Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn gia đình với vấn đề giáo dục trẻ trong độ tuổi thiếu niên ở xã, huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.23 KB, 23 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong ý thức cộng đồng của các dân tộc Việt Nam, gia đình luôn được coi là
tổ ấm, là môi trường đầu tiên phát sinh và nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, tạo
nên nhân cách người Việt Nam. Gia đình có một vị trí quan trọng trong cuộc đời
của mỗi con người. Trong bất kì xã hội nào, gia đình luôn giữ một vai trò, vị trí
quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội. Ngày nay, gia đình đã trở thành
mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quan
tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt
thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia
đình”. Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, gia đình với tư
cách là một thiết chế xã hội đặc thù có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và bảo
vệ các giá trị văn hóa của dân tộc, gia đình là nơi tiếp nhận, kế thừa và chuyển giao
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những biến
đổi về cơ cấu và quy mô của gia đình luôn gắn liền với những biến đổi về kinh tế –
xã hội. Trong những năm cuối thế kỉ 20, gia đình ở nước ta và nhiều nước trong
khu vực có sự thay đổi nhanh chóng, những thay đổi ấy được thể hiện qua tỉ lệ ly
hôn gia tăng, không ít gia đình tan vỡ, hầu hết các giá trị gia đình đang bị thử thách
trước những thay đổi kinh tế – xã hội. Ở nước ta mặt trái của nền kinh tế thị trường
XHCN đã làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của thế hệ trẻ đặc biệt là lớp thanh
thiếu niên.
Bảo vệ thế hệ trẻ - đó là trách nhiệm không chỉ của toàn xã hội mà trước hết
là của mỗi gia đình.
Là giáo viên giảng dạy bậc THCS, đối tượng là thanh thiếu niên, các em có
đặc điểm tâm sinh lí phát triển – lứa tuổi đang tập làm người lớn tôi nhận thấy: các
em dễ bị ảnh hưởng của các tác động xã hội. Để làm tốt công tác giáo dục trên địa
bàn, mỗi nhà trường rất cần đến sự phối hợp của gia đình trong việc giáo dục trẻ.
1
Qua học tập, nghiên cứu lí luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề Gia đình, đồng thời qua thực tiễn ở địa phương, xuất phát từ môi trường
công tác, tôi đã chọn đề tài: “Gia đình với vấn đề giáo dục trẻ trong độ tuổi thiếu
niên ở xã , huyện ”.


Kết cấu của đề tài bao gồm:
- Đặt vấn đề.
- Phần I: Cơ sở lí luận.
- Phần II: Thực trạng gia đình và giáo dục gia đình đối với tuổi thiếu niên ở
xã X
- Phần III.Bài học kinh nghiệm.
- Phần IV: Kiến nghị và kết luận.
2
PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Định nghĩa gia đình.
Gia đình là hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và
củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thống. Yếu tố tình cảm là nét bản chất nhất
của gia đình. Nhưng xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị
tình cảm, tâm lí mà còn là một tổ chức kinh tế – tiêu dùng, một môi trường giáo
dục – văn hoá, một cơ cấu – thiết chế xã hội.
2. Mối quan hệ gia đình – xã hội.
Khi nói đến xã hội thì phải nói đến gia đình bởi gia đình chính là tế bào của
xã hội, gia đình hạnh phúc thì xã hội phồn vinh. Gia đình luôn giữ vai trò vị trí
quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội.
Mác - Ăng ghen đã dựa trên quan điểm duy vật để khẳng định vai trò của gia
đình trong sự phát triển của xã hội: Ph.Ăngghen đã nhận định: “Theo quan điểm
duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần
thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người,
là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản
xuất đó quyết định; một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là
do trình độ phát triển của gia đình” (C.Mác và PH.Ăngghen: Toàn tập, NXB
CTQG, H, 1996, T21, tr 44).

Sự ổn định và phát triển của gia đình có ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn
định và phát triển của xã hội và quốc gia. Quan niệm biện chứng đó được thể hiện
cô đọng qua câu nói: “Dân giàu thì nước mạnh”, “Nước mất thì nhà tan”.
Như vậy gia đình gắn liền với sự phát triển của xã hội, nó giữ vai trò quyết định
trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế, văn hoá và ổn định xã hội. Giữa gia
đình và xã hội có mối quan hệ gắn bó hữu cơ.
Trước hết, gia đình có vai trò đối với sự phát triển kinh tế, mỗi gia đình tự
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Họ tự làm ra từ các sản phẩm đơn giản, đến
sản phẩm phức tạp, tinh xảo, tuỳ theo nhu cầu và sự phát triển của xã hội đòi hỏi.
Các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp tư nhân hay trang trại, cũng đều do các
thành viên của từng gia đình tham gia dưới sự điều tiết của nhà nước. Có thể nói,
không có sự tham gia sản xuất của từng cá nhân, của từng gia đình thì xã hội không
thể tồn tại và phát triển được. Mặt khác gia đình còn là nơi tiêu thụ các sản phẩm.
Vì vậy nó thúc đẩy nền kinh tế của xã hội phát triển.
Về mặt văn hoá, nền văn hoá của một dân tộc, một quốc gia hình thành và
phát triển đều bắt nguồn từ nền văn hoá của mỗi gia đinh, tất nhiên có sự loại trừ
những cái không phù hợp, chắt lọc những cái đẹp từ những tinh hoa đó, nó bồi đắp
nên nền văn hoá của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đứng về góc độ văn hoá thì mỗi
3
gia đình là một nhóm nhỏ tâm lí xã hội được thông qua các mối quan hệ huyết
thống đã phản ánh trình độ văn hoá của xã hội.
Gia đình góp phần cho sự phát triển của xã hội, đồng thời sự phát triển mọi
mặt của xã hội quyết định sự biến đổi của gia đình cả về nội dung lẫn hình thức.
Trong xã hội nguyên thuỷ, trình độ lực lượng sản xuất phát triển thấp kém, cá nhân
không tách rời tập thể, đã tạo nên hình thức gia đình tập thể quần hôn. Gia đình tập
thể quần hôn có đặc trưng là: Kinh tế cộng đồng nguyên thuỷ, chế độ mẫu hệ,
không có áp bức và bất bình đẳng giữa vợ và chồng cũng như giữa các thành viên,
quan hệ tính giao bừa bãi.
Trong xã hội nô lệ, lực lượng sản xuất phát triển, xã hội nảy sinh hình thức
gia đình cá thể một vợ một chồng. Đó là kết quả trực tiếp của việc hình thành sở

