duyên nam nữ, hát đám cưới cho các lứa đôi, hát
lên nhà mới cho những gia đình hạnh phúc. Vào lứa tuổi trung niên con
người phải biết hát dân ca để tham gia sinh hoạt trong các ngày hội, ngày lễ
cầu cúng của cả bản làng. Những người già thường yêu thích những buổi

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 3
Khóa luận tốt nghiệp
hát kể chuyện cổ tích hay các anh hùng ca dân tộc. Và khi con người xế
chiều mãn bóng thì được cả cộng đồng ca hát tiễn tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Có thể thấy hát Thái không còn là khu rừng biệt lập xa cách nữa mà đã gần
gũi, quen thuộc từ lâu.
Tuy nhiên, sự hiểu biết của chúng ta về các làn điệu dân ca Thái vẫn
còn khiêm tốn. Còn khá nhiều làn điệu hát Thái ta mới chỉ được nghe tên và
có không ít những làn điệu “khắp” của người Thái chỉ còn tồn tại trong ký
ức của những người già.
Mặc dù đã có một số công trình, bài viết đề cập đến dân ca Thái, song
hầu như chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu một cách có hệ thống,
chuyên sâu về dân ca “khắp” của người Thái nói chung, người Thái ở
Mường La nói riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu về khắp Thái ở Mường La
nhằm phát huy giá trị của loại hình dân ca này là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu về “khắp” của người
Thái ở huyện Mường La” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề văn nghệ dân gian của người Thái đã được đề cập đến trong
một số công trình, nhưng do yêu cầu của công việc, mỗi người đã đứng ở
mỗi góc độ, nên thành quả thu lại cũng khác nhau, mỗi công trình nghiên
cứu có thể đề cập toàn diện văn hóa của người Thái, có những công trình
chỉ đề cập đến một lĩnh vực trong văn hóa.
Riêng về hát dân ca Thái, cho đến nay dường như mới chỉ được đề cập
đến trong một số công trình nghiên cứu, nhưng chưa từng được giới thiệu
trọn vẹn. Những bài dưới tên chung là Tản chụ xiết xương mới chỉ được
trích in không nhiều. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam phần văn học dân tộc
thiểu số giới thiệu các bài Lành đồn xa, Ướm hỏi, Chung lứa chung nôi,
Đời thanh xuân, Dặn dò trong số hơn một trăm bài ghi trong lời dẫn của
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 4

Khóa luận tốt nghiệp
nhà xuất bản. Hợp tuyển còn in một số bài hát thách và một số bài Nam nữ
đối ca… Gộp lại phần lời hát được giới thiệu trong Hợp tuyển tất cả khoảng
500 câu. Trước khi hợp tuyển ra đời, trên tạp chí văn nghệ có lần in vài ba
bài Tản chụ xiết xương. Ngoài ra, không còn ấn bản nào khác công bố về
thể tài này. Về mặt âm nhạc, ngược lại, giáo sư, tiến sĩ khoa học Tô Ngọc
Thanh đã in hàng loạt bài nghiên cứu giới thiệu có giá trị. Tô Ngọc Thanh
còn là người đầu tiên giới thiệu về đồng dao Thái. Tạp chí Văn nghệ Tây
Bắc năm 1974 còn công bố một số bài viết ngắn về Văn Hoan, một nhân vật
đượm vẻ truyền thuyết, gắn với những hành trình dân ca đầy màu sắc và
đậm dấu ấn tập quán dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta thiếu hẳn những sưu tập
hoàn chỉnh cần thiết về lời ca và sinh hoạt dân ca.
Hạn khuống là một hình thức tổng hợp của văn nghệ dân gian Thái.
Các tác giả Cầm Biêu, Sa Phong, Lò Văn Sĩ đều góp phần giới thiệu hình
thức văn nghệ này. Đó là tất cả những gì nói về sinh hoạt văn nghệ dân gian
Thái trong trạng thái nguyên hợp của nó. Tình hình giới thiệu, xuất bản vừa
được điểm qua trên đây cho thấy cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách thấu đáo và hệ thống về “khắp” Thái. Đó vừa là thuận
lợi nhưng cũng là khó khăn, thách thức đối với tôi khi nghiên cứu đề tài
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu về “khắp” của người Thái ở huyện Mường La trước
hết nhằm hệ thống lại các làn điệu khắp của người Thái, từ đó có cái nhìn
tương đối đầy đủ, toàn diện về những đặc điểm nổi bật, độc đáo của những
điệu“khắp” Thái. Đồng thời luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của người Thái
ở huyện Mường La cùng hòa chung vào nền văn hóa Việt Nam “Tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc”.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 5
Khóa luận tốt nghiệp

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nói đến “khắp” là nói đến lĩnh vực văn hóa tinh thần, do vậy phạm vi
khá rộng, song do khả năng có hạn, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu một số làn
điệu “khắp” phổ biến của người Thái đen ở huyện Mường La.
5. Phương pháp nghiên cứu
− Tra cứu tài liệu
− Xã hội học văn hóa
− Khảo sát thực tế
− Phương pháp phân tích, tổng hợp
− Phương pháp thống kê, phân loại
6. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu “khắp” Thái trong đời sống văn hoá dân gian của người
Thái đen ở Mường La, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trưng vốn có
trong dân gian nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn
là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về “khắp”của người
Thái ở Mường La
Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu
thập được một số lượng những điệu “khắp” còn đang lưu truyền trong đời
sống dân gian ở Mường La.
Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bước
đầu đề xuất hướng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân
tộc các dân tộc thiểu số Việt Nam đang bị mai một dần, bởi đây là một công
việc cụ thể, có ý nghĩa cho những người có ý thức về sự hiện diện và vai trò
của “khắp”.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 6
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1. Khái quát về người Thái ở Mường La

Chương 2. “Khắp” và các điệu “Khắp” của người Thái ở huyện Mường
La
Chương 3. “Khắp” trong đời sống xã hội của người Thái ở huyện
Mường La
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 7
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI Ở MƯỜNG LA
1.1. Điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Mường La là huyện miền núi của Sơn La, cách Thành phố Sơn La 41
km về phía Đông Bắc, có toạ độ địa lý: 21
0
15' - 21
0
42' vĩ Độ Bắc; 103
0
45' -
104
0
20' kinh độ Đông. Phía Bắc và phía Đông giáp tỉnh Lào Cai và Yên
Bái; phía Đông Nam giáp huyện Bắc Yên; Phía Tây giáp huyện Quỳnh
Nhai và huyện Thuận Châu; Phía Nam giáp huyện Mai Sơn và Thành phố
Sơn La.
Do vị trí địa lý như vậy, Mường La có nhiều điều kiện thuận lợi trong
giao lưu văn hoá, trao đổi hàng hoá với các địa phương khác. Đây là những
thế mạnh mà Đảng bộ, chính quyền địa phương đã xác định tập trung khai
thác lợi thế trong thời gian tới.
- Địa hình

Huyện Mường La nằm ở độ cao trung bình từ 500- 700m so với mặt
nước biển, phía Đông và phía Đông Bắc của huyện là những dãy núi cao,
địa hình thấp dần về phía Nam và dọc theo 2 bờ sông Đà. . Sông Đà là sông
lớn nhất chảy qua huyện. Một số sông suối lớn khác là Nậm Mu, Nậm
Chiến, Nậm Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia. Khi đập thủy điện Sơn La được hoàn
thành, hồ thủy điện Sơn La sẽ chiếm một phần không nhỏ diện tích toàn
huyện.
- Khí hậu
Mường La có khí hậu nhiệt độ gió mùa, khí hậu trong năm chia làm 2
mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, vào mùa mưa thường
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 8
Khóa luận tốt nghiệp
kèm theo lốc và lũ quét tại các sông suối đầu nguồn. Mùa khô chịu ảnh
hưởng của gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc và khí hậu tiểu vùng sông Đà,
mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 20-26
0
C, lượng mưa bình quân là 1.347mm/năm, độ ẩm trung bình
là 85%.
- Đất đai
Huyện Mường La có tổng diện tích đất tự nhiên là 142,205.00 ha (theo
tống kiểm kê đất đai năm 2005), hầu hết là rừng núi (chiếm hơn 90% diện
tích). Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 89.792 ha, chiếm 63,14% tổng
diện tích đất tự nhiên của huyện; diện tích đất phi nông nghiệp (đất ở và đất
chuyên dùng) là 3.725 ha chiếm 2,6%; diện tích đất chưa sử dụng là 48.844
ha chiếm 34,34%, diện tích này chủ yếu là đối núi chưa sử dụng với 38.154
ha, trên diện tích này chủ yếu là thảm thực vật xen cây lùn, còn lại 10.69 ha
là núi đá không rừng cây.
- Hệ thống thủy văn
Trên địa bàn có sông Đà chảy qua theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, với

tổng chiều dài 50km. Có 5 con suối lớn là suối Nậm Mu, Nậm Chiến, Nậm
Trai, Nậm Pàn, Nậm Pia chảy qua với chiều dài 200km và nhiều con suổi
nhỏ rải rác trong toàn huyện. Hệ thống sông suối ở đây nhiều thác ghềnh
đều chảy trên các sườn dốc, dồn nước vào các thung lũng hẹp, đổ ra sông
suối lớn, nên chế độ dòng chảy rất thất thường gây khó khăn cho thuyền bè
đi lại trên sông, nhất là vào mùa nước lũ . Nhưng cũng vì thế mà chúng đã
tạo ra một nguồn năng lượng sức nước vô tận phát triển thủy điện. Hiện
nay, trên địa bàn huyện đã và đang xây dựng 13 công trình thuỷ điện lớn,
vừa và nhỏ. Tổng công suất khoảng 3.200MW, trong đó thuỷ điện Sơn La
là công trình thuỷ điện lớn nhất nước ta.
- Giao thông
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 9
Khóa luận tốt nghiệp
Đến nay huyện đã có 16/16 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, nhưng
do địa hình hơn 90% là đồi núi nên việc đi lại còn gặp rất nhiều khó khăn.
Đường giao thông liên bản hầu như chưa có, việc đi lại giữa các bản chủ
yếu là dùng ngựa hoặc đi bộ trên những con đường mòn nhỏ. Vào mùa mưa
việc đi lại của bà con còn gặp nhiều khó khăn hơn, nhiều khi không đi được
vì đường bị sạt lở, các rãnh nước từ khe núi chảy ra làm chia cắt, ngập
đường. Riêng hệ thống giao thông khu trung tâm huyện khá phát triển, bao
gồm đường thủy, đường hàng không, đặc biệt là mạng lưới giao thông
đường bộ bao gồm các tuyến đường vào nhà máy, đường vào các khu mỏ
khai thác, tuyến đường 106, các tuyến nội thị…đều được hoàn thiện theo
tiêu chuẩn, chủ yếu là đường nhựa, đường bê tông và cấp phối phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm” các tuyến đường liên xã, liên bản, đến các điểm tái định cư
thủy điện Sơn La được đầu tư xây dựng, góp phần thúc đẩy phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Có thế thấy, với địa hình núi cao, sông rộng, nhiều suối, có đường thuỷ,
đường bộ và đường không nên Mường La có vị trí chiến lược về kinh tế,