hữu tư nhân và sự phân hoá giai cấp. Gia đình cá thể là gia đình đầu tiên nên không
dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế tức là trên
thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thuỷ. Tất nhiên kết
quả này cũng vẫn còn của quy luật đào thải tự nhiên và ở đây cần nói thêm một
nguyên nhân của quy luật tình cảm. Người phụ nữ ngày càng cảm thấy ê chề với
kiểu tính giao quá rộng rãi và họ dần tiến tới nhu cầu chỉ sống với một người đàn
ông nhất định. Từ đó gia đình trở thành một đơn vị kinh tế riêng lẻ kết cấu và quy
mô thu hẹp hơn, quan hệ vợ chồng, bố mẹ với con cái mang tính phục tùng bất bình
đẳng, nạn ngoại tình và mại dâm phát triển. Trong xã hội phong kiến, gia đình 1 vợ
1 chồng nhưng gia trưởng, độc đoán, trọng nam khinh nữ.
Trong xã hội phong kiến đó là giai đoạn vua – tôi, nó ảnh hưởng tới gia đình,
xuất hiện tính trọng nam khinh nữ, con cái phải phục tùng theo sự sắp đặt của cha
mẹ có nghĩa là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.
Trong xã hội tư bản, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
được khẳng định, hôn nhân có tính toán không dựa trên cơ sở tình yêu.
Trong xã hội XHCN gia đình đã có nhiều tiến bộ và khởi sắc, không có sự
bất bình đẳng, các thành viên trong gia đình tôn trọng lẫn nhau, lắng nghe ý kiến bổ
sung cho nhau để cùng hoàn thiện.
3. Các chức năng của gia đình.
- Chức năng sinh đẻ – tái sản xuất ra con người là chức năng đặc thù nhất của
gia đình. Chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm riêng rất tự nhiên của cá
nhân về sinh con đẻ cái, đồng thời mang ý nghĩa chung lớn lao là cung cấp
những công dân mới, bảo đảm sự phát triển liên tục và trường tồn của loài
người. Việc sinh đẻ diễn ra ở từng gia đình, nhưng lại quyết định mật độ dân
cư của quốc gia và quốc tế – một yếu tố vật chất cấu thành của tồn tại xã hội,
liên quan chặt chẽ đến phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Tuỳ theo từng vùng, vấn đề sinh đẻ được khuyến khích hay hạn chế về số
lượng. Nhưng, giảm tốc độ tăng dân số, nhằm nâng cao chất lượng sống là hướng
phấn đấu của nhiều quốc gia hiện nay. Điều đáng lưu ý là việc sử dụng ngày càng
4

nhiều thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại tác động vào chức năng sinh đẻ
của gia đình đã đem lại nhiều kết quả tích cực, nhưng cũng gây ra nhiều vấn đề
phức tạp và tiêu cực.
Trong gia đình mới, coi trọng chức năng sinh đẻ của gia đình là phải trực
tiếo quan tâm đến điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, sử dụng hợp lí các
thành tựu khoa học – công nghệ cho việc mang thai và sinh nở tốt hơn cho các bà
mẹ. Sinh đẻ có kế hoạch là một nội dung trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội của xã hội XHCN. Mục đích sinh đẻ có kế hoạch là nhằm thực hiện việc
tái sản xuất con người phù hợp và hài hoà với những điều kiện đảm bảo cụ thể, để
lớp người mới ra đời, có khả năng phát triển trí lực và thể lực, đưa lại niềm vui và
hạnh phúc cho gia đình.
- Chức năng kinh tế. Khi hình thành gia đình cá thể hôn nhân một vợ
một chồng thì chức năng kinh tế đóng vai trò là cơ sở cho các chức năng
khác của gia đình.
Tất nhiên, cùng với quá trình lực lượng sản xuất xã hội hoá, ở trong từng
lúc, từng nới, kinh tế gia đình biến đổi với nhiều dạng phong phú và có vị trí
khác nhau. Trong thời kì quá độ lên CNXH còn sản xuất hàng hoá, còn nhiều
thành phần kinh tế và khi kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa đáp ứng đầy
đủ nhu cầu phong phú của cuộc sống thì kinh tế cá thể và tiểu chủ, hoạt động
phần lớn dưới hình thức kinh tế hộ gia đình, có tiềm năng to lớn, lâu dài. Hoạt
động kinh tế hộ gia đình có những mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi dạng
gia đình cụ thể, nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập, làm giàu chính đáng, tạo
nên điều kiện vật chất để thúc đẩy các chức năng khác của gia đình, góp phần
phát triển gia đình và xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước cần có chính sách giúp
đỡ để các hộ gia đình làm ăn có hiệu quả; đồng thời hướng dẫn, vận động kinh
tế cá thể, tiểu chủ từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện.
- Chức năng tiêu dùng là hoạt động thường xuyên của gia đình. Chức năng này
hướng vào mua sắm những sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và tinh thần
của gia đình. Thông qua chức năng này, tiêu dùng gia đình, trước hết để tái tạo
thể chất và tinh thần cho các thành viên, sau nữa góp phần định hướng và kích