chính trị, quân sự quan trọng trong khu vực Tây Bắc nói chung. Được đánh
giá là huyện giàu tiềm năng về đất đai, môi trường, tài nguyên, trong đó có
thế mạnh là phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Tuy có nhiều tiềm năng nhưng
Mường La vẫn có tên trong danh sách 5 huyện nghèo của tỉnh Sơn La do
phải đối mặt với những khó khăn như: địa bàn rộng, giao thông đi lại khó
khăn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp; tập quán canh tác lạc hậu, các tệ
nạn xã hội diễn biến phức tạp, nhất là khi tiếp nhận thêm gần 1 vạn công
nhân đến làm việc trên công trường Nhà máy thuỷ điện Sơn La.
1.1.2. Điều kiện văn hóa xã hội
- Các đơn vị hành chính
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 10
Khóa luận tốt nghiệp
Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính, gồm 01 thị trấn là thị trấn Ít Ong
và các xã: Chiềng Hoa, Tạ Bú, Mường Chùm, Chiềng San, Nậm Păm, Pi
Toong, Mường Bú, Hua Trai, Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng
Muôn, Chiềng Ân, Chiềng Công, Ngọc Chiến. Trong đó có 7 xã thuộc diện
xã đặc biệt khó khăn, nằm trong Chương trình 135 giai đoạn II là các xã:
Chiềng Lao, Nậm Giôn, Mường Trai, Chiềng Muôn, Chiềng Ân, Chiềng
Công, Ngọc Chiến.
- Dân số, dân tộc
Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2009, dân số toàn huyện là
16.449 hộ với 85.974 nhân khẩu. Trong đó số dân của huyện là 79.779
người, còn lại là công nhân phục vụ thủy điện Sơn La. Mật độ dân số bình
quân 60 người/km2 với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,86%.
Về dân tộc, toàn huyện có 6 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm:
dân tộc Thái chiếm 63,21%; Mông 16,98%; Kinh 12,65%; La Ha 5,91%;
Kháng 0,93%; Khơ Mú 0,32%.
Cũng như nhiều vùng khác của Tây Bắc, các dân tộc ở Mường La chủ
yếu phân bố như sau:
Người Thái tập trung tại vùng thấp, dọc sông suối, có cánh đồng rộng.

Sinh sông chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, cây hoa màu trên nương và
đánh bắt thuỷ sản. Người La Ha, Kháng, Khơ Mú sinh sống ở rẻo giữa bằng
nghề làm nương, thu hái lâm sản. Người Mông sống ở vùng cao bằng nghề
trồng cây trên nương là chủ yếu
Người La Ha không dệt vải mà chỉ trồng bông đem đổi với người Thái
để lấy quần áo mặc nên trang phục của người La Ha tương tự như trang
phục của người Thái đen.
- Giáo dục, y tế
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 11
Khóa luận tốt nghiệp
Về giáo dục, huyện luôn giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở và xây dựng 13 trường
học đạt chuẩn quốc gia.
Trong công tác y tế tương tự như nhiều vùng núi, dân tộc trong cả
nước, hệ thống y tế của huyện Mường La bao gồm: bệnh viện huyện, bác
sĩ Đối với từng xã trong huyện đã có đủ trạm y tế xã, nhân viên y tế thôn
và y tế tư nhân (rất ít). Trong đó bệnh viện huyện à đơn vị có vai trò chính
trong việc quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong huyện
- Các đặc điểm văn hóa
Là huyện miền núi có nhiều dân tộc anh em sinh sống (trong đó người
Thái chiếm đa số nhưng chủ yếu là Thái đen). Mỗi dân tộc đều có những
bản sắc văn hóa riêng nhưng các nền văn hoá đó không độc lập tồn tại
(trong cái chung có cái riêng) mà hoà quyện, bổ trợ lẫn nhau tạo nên một
văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhìn chung đồng bào các dân tộc trong huyện đều có chung truyền
thống: dũng cảm, cần cù, sáng tạo trong lao động, có tinh thần yêu nước,
ngoan cường đấu tranh chống áp bức, bóc lột, tính tình thật thà, chất phác,
ưa phóng khoáng, rộng lượng và rất mến khách. Không những vậy, nhân
dân trong huyện còn có tinh thần đoàn kết và tính cộng đồng cao : “Tuy
khác bản nhưng chung mường; ở khác phương nhưng chung vùng; ở mỗi

người một khe suối nhưng chung một vận mệnh” (ca dao Thái).
1.2. Khát quát về người Thái ở huyện Mường La
1.2.1. Tên gọi, dân số và sự phân bố
Người Thái Mường La tự gọi mình là Phủ Tay hay Côn Tay đều có
nghĩa là người. Người Thái ở Mường La thuộc ngành Thái Đen.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 12
Khóa luận tốt nghiệp
Huyện Mường La trước đây rộng: 1.421,0 km2, dân số: 67,294 người,
trong đó: Thái: 48,969 người (1999). Hiện nay, người Thái ở huyện Mường
La có 54.344 người, chiếm 63,21% dân số toàn huyện.
Tên Mường La xuất hiện từ thế kỷ XII. Đó là tên đông nghĩa với tên
Mường Lò. Theo Quam tô mương (Kể chuyện bản mường) của người
Mường La nói: khi Lạng Chượng đưa người Thái tới Mường La, đã dựng
nhà để cúng tổ tiên tại nơi trung tâm “ mường”.Ngày cúng tổ tiên họ Lò
( họ quý tộc) là ngày “hài” ( tức ngày bính) nên đặt địa điểm dựng nhà cúng
đó là bản hài. Nay xác định đó là bản Hài thuộc xã Chiềng An huyện
Mường La. Xưa kia vì bản Hài là trung tâm châu Mường nên gọi là “Viềng
hài”.
Trung tâm châu mường gọi là Chiềng An nên tên châu mường cũng gọi
là Chiềng An. Những “ mường nhỏ” thuộc phạm vi châu mường có: Mường
Trai hay Chiêng Nghiêm, Mường Bú hay Chiềng Biên, Mường Chùm,
Mường Chiến. Theo Quam tô mương, khoảng thế kỷ XV sau đời Ta Ngần ở
Mường La có Duông Căm làm thủ lĩnh, Mường La bắt đầu dần dần phát
triển thế lực. đên khoảng thế kỷ XVII đời thủ lĩnh Bun Pành, Mường La
tách hẳn khỏi Mường Muội thành châu mường lớn mạnh. Bước sang thế kỷ
XVIII đời thủ lĩnh Bun Phanh, Mường La đã trở thành châu mường có ảnh
hưởng khắp vùng “ Mười sáu châu Thái”.
Khoảng thời Lê mạt, Mường La được Trinh Sâm đặt là châu Sơn La.
Như vậy thế kỷ XVIII triều đinh cũng xác nhận Mường La là một châu
mường tách khỏi ảnh hưởng của Mường Muổi (Thuận Châu).

Hiện nay, Mường la vẫn là huyện thuộc tỉnh Sơn La. Tại huyện có thị
xã Sơn La.
1.2.2. Nguồn gốc của người Thái
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 13
Khóa luận tốt nghiệp
Theo Quam tô mương Mường La: người Thái đã có mặt ở Mường La từ
ngàn năm nay. Họ là người Thái đen, có nguồn gốc xa xưa từ Mường Ôm,
Mường Ai (thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc), từ thời ông Lạng Chượng
dẫn đoàn người Thái đen từ Mường Lò đi mở mang bờ cõi. Khi ông vượt
qua đèo Khâu Pha, (có nghĩa là sừng trời, thuộc huyện Mù Cang Chải, Yên
Bái), ngược theo con suối, thấy một vùng đất rộng và tốt, sơn thuỷ hữu tình.
Ông cho xây bản lập mường ở đây. Nhưng không thấy một người bản địa
nào sống ở đây cả, nên ông mới gọi mường này là Mường Lạ (mường trống
không), những người đời sau gọi chệch thành Mường La. Sau này ông mới
biết những người dân bản địa đã chốn vào một khu rừng rậm rạp gọi là
Đông Mệt (gần nghĩa với rừng bí mật, nay vẫn còn địa danh này). Ông cho
đặt chiềng
(1)
tại khu đất có núi đá bao quanh, có ao nước trước mặt gọi là
Chiềng An. Ông Lạng Chượng cho khai phá đất làm ruộng, lập nên Viềng
(2)
Hài và Viềng Giảng. Sau đó ông tiếp tục dẫn đoàn quân lên Mường Muổi,
giao cho Khun Dãng làm chủ Mường La. Từ Mường La, một số thủ lĩnh đã
mở thêm một số mường mới là Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai…
Mỗi mường có một thủ lĩnh làm chủ đất gọi là phìa, các mường này gọi là
mường phìa. Đến thế kỷ thứ XV (thời Lê), một số mường lân cận sáp nhập
thành một mường lớn, gọi là mường chu hay châu mường. Đứng đầu châu
mường là An nha. Châu Mường La gồm có: Mường La là mường trung
tâm, có bộ máy thống trị của Châu Mường; các mường khác gọi là mường
ngoài gồm: Mường Bú, Mường Chùm, Mường Trai, Mường Chiến và lộng

Mường Pia (lộng là mường nhỏ). Sau khi hoà bình lập lại, Châu Mường La
trở thành huyện Mường La. Năm 1961, vùng mường phìa Mường La cũ
chuyển thành Thị xã, các mường còn lại vẫn thuộc huyện Mường La.
1
()
Chiềng là trung tâm của một mường
2
(

)
Viềng là nơi thành luỹ quân sự để bảo vệ Chiềng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 14
Khóa luận tốt nghiệp
Người Thái đen ở huyện Mường La ngày nay, cơ bản thống nhất với
người Thái đen ở Thành phố Sơn La về các đặc điểm văn hoá (ăn mặc, nói
năng, chữ viết, tập quán…) vì Thành phố Sơn La ngày nay chính là trung
tâm của cả vùng Châu Mường La ngày trước. Vì vậy, các điệu hát ở Thành
phố Sơn La cũng chính là điệu hát của Mường La. Tuy vậy mỗi vùng trong
huyện lại có những làn điệu riêng nữa, như Mường Trai có điệu “hua co
lôm” mà buồn và cô đơn, người ta thường hát hát một mình với gió, Pi
Tong có điệu hát riêng phù hợp với đời sống văn hóa của họ.
1.2.3. Hoạt động kinh tế
- Canh tác ruộng nước và nương rẫy
Người Thái ở Mường La là cư dân nông nghiệp trồng trọt, trong đó
canh tác ruộng nước là chính, nương rẫy chỉ phổ biến ở một số bộ phận cư
dân. Với bộ nông cụ làm ruộng như cày, mai, xẻng; các biện pháp kỹ thuật
liên hoàn (làm đất, làm mạ và gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch); đặc biệt là
hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền” mương, phai, lái, lin và cọn nước,
cùng với các nghi lễ tín ngưỡng liên quan, qua nhiều thế hệ, họ đã đúc kết
và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất. Hiện nay, người Thái đã