thích sản xuất xã hội. Thường thì chức năng tiêu dùng phụ thuộc nhiều vào
thu nhập và đóng góp chung từ kết qủa lao động của các thành viên trong hoạt
động kinh tế gia đình hoặc xã hội.
Xã hội ngày càng phát triển thì càng thúc đẩy chức năng tiêu dùng gia
đinh. Thực tế cho thấy, việc tiêu dùng vật chất và tinh thần của con người
ngày càng được mở rộng và đa dạng bằng hệ thống các dịch vụ phúc lợi xã
hội. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không thay thế hoàn toàn chức năng tiêu dùng
của gia đình. Tổ chức tiêu dùng cho đời sống vật chất và tinh thần của gia đình
sẽ đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu phong phú, duy trì sắc thái và sở thích
sinh hoạt riêng của từng gia đình và của các thành viên.
5
Trong CNXH, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện bình đẳng xã hội,
tạo thuận lợi cho gia đình nghỉ ngơi, hưởng thụ hợp lí và chính đáng các thành
quả lao động của mình. Động viên các gia đình nâng cao thu nhập, trên cơ sở
đó thực hiện tiêu dùng lành mạnh, nâng cao kiến thức khoa học cho công việc
nội trợ, sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại để nâng cao chất
lượng cuộc sống.
- Chức năng nuôi nấng, giáo dục
“Con người muốn trở thành con người cần phải có giáo dục”. Đó là
một chân lí đã được đúc kết trong lịch sử phát triển của nhân loại. Từ nhỏ,
con người không được giáo dục, lớn lên không khác gì cây hoang, cỏ dại ở
ngoài đồng và nếu không được sống trong môi trường gia đình và xã hội thì
cũng không khác mấy các loài động vật. Trong lịch sử hơn 30 trường hợp trẻ
con bị lạc vào rừng được sói nuôi dưỡng đã trở thành “người sói”. Nhà
truyền giáo Xinh (ấn độ) đã phát hiện ra trong một đàn Sói có hai bé gái là
Amala và Camala đã được cứu sống. Nhưng chẳng bao lâu sau Amala bị
chết, còn Camala được bà nuôi dưỡng thêm 9 năm, lúc đầu chỉ có thể đi bằng
4 chân, ban đêm đi lang thang, hú vang như chó sói, dần dần đi được bằng
hai chân, tập uống nước bằng cốc. Nhưng dù kiên trì, chăm sóc, dạy dỗ,
nhưng bà cũng chỉ làm cho “cô sói” biết 30 từ, không thể thêm nữa.

Tất cả những trường hợp của “đứa trẻ hoang dã” dù sau khi được trở
lại với xã hội người, đều có kết quả tương tự, khó lòng trở thành một con
người thực thụ.
Vậy, quá trình nuôi dưỡng, giáo dục con người bắt đầu từ trong bào
thai của mẹ (thai giáo) và khi cất tiếng chào đời là ở trong môi trường gia
đình. Sứ mệnh nuôi dưỡng, giáo dục đứa trẻ từ khi mới ra đời không thể
giao phó, chuyển nhượng cho ai có trách nhiệm hơn, tốt đẹp hơn là gia đình.
Gia đình là “trường học” đầu tiên đối với cuộc đời của mỗi con người. Từ
khi cất tiếng khóc chào đời, việc nuôi dưỡng để phát triển thể chất, chống
mọi bệnh tật không ai có thể thay được ”thiên sứ” là người mẹ bằng những
dòng sữa ngọt ngào, ấm áp, bằng sự vuốt ve ân ái, bằng sự thấu cảm tinh tế,
kì diệu của người mẹ với con.
Những nghiên cứu của các nhà tâm lí học và giáo dục học cho rằng,
trong những năm đầu của cuộc đời, hệ thần kinh của trẻ là mềm mại hơn cả
nên thường rất dễ hình thành những phản xạ có điều kiện, tức là những nét
cơ bản của cá tính, những thói quen nhất định. Trên cơ sở đó những phẩm
chất tâm lí, những yếu tố nhân cách của con người dần dần được định hình.
Theo A.C.Makarenkô:”Những gì mà bố mẹ đã làm cho con trước 5 tuổi, đó
là 90% kết quả của quá trình giáo dục ”. Kinh nghiệm giáo dục truyền thống
của nhân dân ta cũng khẳng định:
6
“Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn trẻ thơ”
Giáo dục gia đình không những có tác dụng mạnh mé, có ý nghĩa sâu
sắc đối với tuổi trẻ thở, mà còn có ý nghĩa đối với cả cuộc đời của con người
lúc trưởng thành cho đến lúc tuổi già. Nói cách khác là những phẩm chất
đạo đức, tính cách, cũng như năng lực chuyên biệt của bố mẹ thường ảnh
hưởng rất lớn đối với con cái trong gia đình. Vì vậy, nhiều nhà khoa học đã
nhận định:”Có một thực tế lạ lùng là phần lớn những thiên tài đều có bà mẹ
tuyệt vời và họ nhận được ở người mẹ nhiều hơn là người cha”.

Việc chăm lo nuôi nấng, giáo dục của cha mẹ đối với trẻ ở trong gia
đình trước hết là nhằm giữ gìn và phát triển thể chất, không để trẻ lâm vào
tình trạng đói, rét, suy dinh dưỡng, sống lay lắt, ốm đau bệnh tật ảnh hưởng
đến thể trạng của người dân tương lai, đến nòi giống dân tộc. Hơn thế nữa,
cha mẹ phải thường xuyên tạo ra môi trường sống có ý nghĩa và tác dụng
giúp con cái hình thành và phát triển toàn diện nhân cách người công dân
chân chính tương lai. Thực chất của việc tổ chức giáo dục này là xã hội hoá
đứa trẻ, biến sinh thể tự nhiên thành một thực thể có khả năng hoà nhập,
thích ứng, sống, học tập, làm việc theo yêu cầu biến đổi của xã hội. Quá trình
xã hội hoá đứa trẻ trong gia đình về đại thể diễn ra như sau:
+ Ngay lúc còn thai nhi, đặc biệt từ thuở lọt lòng, đứa trẻ đã được tiếp xúc
với nền văn hoá gia đình mà tiêu biểu là trân trọng vị trí, công lao của cha
mẹ(“Công cha như núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra”), yêu thương quý mến những người có quan hệ máu mủ ruột rà: ông,
bà, anh em, chú bác, cô dì, (một giọt máu đào hơn ao nước lã; anh em
như chân với tay); đề cao tình nghĩa vợ chồng, đạo lí giữa cha mẹ và con
cái; giữa gia đình và họ hàng, làm xóm, cộng đồng (một con ngựa đau cả
tàu bỏ cỏ); tiếp thu những kinh nghiệm về mọi mặt, nhất là về nghề
nghiệp, về lao động sản xuất (đời cha cho chí đời con, đẽo vuông rồi lại
đẽo tròn mới nên , hoặc: nước, phân, cần, giống, )
+ Từ nền văn hoá gia đình, đứa trẻ càng trưởng thành càng tiếp xúc với
nền văn hoá rộng lớn hơn, phong phú hơn qua giao tiếp, học tập, lao
động, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội, hoạt động tập thể, Nó dần dần
chiếm lĩnh một cách chọn lọc, sáng tạo nền văn hoá xã hội ở mức độ cần
thiết, nhất định.
+ Từ đứa trẻ ở trong gia đình biết vị trí của mình là con, là cháu, người
anh, người chị dần dần ý thức được là người công dân tương lai của đất
nước với những nghĩa vụ, quyền lợi được xã hội chấp nhận.
Tất nhiên, quá trình xã hội hoá đứa trẻ không hoàn toàn do giáo dục gia
đình quyết định. Giáo dục gia đình – cha mẹ với tư cách là nhà giáo dục