chuyển sang làm 2 vụ lúa. Vụ mùa cấy tháng 2, thu hoạch tháng 5; vụ
chiêm cấy tháng 7 thu hoạch thnág 10. Việc thu hoạch được làm gọn và
nhanh hơn gồm: gặt - đập - quạt - nhập kho.
Tại các xã vùng cao, vùng sâu, người Thái chủ yếu sinh sống bằng canh
tác nương rẫy. Đó là lối canh tác “phát đốt, gieo trồng”, theo chu kỳ vòng
quay khép kín từ 4-6 năm. Rẫy được phân loại theo địa thế đất (rẫy dốc, rẫy
bằng), theo kỹ thuật sử dụng (dùng cuốc, dùng cày) và thời gian canh tác
(rẫy vụ một, rẫy vụ 2). Bộ công cụ làm rẫy gồm nhiều loại với chức năng sử
dụng khác nhau. Công cụ phát có dao, rìu, móc, khều; công cụ gieo hạt gồm
gậy chọc lỗ bịt sắt hoặc không bịt sắt; công cụ làm cỏ có nạo, cuốc; và nhíp
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 15
Khóa luận tốt nghiệp
dùng để gặt. Hiện nay, nhiều mô hình trình diễn khuyến nông làm vườn
rừng xuất hiện ở nhiều nơi.
- Chăn nuôi
Trước đây người Thái có tập quán nuôi trâu thả rông trong những Púng
rào giậu kín, tự chúng sống, sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày. Nay
thì họ đã nuôi trâu theo gia đình, có chuồng trại riêng. Còn chăn nuôi lợn,
gà, vịt, ngan, ngỗng thì rất phát triển. Vật nuôi vừa trở thành sản phẩm hàng
hóa, vừa sử dụng trong lễ tết. Trong những năm gần đây, ở huyện Mường
La nghề chăn nuôi đã có bước phát triển mạnh theo hướng hàng hóa, nhất là
chăn nuôi đàn gia súc ăn cỏ. Nhiều vùng các hộ chăn nuôi đã đầu tư xây
dựng chuồng trại, chuyển hướng nuôi nhốt và chú trọng tiêm phòng bệnh
cho gia súc, vì thế đàn gia súc phát triển cả về số lượng và chất lượng.
- Săn bắt, hái lượm
Nhờ ruộng đất, đời sống của người Thái có phần sung túc hơn các cư
dân quanh vùng. Nhưng họ vẫn chưa thoát được cảnh tháng ba, ngày tám,
những năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra. Họ không bị chết đói là nhờ
có rừng bao quanh có khả năng cung cấp cho họ các thứ củ quả hay thân
cây có chất bột. Lại thêm, từng mùa rừng cung cấp các loại rau quả, hạt dại,

nấm, mộc nhĩ, măng, rêu đá, các loại côn trùng. Dưới khe suối có cá, tôm,
cua, ốc, cá nhỏ…Những thứ đó thường xuyên tham gia vào hai bữa ăn
chính hàng ngày của đồng bào. Nên hái lượm vẫn đóng một vị trí nhất định
trong đời sống kinh tế của người Thái ở Mường La.
Rừng còn cung cấp cho đồng bào nguyên vật liệu để làm nhà, đan lát
những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những cây thuốc và những
lâm thổ sản quý. Trong rừng các loại chim, thú là đối tượng để đồng bào
săn bắt.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 16
Khóa luận tốt nghiệp
Trái với săn bắt, nghề đánh cá phát triển hơn. Người Thái có câu “Páy
hin pá, má kin lẩu” (đi ăn cá về uống rượu) nói lên việc ăn cá là một thú vui
ở người Thái.
- Ngành nghề thủ công
Nghề thủ công của người Thái ở Mường La rất phong phú, phát triển
đạt trình độ cao. Có thể nói phụ nữ Thái là những thợ dệt chăm chỉ, lành
nghề, sản xuất không những đủ chăn, màn , quần áo cho gia đình mà còn
đem trao đổi. Sản phẩm nổi tiếng của người Thái Mường La là vải thổ cẩm,
với những hoa văn đặc sắc, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp. Nghề đan lát là
công việc của đàn ông. Họ thường đan những vật dụng hàng ngày (nong,
nia, dần, sang ). Ngoài ra còn có những nghề thủ công mang tính chuyên
nghiệp như nghề rèn nông cụ xẻng, cuốc, lưỡi cày, dao, kéo…Họ còn biết
dùng bàn xoay, độ nung cao trong nghề làm gốm tạo thành những chum,
vò, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt trình độ kĩ thuật và mĩ thuật.
-Trao đổi, mua bán
Trong một xã hội hầu như không có chợ búa, việc trao đổi hàng hóa
thường chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu vẫn là hình thức
hàng đổi hàng với những cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh
thoảng, có những chuyến hàng ngược sông hay những đoàn ngựa, bò của
các thương nhân người Lào, người Miến đem các nhu yếu phẩm đến bán

hoặc trao đổi lấy những sản phẩm của địa phương.
1.3. Các đặc trưng văn hóa
1.3.1. Về văn hóa vật chất
Văn hoá vật chất là một trong những trụ cột nâng đỡ thiết chế bản
mường. Ăn, ở, mặc là những giá trị văn hoá vật chất tiêu biểu cơ bản của
nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thung lũng nói chung trong đó có đồng
bào Thái.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 17
Khóa luận tốt nghiệp
- Nhà ở
Từ lâu người Thái ở Mường La đã quần cư thành bản. Mỗi bản bao
gồm đất ở, đất canh tác (ruộng, nương), bãi cỏ chăn nuôi, khu rừng, khu
nghĩa địa và nguồn nước sông suối riêng. Bản lớn có tới hàng trăm nóc nhà,
nơi ít ruộng bản chỉ có mười nóc nhà. Các bản người Thái ở chân sườn núi
trông xuống cánh đồng. Mỗi bản có tên gọi riêng theo truyền thuyết địa
phương, theo chức vụ của người trưởng bản.
Người Thái đều ở nhà sàn làm bằng gỗ, rất đẹp, chắc, dựng theo những
quy định được đặt ra từ đời này qua đời khác. Nhà của người Thái ở Mường
La thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà
bằng những khau cút theo phong tục từ xưa truyền lại.
Nói đến nhà sàn của người Thái là người ta thường nghĩ ngay đến nhà
sàn truyền thống của người Thái với kiểu liên kết khớp bằng mộng và buộc
các hệ thống kết cấu chịu lực: hệ thống dầm, sàn, bao che…mà không cần
dùng đến kim loại (đinh, ốc, vít…. ). Mái nhà thường được lợp bằng cỏ
gianh đan thành phên.
Trong nhà, rất ít vách ngăn, cột lại lẩn nên rất thoáng đãng, rộng rãi.
Đồ đạc trong nhà xưa rất đơn giản, thường chỉ thấy ghế mây để ngồi, phên
giải sàn, màn, đệm, chăn, hòm đựng quần áo Ngày nay nhà sàn của người
Thái ở Mường La cũng đã có nhiều nét được cải tiến. Do đời sống của đồng
bào ngày càng được nâng cao, ở một số nơi đã đưa khoa học tân tiến như:

mái lợp, sàn, nền của tầng trệt có sử dụng gạch, xi măng hệ thống khung
cột, dầm sàn có được cải tiến về kết cấu và phương pháp lắp dựng theo kiểu
của người Kinh với mục đích cải thiện về công năng và thẩm mỹ của ngôi
nhà, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy vậy, ngôi nhà sàn của người
Thái vẫn giữ nguyên được dáng vẻ cũng như giá trị văn hóa truyền thống
vốn có của nó.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 18
Khóa luận tốt nghiệp
- Trang phục
Tất cả các ngành, các nhóm địa phương Thái đều có trang phục cơ bản
giống nhau về đường nét tạo dáng đến cách ăn mặc; khác nhau ở chỗ mỗi
ngành, mỗi nơi có một kiểu cách trang trí các chi tiết hoặc chọn màu sắc
khác nhau.
Trong trang phục Thái ở Mường La, đặc sắc hơn cả là trang phục nữ,
vừa đẹp, gọn nhưng không cầu kỳ, vừa làm nổi bật những đường nét của
thân hình phụ nữ. Màu sắc được sử dụng rất khéo. Trên nền đen hay trắng,
áo điểm hàng khuy bạc đơn giản nhưng trạm chổ tinh vi. Nó đã trở thành
niềm tự hào không chỉ của riêng người Thái mà còn là một nét văn hoá rất
đặc sắc trong kho tàng văn hoá vật thể của dân tộc Việt. Về cơ bản trang
phục nữ của dân tộc Thái gồm:
Váy: (xỉu hoặc nôổng): Váy Thái được tạo từ 4 tấm vải khổ 0,4 m, dài
từ ngang thắt lưng tới chấm gót. Phía trên có cạp váy hay đầu váy (hua nịu)
cao khoảng 10 cm bằng vải xanh hoặc đỏ. Gấu váy cũng khâu nẹp, thường
là màu đỏ cao khoảng 3 cm. Váy có lót bên trong, thường là màu trắng,
may ngắn hơn váy ngoài độ 15 cm. Váy phổ biến là màu đen, đôi khi màu
chàm. Khi mặc váy có thể gấp trước bụng hay bên sườn. Ở nhà họ thường
mặc váy để dài, lao động trên ruộng nương thì xắn váy lên theo cách túm
một góc gấu váy nâng ngược lên cài vài cạp váy một cách khéo léo, váy ôm
khép kín từ hai đầu gối trở lên. Ngày nay nhiều phụ nữ Thái có thói quen
mặc váy ngắn ngang bọng chân để tiện dụng khi lao động, sinh hoạt, nghỉ

ngơi. Váy mặc lao động thường ngày bằng vải thường. Váy mặc ngày lễ tết,
váy cưới may bằng lụa, lanh, sa tanh, nhung.
Thắt lưng: (xai ẻo) thường bằng lụa tơ tằm nhuộm màu xanh lá cây, hai
đầu can thêm hai mảnh vải đỏ thêu thùa có rua ba phía. Khi xai ẻo quấn vào
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 19
Khóa luận tốt nghiệp
giữ chặt cạp váy, hai miếng vải để hai đầu được giắt vào trước bụng hoặc
lệch sang bên hông. Thắt lưng không có trang trí trừ hai đầu có tua.
Áo: (xửa) gồm có:
Xửa hổm nôm là cái áo lót bên trong, may bằng một tấm vải khoét lỗ
chui đầu, phủ trùm hai vai xuống ngang ngực, đính khuy hai bên sườn.
Ngày nay họ đã bỏ kiểu áo này, dùng áo lót như phụ nữ Kinh.
Xứa cỏm là cái áo ngắn. Áo may dài tay hẹp, thân cũng hẹp, bó sát
người. Áo chỉ ngắn đến thắt lưng. Khi mặc gấu áo giấu trong thắt lưng. Áo
phụ nữ Thái nổi bật là hàng khuy dọc trước bụng. Khuy có thể tết bằng vải
hoặc bằng bạc, hình con bướm, ve sầu gọi là măk pém. Ngày nay hiếm
bạc thì làm bằng nhôm. Giải thích về Măk pém có nhiều cách: măk là quả,
nghĩa bóng là nhành cây, bông hoa mà phụ nữ là đại diện cho sự sinh nở
nên Măk là khai hoa kết quả. Còn pém là bám vào, mà theo quan niệm của
người Thái chiếc áo là nơi trú ngụ của hồn người, cho nên sự sinh sôi bám
vào áo người phụ nữ. Măk pém còn được giải thích như sau: bên khuyết là
giống cái (nữ), bên khuy là giống đực (nam), con gái chưa chồng hàng cúc
mang số lẻ như còn chờ đợi cặp đôi ; có chồng, hàng cúc mang số chẵn như
mong ước cuộc sống hạnh phúc vẹn . Áo ngắn dùng khi lao động may bằng
vải thường; áo lễ hội, cưới xin may bằng lụa, sa tanh. Áo thường màu trắng,
màu đen,màu xanh lam hoặc màu lá câu. Bộ váy áo thắt lưng của phụ nữ
Thái vừa kín đáo vừa phô bày những đường cong tuyệt mỹ làm nên nét
quyến rũ.
Đối với đàn ông thì mặc quần dài màu đen hoặc trắng bằng vải dệt của
Thái, được may theo kiểu quần ống “chân què” của người Kinh. Áo chon