đầu tiên khơi nguồn, mở mang cho việc hình thành và phát triển những
7
yếu tố nhân cách gồc, tạo cơ sở rất quan trọng cho đứa trẻ tiếp thu có hiệu
quả giáo dục của nhà trường, đoàn thể xã hội.
Giáo dục gia đình có những nét đặc thù mà giáo dục nhà trường, giáo
dục xã hội không thể có, đó là tình cảm yêu thương tràn trề của cha mẹ đối
với con cái, nên họ sẵn sàng hi sinh các điều kiện vật chất và tinh thần, dành
mọi thuận lợi cho quá trình giáo dục, miễn sao con cái nên người. Đồng thời,
giáo dục gia đình là một nền giáo dục toàn diện, cụ thể hoá và cá biệt hoá rất
cao: cha mẹ giáo dục cho con cái cách đi, đứng, nói năng, chào hỏi người cao
tuổi, ông bà, cô, dì, chú bác, cho con trai, con gái cũng khác nhau, mang
đặc điểm giới tính.
Từ những vấn đề đã được trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng nuôi
nấng và giáo dục con cái là chức năng đặc biệt quan trọng của gia đình,
không có một đơn vị, tổ chức nào có thể thay thế được. Do đó, việc hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả giáo dục gia đình luôn luôn là một vấn đề thời sự
có ý nghĩa rất mới mẻ, rất cấp thiết của mọi dân tộc, mọi quốc gia. Chính vì
vậy mà còn phải chống lại những quan điểm cho rằng, trong xã hội hiện đại
chức năng giáo dục trẻ của gia đình đã được chuyển giao cho các thiết chế xã
hội như nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo và phổ thông, còn gia đình chỉ có chức
năng sinh đẻ và liên kết tình cảm.
Trong hiện tượng của một nền kinh tế theo cơ chế thị trường còn bề
bộn, nhiều tệ nạn xã hộ phát triển lan tràn, tác động xấu đến mọi lứa tuổi.
Giáo dục gia đình cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng cực kì nguy hiểm
đó. Nếu các bậc cha mẹ lơ là không quan tâm đến việc nuôi dạy con cái;
không biết cách giáo dục con cái; hoặc lao vào con đường làm ăn kinh tế phi
pháp, thiếu gương mẫu trong cách sống, lối sống của một người công dân
chân chính, tất yếu sẽ đem lại những hậu quả thảm hại đối với con cái trong
gia đình.
- Chức năng cân bằng những nhu cầu tâm sinh lí cho các thành viên của mình.

Nhiều vấn đề tâm – sinh lí thuộc giới tính, thế hệ, cần được bộc lộ và giải
quyết trong phạm vi gia đình giữa những người thân. Sự hiểu biết tâm – sinh lí
cá nhân, sở thích của nhau để ứng xử phù hợp, chân thành và tế nhị, tạo bầu
không khí tinh thần ổn định trong gia đình, làm cho các thành viên yên tâm
sống và làm việc.
Đáp ứng hợp lí nhu cầu tình dục vợ chồng là nội dung đáng quan tâm
của tâm – sinh lí gia đình. Điều này góp phần đáng kể củng cố hôn nhân và
hạnh phúc gia đình.
Tôn trọng tính đa dạng, phong phú của cá nhân mỗi thành viêc trong
sự hoà thuận của gia đình, giáo dục giới tính, xây dựng quan điểm tình dục
lành mạnh – hợp với đạo đức, với sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình, là
8
những nhiệm vụ thời sự, mang tính xã hội – nhân văn sâu sắc của sự nghiệp
xây dựng gia đình mới.
Gia đình là thiết chế đa chức năng và những chức năng trên đây là
những chức năng cơ bản nhất. Thông qua việc thực hiện những chức năng
này mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến bộ chung
của xã hội. Các chức năng được thực hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau.
Việc phân chia những nội dung của chúng chỉ là tương đối. Nhiều khi, các
chức năng được thể hiện đan xen trong một công việc hoặc nhiều hoạt động
của gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn lịch sử khác nhau, nội dung và vị
trí của mỗi chức năng có sự biến đổi phù hợp. Mọi thành viên – không kể
tuổi tác, thế hệ, đều có trách nhiệm vun đắp cho tổ ấn gia đình và tuỳ theo
cương vị và thoả thuận vụ thể mà tham gia vào thực hiện các chức năng của
gia đình.
4. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về vấn đề gia đình và việc xây dựng gia
đình mới XHCN.
* Quan điểm 1: Vận dụng sáng tạo các định hướng xây dựng gia đình XHCN.
Phải thực hiện xây dựng gia đình mới khác về nhiều mặt so với gia đình cũ
trước đây. Gia đình mới hình thành gắn liền với những biến đổi toàn diện của