am giới ngắn, xẻ ngực cài bằng nút vải (thắt nút), có hai túi dưới và túi
ngực, đầu chít khăn mỏ rìu.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 20
Khóa luận tốt nghiệp
Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái Mường La mặc Âu phục
khá phổ biến, nhưng phụ nữ vấn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang
sức theo truyền thống dân tộc.
Khăn piêu: phụ nữ chưa chồng thì búi tóc thả xuống sau gáy, khi có
chồng búi tóc chổng ngược đỉnh đầu sau đó đầu đội chiếc khăn piêu. Piêu là
một tấm vải bông nhuộm tràm hai đầu có nhiều hoa văn, chỉ màu phối hợp
sặc sỡ. Dân ca Thái có câu:
Em se sợi thành vóc hoa dâu
Em dệt cửi thành gấm vân chéo
Em dệt tơ thành đóa hoa vàng
Người các bản các mường muốn khóc
Đều ước ao được em thêu khăn
Khăn piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông
giá lạnh. Khăn piêu không những là vật trang sức quan trọng trong lúc đi
chơi hay trong lễ hội mà còn là tín vật của tình yêu: khi người con gái tặng
piêu cho người yêu là đã trao cả tấm tình.
Xà cạp (pe păn kha) là miếng vải như cờ đuôi nheo nhuộm chàm. Phụ
nữ Thái quấn xà cạp quanh bắp chân khi đi làm đồng, vừa để chống giá
lạnh vừa để bảo vệ da ở bắp chân.
Trang sức của phụ nữ Thái có: trâm cài tóc (may khắt cẩu), đôi hoa tai
(cóng ku), vòng cổ (pok cô), đôi vòng đeo hai cổ tay (pok khẻn), bộ xà tích
(pua sỏoi) đều được làm bằng bạc, chạm trổ đẹp, công phu. Đó là những đồ
trang sức quý giá nhất.
- Ẩm thực
Lương thực chính của người Thái ở Mường La là gạo nếp. Người Thái
có cách nấu xôi (đồ xôi) rất là ngon. Trước khi nấu, gạo nếp được đem

ngâm qua một thời gian nhất định (thường là qua một đêm). Sau đó gạo
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 21
Khóa luận tốt nghiệp
được đem ra đãi sạch và cho vào “chõ” để đồ xôi.Tới khi mùi cơm nếp tỏa
ra khắp nhà thì lúc đó là xôi đã chín. “Chõ”đồ xôi của người Thái ở Mường
La được làm bằng gỗ đặc biệt (mạy sọ) rất tốt cho việc đồ xôi Cơm nếp
thơm ngon ăn cùng với các món ăn được chế biến từ thịt thú rừng., hay các
món cá và các loại rau rừng là các bữa ngon và thú vị của người Thái ở đây.
Các món ăn Thái được chế biến rất ngon. Họ thường thích ăn luộc, đồ,
nướng, ăn sống hoặc tái chín cùng các loại gia vị nhiều chất chua, cay,
chát Từ thịt của một số động vật nuôi như lợn, gà, bò hay các loại thịt thú
rừng họ săn bắt được có thể chế biến ra nhiều món đặc sản. Đặc biệt từ các
loại cá tươi, người Thái có những món cá đặc sản như món cá gỏi, món cá
hấp, cá pỉnh tộp. Món nặm pịa là nước sữa đắng ở ruột non trâu, bò, hươu,
nai…là món không thể thiếu được trong các bữa tiệc long trọng của người
Thái đen ở Mường La. Trong ăn uống người Thái thích uống rượu. Rượu là
đồ uống phổ biến của người Thái bao gồm những loại như: rượu nếp, rượu
cần và đặc biệt là có lẩu vạng (rượu không cất) của Mường Chiến.
Đồng bào ưa hút thuốc lào và phụ nữ thường thích ăn trầu.
- Phương tiện vận chuyển
Người Thái ở Mường La vận chuyển bằng gánh đôi dậu đựng các thứ,
đi rừng đi núi thì đeo gùi, dùng ngựa cưỡi, thồ hàng. Dọc các dòng sông nổi
tiếng xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
1.3.2. Về văn hóa xã hội
- Quan hệ xã hội
Dân tộc Thái ở Mường La mới chỉ phát triển đến chế độ xã hội bản
mường (tương đương với giai đoạn phát triển tiền dân tộc quốc gia so với
các dân tộc khác trên thế giới). Với nguyện vẹn bộ máy Phìa-Tạo quản lý
và điều hòa xã hội Bản Mường có từ hàng ngàn năm cho đến trước tháng 8
năm 1945.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 22
Khóa luận tốt nghiệp
Về phương thức sản xuất, kinh tế-văn hóa xã hội người Thái ở Mường
La đã phát triển đến trình độ phát triển chung của cộng đồng cùng ngữ hệ.
Họ đã khai phá và canh tác trên vùng đất mà hiện nay họ đang cư trú, lập
nên Bản nên Mường của mình trên cơ sở nên kinh tế nông nghiệp lúa nước
kết hợp với nương rẫy. Ruộng của họ đều là ruộng công của Mường. Tùy
theo chức vị của các thành viên trong Mường mà họ nhận được một số
ruộng để canh tác và có nghĩa vụ đóng góp nông sản cho Chảu Mường
(Chủ Mường).
Theo nhiều tài liệu còn lưu lại ở Mường La cũng giống như các
Mường khác mỗi Mường có "Án Nha" (Chúa Mường) đứng đầu và cai
quản chung, dưới Chảu Mường là các Phìa, Tạo đứng đầu và cai quản các
các mường phìa và Bản Xã hội Thái chia làm hai tầng lớp chính: tầng lớp
trên là quan lại và quý tộc, tầng lớp dưới là dân.
- Quan hệ dòng họ gia đình
Trong một mường, một bản của người Thái có nhiều dòng họ cùng cư
trú. Có dòng họ quý tộc như Cầm, Bạc, Sa, Đèo… có dòng họ dân gốc Thái
như Lò, Lộc, Lự, Cà… Quan hệ dòng họ của người Thái được biểu hiện ở
hai khía cạnh:
Khía cạnh tô tem giáo: Tức những dòng họ gốc Thái thường có một
hèm liên quan đến một sinh vật, một vật vô tri hay một hành động trùng tên
với dòng họ. Ví dụ: họ Lò không ăn thịt chim táng Lò, không ăn măng lò;
Họ Quàng kiêng giết, ăn thịt hổ; họ Cà kiêng giết, ăn chim cốt ca (bìm bịp)
… …
Khía cạnh quan hệ dòng họ liên minh biểu hiện ra:
Quan hệ Ải nọng là anh em cùng dòng họ, có "ải nọng huôm po" (anh
em cùng cha), "ải nọng huôm pú" (anh em cùng ông), "ải nọng huôm pẩu"
(anh em cùng cụ)
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 23

Khóa luận tốt nghiệp
Quan hệ Lúng ta là các thành viên nam bên vợ (gọi là "lung ta phạ
bóm"), các thành viên nam bên mẹ (gọi "lung ta me"), các thành viên nam
bên bà nội (gọi là "lung ta da")
Quan hệ Nhính xao là các thành viên nam bên anh/em rể ("nhinh xao"
hay "nhinh xao chảu"), các thành viên nam bên con rể ("nhinh xao mang
lụk") Quan giữa "lung ta" và "nhinh xao" là quan hệ thông gia, nhưng
được phân cấp rõ ràng.
Ba quan hệ này xuất phát từ hình thái hôn nhân thuận chiều, tàn tích
của liên minh thị tộc. Trong ba quan hệ đó, quan hệ giữa những người Ải
noọng là cơ bản, quan hệ của những người có trách nhiệm duy trì sự trường
tồn của dòng họ, chăm lo đến sự phát triển của dòng họ ngày thêm hưng
thịnh. Quan hệ lúng ta rất quan trọng biểu thị chủ yếu là vị trí của ông cậu
đối với cháu ngoại
Trong xã hội Thái, gia đình là một tế bào xã hội quan trọng với tính
chất phụ quyền rõ rệt. Biểu hiện ở việc mỗi nóc nhà được tượng trưng bằng
một chiếc cột chính (sâu hẹ hay sâu cốc), ở đầu cột treo các vật thiêng như
hình thần Rùa bằng lông gà, xương thú, xương cá to. Ông chủ nằm bên cột
chính, cạnh bàn thờ ma nhà như để khẳng định tính chất phụ quyền của gia
đình. Con gái như người ngoài. Con dâu phải đổi theo họ chồng. Họ không
bao giờ được tự quyết định một việc gì ngoài việc sinh con và công việc nội
trợ. Tuy vậy, người Thái rất tôn trọng phụ nữ và quý con gái, trước đây ở
Mường La đàn ông khi lấy vợ phải ở rể vài năm khi đôi vợ chồng đã có con
mới về ở bên nhà chồng.
- Hôn nhân và cưới xin
Ngày xưa, do xã hội Thái là một xã hội khá phát triển vì vậy việc hôn
nhân của con cái là do bố mẹ định đoạt và có mang tính chất mua bán.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 24
Khóa luận tốt nghiệp
Ngày nay trai gái yêu nhau và đi đến hôn nhân là do tự nguyện sau khi đã

xin phép sự đồng ý của gia đình.
Trong cưới xin của người Thái, có nhiều điều thú vị và trải qua các trình tự:
Ôm chóm (đánh tiếng), mai (đặt dấu), vay (ăn hỏi), duông vịa (thử thách
rể), cáo, xống khươi (cưới, tiễn rể), xú phả (nhập phòng), paư máư dam
hươn (dâu mới đến thăm nhà chồng), cưới đong(cưới xin dâu về nhà
chồng), tỏn pạư (đón dâu về nhà chồng).
- Sinh đẻ và nuôi dạy con cái
Sinh đẻ và nuôi dạy con cái là bổn phận tự nhiên của con người. Bất cứ
ai, dân tộc nào cũng đều chú trọng đến tập quán này. Nhưng mỗi dân tộc sẽ
có cách thức sinh đẻ và nuôi dạy con cái khác nhau. Với người Thái ở
Mường La khi biết con dâu có thai, cả gia đình có trách nhiệm và tìm mọi
cách để cho người có thai mạnh khỏe và thoải mái nhất. Việc tiếp theo là
người có thai phải ăn kiêng một số thức ăn nhất là thịt, cá và một số việc
làm có thể gây hại cho mẹ và cái thai trong bụng.
Người Thái có tập quán đẻ ngồi ngay cạnh bếp lửa, lúc này người
chồng không được rời vợ một bước. Người chồng phải ngồi sau lưng bà vợ
để vừa làm chỗ tựa vừa cùng chia sẻ sự đau đớn của người vợ lúc vượt cạn.
Đây là một tập quán đầy tính nhân văn của người Thái.
Người Thái rất chú ý đến việc dạy dỗ con cái và việc dạy dỗ cũng được
thực hiện theo một quan niệm rất nhân văn và rất cụ thể. Đồng bào có câu:
“Tặp lục tặp kẻn ta
Tặp ma tặp mậy cậy”
Dịch:
“Đánh con đánh bằng mắt
Đánh chó đánh bằng gậy”
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga 25

×