CNXH. Trong thời kì quá độ lên CNXH, các điều kiện hình thành gia đình mới
không xuất hiện và có tác dụng đầy đủ ngay lập tức, do vậy gia đình mới cũng ra
đời và hoàn chỉnh dần từng bước. Nhiều yếu tố của gia đình cũ còn ảnh hưởng
trong các tầng lớp dân cư. Xây dựng gia đình mới bắt đầu từ việc cải tạo những gia
đình cũ theo tinh thần CNXH và song song với việc giáo dục lớp thanh niên đến
với tình yêu và hôn nhân tiến bộ. Do xã hội đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế
việc chuyển biến hình thành yếu tố mới sẽ ở mức độ khác nhau trong các gia đình ở
từng cụm dân cư, tuy vậy trong thời kì quá độ lên CNXH vẫn cần thiết những định
hướng chủ yếu để xây dựng mới như sau:
- Gia đình mới của CNXH ra đời kế thừa những nét đẹp của gia đình truyền thống
đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại về gia đình – gia đình truyền thống
được hun đúc lâu đời trong lịch sử dân tộc.
Phải ngăn chặn được những hiện tượng tiêu cực, mạnh dạn lựa chọn và sử
lí hợp lí những yếu tố mới nảy sinh và quan trọng hơn là biết tiếp thu những nội
dung tiến bộ của thời đại không phải là cách tân giản đơn mà phải phù hợp với
truyền thống dân tộc của gia đình và sự phát triển chung của xã hội.
- Phương hướng quan trọng để hình thành ngày càng nhiều các gia đình mới là
thực hiện hôn nhân tiến bộ. Coi tình yêu chân chính là cơ sở tinh thần chủ yếu,
là yếu tố quyết định của hôn nhân.
- Các thành viên trong gia đình có quan hệ bình đẳng và nề nếp thương yêu và có
trách nhiệm với nhau là phương hướng chủ yếu của việc xây dựng gia đình mới.
9
- Xây dựng gia đình mới trong XHCN là bảo đảm quyền tự do li hôn, Lênin đã
viết:”Thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức đối với
phụ nữ”
* Quan điểm 2: Đảng coi chính sách gia đình là một bộ phận chính của chính
sách xã hội.
Đại hội VI của Đảng đã mở ra giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng XHCN. Việc khắc phục tình trạng quan liêu bao cấp mở rộng dân chủ
tinh thần “Tất cả vì con người“ nhất là việc đổi mới chính sách kinh tế trong đó chú

ý thích đáng đến kinh tế gia đình, đã tác động trực tiếp đến xây dựng gia đình, ý
thức xây dựng gia đình của mọi thành viên, mọi tầng lớp xã hội được nâng lên. Đặc
biệt lợi ích gia đình nhất là lợi ích kinh tế, làm giàu chính đáng cho gia đình đã trở
thành động lực mạnh mẽ, các chính sách xã hội – dân số kế hoạch hoá gia đình –
giáo dục – y tế đã được cụ thể hoá tới từng địa phương. Luật hôn nhân gia đình
được bổ sung sửa đổi được Quốc hội nước ta thông qua có hiệu lực từ 01/01/2001
gồm 13 chương và 110 điều quy định chi tiết từng điều khoản thi hành từ đó nâng
cao trách nhiệm của mọi người trong việc xây dựng gia đình đảm bảo văn minh
tiến bộ.
* Quan điểm 3: Xây dựng gia đình mới gia đình văn hoá phải là trách nhiệm của
mọi người mọi lực lượng và mọi tổ chức chính trị xã hội.
* Quan điểm 4: Xây dựng gia đình mới phải gắn liền với kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội của từng vùng từng địa phương và trong cả nước.
* Quan điểm 5: Phải trang bị kiến thức xây dựng hạnh phúc cho mọi người dân
đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên theo từng lứa tuổi, với những nội dung và hình
thức sao cho phù hợp với từng vùng từng địa phương nhất là vùng sâu vùng xa.
10
PHẦN II – THỰC TRẠNG CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC
GIA ĐÌNH
I- THỰC TRẠNG CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.
Kể từ năm 1986 đến nay, với chủ trương của Đảng và nhà nước chuyển nền
kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chấp nhận ganh đua,
cạnh tranh, chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo đã làm cho đất nước và gia đình có
biến đổi mạnh mẽ: Cấu trúc gia đình ít nhân khẩu, ít thế hệ ngày càng phổ biến,
tính đa dạng nhiều chiều của cá nhân trong gia đình cũng hết sức phong phú. Tính
phong phú, cơ động về nghề nghiệp trong gia đình theo sự điều tiết của cơ chế thị
trường đã tạo nên sự gia tăng và thu nhập của các gia đình khác nhau, cả của mỗi
thành viên trong gia đình cũng khác nhau, do quy luật cạnh tranh của nhiều thành
phần kinh tế trong cơ chế thị trường đã làm cho đồng tiền chi phối các hoạt động

trong đời sống, làm nảy sinh phát triển nhiều tệ nạn xã hội, báo hiệu về sự xuống
cấp đạo đức đặc biệt đối với thế hệ thanh thiếu niên. Tệ nạn có nguy cơ lan nhanh
vào nhà trường. Gia đình phải trực tiếp gánh chịu kết quả tốt hay xấu về sự hình
thành và phát triển nhân cách của con cái mình.
Hiện nay, vấn đề giáo dục gia đình đang gặp những khó khăn cơ bản, đó là :
Nền kinh tế thị trường tạo cho các gia đình nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần cho mọi người song cũng bộc lộ những mặt tiêu cực đến
việc hình thành và phát triển nhân cách con người theo định hướng XHCN, trước
hết là đối với vấn đề giáo dục gia đình.
Chức năng kinh tế cuốn hút các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến
việc chăm sóc con cái, nhiều gia đình làm ăn thua lỗ phá sản, thậm chí tan vỡ.
Môi trường xã hội vây quanh gia đình và nhà trường bị ô nhiễm trầm trọng: Các
luồng văn hoá dâm ô, kích dục,bạo lực từ nước ngoài đã len lỏi vào trong nhiều
tầng lớp dân cư ở thành phố và nông thôn. Các tệ nạn xã hội, hành vi sùng bái đồng
tiền đã làm đảo lộn nhiều giá trị nhân văn vốn có từ xưa trong các gia đình. Theo
kết quả điều tra ở một số địa phương trong cả nước thì có 82% các bà mẹ cho rằng
nguyên nhân dẫn đến trẻ hư là do ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội bắt đầu từ người
lớn.
Điều kiện kinh tế vật chất của đại bộ phận gia đình không theo kịp gia tốc
phát triển của xã hội đã tạo ra mâu thuẫn thường xuyên giữa sự tăng tốc về mọi mặt
mang tính xã hội và khả năng thích ứng có hạn của từng gia đình, từng cá nhân.
Trình độ học vấn, kiến thức của đa số các bậc cha mẹ không còn đáp ứng
được cho con cái theo yêu cầu của việc giáo dục con người của xã hội mới. Gia
đình chuyển giao một số chức năng cho nhà trường, xã hội do đó gia đình ít có điều
kiện theo dõi, giám sát giúp đỡ con cái.
11
Nền văn minh công nghiệp đã tác động mạnh mẽ làm cho tốc độ phát triển
tâm lí của trẻ nhanh, trong khi quan niệm, phương pháp giáo dục của cha mẹ chưa
thay đổi, có thể xảy ra xung đột dẫn đến hậu quả đáng tiếc trong gia đình.
Sự mất ổn định trong đời sống gia đình như li hôn, có bố mẹ hoặc người thân

nghiện hút, cờ bạc, tiền án, tiền sự hoặc thiếu gương mẫu của cha mẹ trong làm ăn,
sinh sống như buôn gian, bán lận, lừa đảo, cũng đã tác động tiêu cực rất mạnh
mẽ đến con cái làm cho chúng chán nản, thất vọng phải bỏ nhà lang thang.
Một số gia đình có điều kiện kinh tế đầy đủ nhưng thiếu quan tâm đến con
cái, phó mặc cho nhà trường, thả lỏng các em tự phát triển trong môi trường xã hội
bao quanh, cho con tiêu xài thoải mái, thoả mãn mọi yêu cầu của chúng.
Tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và sự chênh lệch đời sống giữa nông
thôn và thành thị đã làm cho một số thanh thiếu niên con nhà nghèo bỏ gia đình ra
thành phố kiếm sống trở thành trẻ lang thang.
II. THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI ĐỘ
TUỔI THIẾU NIÊN Ở XÃ , HUYỆN
A - Đặc điểm tình hình.
1. Vị trí địa lí: Xã nằm ở phía tây nam của huyện
Xã có 4525 nhân khẩu, gồm 4 thôn. Có 1258 hộ.
Diện tích đất canh tác là: 280ha, bình quân 618m
2
/người. Diện tích đất hành
chính là: 459,05ha.
2. Về chính trị: Xã có một ban đảng uỷ gồm 9 đồng chí, hội đồng nhân dân có 24
đồng chí, Uỷ ban nhân dân có 11 đồng chí. Trình độ học vấn 100% có trình độ
THPT. Trình độ chuyên môn có 2 đồng chí tốt nghiệp Đại học còn lại là Trung
cấp. Trình độ lí luận chính trị có 4 đồng chí đạt trình độ trung cấp. Trình độ
quản lí nhà nước có 1 đồng chí.
3. Về kinh tế
- Nhân dân xã sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa. Năng suất bình quân 12
tạ/ ha/ năm. Tổng thu nhập GDP đạt 24.043 Triệu đồng. Bình quân thu nhập
đầu người từ năm 2000 đến 2004 đạt 3,1 triệu đồng/ người/ năm.
- Cơ cấu kinh tế: Năm 2000 nông nghiệp chiếm 75%, tiểu thủ công nghiệp
12%, dịch vụ 13%. Năm 2003 nông nghiệp chiếm 64,2%; tiểu thủ công
nghiệp 13,8%; dịch vụ 22%.

- Thành tựu về kinh tế nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế
gia đình là nhiệm vụ hàng đầu được Đảng bộ xác định và tập trung lãnh đạo
để tạo điều kiện cho sản xuất phát triển Đảng bộ đã chỉ đạo cho UBND xây
dựng bộ máy quản lí HTX dịch vụ nông nghiệp, hướng dẫn nhân dân áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tạo điều kiện cho nhân dân sản xuất thuận
lợi. Giá trị nông nghiệp bình quân từ năm 2000 đến năm 2003 đạt 18 tỉ đồng
chiếm tỉ trọng 75% tổng sản phẩm xã hội.
12
- Về lương thực: Năm 2000 đạt 10 tấn/ ha. Tổng sản phẩm lương thực đạt
2645 tấn. Năm 2004 đạt 12 tấn/ ha. Tổng sản phẩm lương thực đạt 3174 tấn.
- Về chuyển đổi cơ cấu cây trồng: Chuyển 23 ha diện tích bãi trũng sang vùng
chuyển đổi VAC. 14 ha cấy lúa sang trồng rau màu xuất khẩu.
Nhìn chung trong những năm qua kinh tế địa phương có bước phát
triển khá, đời sống nhân dân được cải thiện và ổn định. Năm 2003 số hộ giàu
chiếm 12%, hộ khá chiếm 25%, hộ nghèo còn 6,5%. Không có hộ đói.
4. Về văn hoá xã hội.
Đời sống văn hoá xã hội của nhân dân được nâng cao. Toàn dân tích cực
thực hiện cuộc vận động đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, tích cực tham gia hoạt
động văn hoá, văn nghệ, TDTT, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, hoạt động từ
thiện, Sự nghiệp giáo dục, y tế ngày càng khởi sắc – trường Tiểu học được công
nhận chuẩn Quốc gia năm 2002, các trường học trong xã luôn đạt danh hiệu trường
tiên tiến của huyện.
Xã có 2 làng văn hoá là thôn Phù Liễn và thôn Nam Khê. Năm 2003 có
76,7% gia đình văn hoá; năm 2004 xã đăng kí 97,6% gia đình văn hoá.
Tình hình trật tự an ninh luôn ổn định.
* Những tồn tại:
- Cơ cấu kinh tế phát triển còn chậm.
- Tệ nạn xã hội số đề vẫn còn xảy ra lén lút ở một số xóm trong địa bàn xã.
II. Thực trạng gia đình – giáo dục gia đình ở xã
1. Thực trạng phát triển kinh tế hộ.

Trong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước,
với sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế hộ gia đình hoạt động
dưới nhiều hình thức: Vừa sản xuất, vừa phát triển kinh tế, vừa kinh doanh. Trong
6 tháng đầu năm 2004 tổng sản lượng lúa màu đạt 4854,7 triệu đồng. Thu nhập từ
chăn nuôi đạt 4165,3 triệu đồng. Bình quân thu nhập đầu người 3,1 triệu đồng/
người/ năm.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển, tổng số có 73 hộ buôn bán kinh
doanh dịch vụ. Có 21 xe vận tải công nông các loại, 12 máy xay sát, 8 điểm dịch vụ
bơm nước, 8 máy tuốt lúa, 6 điểm dịch vụ cơ khí nhỏ và sửa chữa, 15 điểm dịch vụ
may mặc, 3 hộ dịch vụ sản xuất hàng tiêu dùng, có 64 người đi lao động nước
ngoài.
Tăng thu ước đạt 1680 triệu đồng (7%/ năm)
Kinh tế hộ phát triển góp phần làm cho các gia đình ở xã có cuộc sống đầy
đủ hơn. Cũng từ đây sự giáo dục của gia đình đối với con cái, nhất là lứa tuổi thiếu
niên ở mỗi gia đình có sự khác nhau. Đa số gia đình có biện pháp giáo dục con
đúng đắn, ngoài thời gian đi làm, họ vẫn dành thời gian chăm sóc con cái, tạo điều
kiện về thời gian để cho con học tập, nhất là lớp cuối cấp. Một số gia đình vì mải
làm thêm để tăng thu nhập, con cái chưa được quan tâm đúng mức, các em chưa
13
được hưởng đầy đủ quyền đi học, quyền vui chơi, phải lao động cùng cha mẹ, nhất
là đối với những gia đình đông con, nghèo, nhiều em khi tan trường là vội về tham
gia nấu cơm, bèo cám lợn gà hoặc tranh thủ tát nước, gặt, cấy, giúp cha mẹ, các
em ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội nên việc giao tiếp, quan hệ xã hội
rất kém. Ở thôn Phù Liễn có nhiều gia đình chưa coi trọng việc học tập của con, khi
gia đình có công việc sẵn sàng cho con nghỉ học nhất là vào dịp Tết hàng năm
nhiều em phải nghỉ học để giúp gia đình đi chợ . Có một số gia đình đã cho con đi
xe máy mặc dù chưa đến tuổi, lại còn có gia đình không ngần ngại giao cho con
chuyên chở vật liệu xây dựng đi bán bằng xe công nông ngoài giờ học khi con mới
15 tuổi.
Một số gia đình do kinh tế mà chồng hoặc vợ, thậm chí cả 2 vợ chồng cùng

đi lao động ở nước ngoài, gửi con cái cho ông bà hoặc anh chị em trông nom.
Những gia đình này tuy kinh tế giàu lên nhanh chóng song con cái ít được quan tâm
giáo dục, có nhiều tiền để tiêu xài, sa vào những trò chơi vô bổ, ham chơi điện tử,
chơi số đề, hút thuốc lá, tổ chức chiêu đãi bạn bè ăn uống, chểnh mảng học hành
vi phạm nội qui của nhà trường, lưu ban.
Đặc biệt, ngày hè, việc học tập ở trường không còn là áp lực, các em có
nhiều thời gian nghỉ và tất nhiên các quán internet công cộng chính là những điểm
hẹn lí tưởng, tình trạng lãng phí thời gian và tiền bạc một cách vô ích vào Internet
của học sinh hiện nay đã trở thành vấn đề đáng quan tâm của gia đình và xã hội.
Tóm lại, nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đa dạng đã giúp cho nhiều
gia đình ăn nên làm ra, song những khó khăn , khắc nghiệt do nền kinh tế thị
trường gây nên cho các gia đình cũng không nhỏ. Đòi hỏi từng gia đình phải năng
động, sáng tạo, biết tổ chức làm kinh tế cho phù hợp để đảm bảo cuộc sống ấm no
cho từng thành viên, tạo điều kiện cho họ phát triển tri thức, văn hoá, xây dựng tổ
ấm gia đình và thúc đẩy xã hội phát triển.
2. Môi trường xã hội ở địa phương.
Đây là vấn đề được Đảng uỷ – HĐND – UBND xã đặc biệt quan tâm xây
dựng. Toàn xã có 2 làng văn hoá thôn Phù Liễn và thôn Nam Khê. Có 76,7 hộ đạt
danh hiệu gia đình văn hoá, 100% thôn xây dựng được qui ước thôn, đặt biệt là
thực hiện qui chế làm lành mạnh hoá việc cưới, việc tang. 100% Đảng viên đăng kí
thực hiện.
Tệ nạn mê tín dị đoan ít xảy ra trên địa bàn. Phong trào văn hoá, văn nghệ
phát triển mạnh, xã có 1 đội văn nghệ thôn P hoạt động sôi nổi, đem lời ca tiếng hát
phục vụ nhân dân trong xã. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, TDTT phát triển
mạnh. Kết quả đó đã giúp cho mỗi gia đình phấn khởi, tích cực lao động sản xuất,
góp phần xây dựng gia đình, xây dựng quê hương giàu mạnh, làm gương cho thế hệ
trẻ noi theo.
Bên cạnh những mặt tích cực, còn một số tồn tại như tệ nạn số đề vẫn tiếp
diễn ở một số xóm đã làm không ít gia đình điêu đứng, kinh tế sa sút, gia đình lục
14

đục, vợ chồng đánh chửi nhau, một số gia đình do vỡ nợ vì chơi số đề nên vợ phải
trốn sang Trung Quốc làm ăn còn chồng thì nghiện ngập, cờ bạc, con cái trở nên
thụ động, nhút nhát hoặc trở thành đứa trẻ hung dữ, phản ứng thái quá trước người
khác, cư xử thô bạo với những người xung quanh.
Xã có một điểm kinh doanh giải trí tư nhân dành cho thanh niên gọi là
“Điểm hẹn âm nhạc” – mặt tích cực là sinh hoạt văn hoá văn nghệ, giao lưu gặp gỡ
của thanh niên trong khu vực, song bên cạnh đó đầy rẫy những tiêu cực tác động
vào các em trong xã. ở đó là nơi gặp gỡ của nhiều tầng lớp, nhiều đối tượng – kể cả
bọn trộm cắp, nghiện hút, cờ bạc – trẻ em dễ bị lôi kéo, đầu độc.
Sự mất ổn định trong đời sống gia đình như li hôn mỗi năm có từ 2 – 3 vụ;
cha mẹ làm ăn thua lỗ, thua đề, cờ bạc, buôn gian bán lận mỗi năm 10 gia đình điều
này làm ảnh hưởng rất lớn đến con cái. Năm 2003 thôn Nam Khê chưa được đạt
danh hiệu làng văn hoá vì còn hiện tượng cờ bạc – số đề.
Các quán dịch vụ chơi điện tử là nơi thu hút thanh thiếu niên có những em
mải chơi bỏ học – không có tiền dẫn đến trộm cắp vặt đem bán lấy tiền chơi điện
tử.
3. Việc giáo dục thiếu niên trong mỗi gia đình ở xã
Nhìn chung các gia đình ở xã sống hoà thuận, ông bà, cha mẹ gương mẫu
trước con cháu, quan tâm đến trẻ, dành thời gian thích hợp cho con cháu vui chơi,
học tập. Cùng phối hợp với nhà trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ thành
người công dân tốt cho đất nước.
Vì là địa bàn ở nông thôn, cơ cấu một gia đình thường có 3 thế hệ: ông bà,
cha mẹ, con cháu. Ba thế hệ cùng sống chung trong một mái nhà, nên các thành
viên trong gia đình vẫn duy trì được nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, cư
xử kính trên nhường dưới, quan tâm lẫn nhau, từ lời ăn tiếng nói hành vi ứng xử
đều có phép tắc lễ nghi. Chính điều này đã tạo nên nhân cách tốt đẹp cho các em.
Bên cạnh đó còn một số gia đình, cha mẹ thiếu gương mẫu trước con cái, khi
bực tức thường hay quát mắng con bằng những từ ngữ thô tục, nói năng cộc cằn thô
thiển. Họ không ý thức được đó là hành vi thiếu văn hoá trong đối xử với con cái,
khi các con văng tục, chửi thề, đánh bạn, chọc phá người khác một số cha mẹ

thường hay làm ngờ hoặc cho con là hỗn là vô lễ, là mất dạy mà không thấy trách
nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái.
Không ít gia đình vợ chồng xưng hô “mày - tao”, nặng lời thoá mạ, chỉ trích
nhau, thậm chí thượng cẳng chân hạ cẳng tay trước mặt con cái. Họ không hiểu
rằng đó là ấn tượng rất xấu có hại gieo vào tâm hồn con trẻ.
Đối với việc học tập của con , nhiều gia đình rèn cho con thói quen học tập
có nề nếp, động viên kịp thời các cháu có thành tích cao trong học tập, nhiều dòng
họ đã xây dựng được quĩ khuyến học để động viên các cháu học giỏi, đỗ đạt cao.
Cách làm đó thể hiện sự quan tâm rất lớn của gia đình, dòng họ đối với thế hệ
tương lai của mình, song không ít gia đình không làm được điều đó,họ thường giao
15
khoán cho nhà trường – cha mẹ do trình độ văn hoá thấp, không đáp ứng được nhu
cầu học tập, hiểu biết của con, khi trẻ hỏi về kiến thức nào đó thì cha mẹ không trả
lời được mặt khác lại không chú ý đến việc học hành của con, không tạo cho con có
góc học tập riêng, không tôn trọng giờ học của con, điều này dễ làm các em
chán nản không muốn học.
Lứa tuổi thiếu niên nhiệm vụ học tập nặng nề hơn, quan hệ xã hội phong phú
hơn vì vậy cha mẹ phải chú ý đến các mối quan hệ bạn bè của con. Phần lớn các gia
đình đã kiểm soát được con về vấn đề này, đã ngăn chặn được con mình khỏi bị lôi
kéo của bạn xấu. Song một số gia đình do bố mẹ ít quan tâm đến con cái, thiếu
gương mẫu về lối sống nên con trẻ cũng chơi bời giao du, chểnh mảng học hành,
khi nhà trường thông báo về việc tu dưỡng rèn luyện và các quan hệ bạn bè của con
hay chơi bời với những phần tử xấu lêu lổng, bỏ học thì gia đình mới biết. Năm
2000 có 1 nhóm học sinh gồm 8 em nam và nữ do cha mẹ không quản lí tốt nên các
em lập thành nhóm, thường bỏ nhà, bỏ học đi chơi, học hành sa sút, bắt đầu có biểu
hiện trộm cắp. Qua phản ảnh của giáo viên, nhà trường cùng giáo viên chủ nhiệm
đã gặp gỡ trao đổi với các gia đình, kết hợp với UBND giáo dục, các em nhận ra sai
lầm của mình và đã trở thành người tốt.
Trong việc giáo dục con cái thì việc thống nhất mục đích giáo dục của cha
mẹ là rất quan trọng. Nếu trong gia đình cha mẹ mâu thuẫn thì con cái trở thành

nạn nhân, có một số gia đình do quá chiều con nên tác dụng giáo dục không hiệu
quả, những học sinh trong gia đình này thường ỷ lại vào cha mẹ, thụ động, lười
biếng, ích kỉ. Nhiều trường hợp con hư nhưng người mẹ lại bênh con, che giấu
khuyết điểm của con không cho bố biết dẫn đến việc đứa trẻ coi thường bố mẹ.
Trong việc giáo dục thiếu niên rất cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia
đình – nhà trường – xã hội. Trong những năm qua do làm tốt công tác xã hội hoá
giáo dục nên nhà trường được phụ huynh học sinh và các đoàn thể chính quyền ở
địa phương rất quan tâm, giúp đỡ. Qua BCH Hội phụ huynh học sinh làm cầu nối
giữa nhà trường và gia đình mà thống nhất được mục đích giáo dục trẻ. Tuy vậy có
lúc, có nơi sự phối hợp còn chưa chặt chẽ, một số phụ huynh ít liên hệ với nhà
trường, qua thống kê số phụ huynh học sinh tham gia họp với nhà trường năm học
2003 – 2004 thì có 5% phụ huynh không đến họp lần nào, số phụ huynh này
thường có con học yếu, hoặc là học sinh cá biệt, số phụ huynh đó cũng là những
người thường đi làm thuê, ít có điều kiện quan tâm chăm sóc con cái.
Qua thực tế làm công tác giáo dục ở xã , tôi xin đưa ra thống kê về tỉ lệ
hạnh kiểm, học lực của học sinh trường THCS trong 3 năm học gần đây:
- Về hạnh kiểm
Năm học Tốt Khá Trung bình
2001- 2002 45% 46% 9%
2002 - 2003 42% 53% 5%
2003 – 2004 58% 37% 5%
16
- Về học lực
Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém
2001- 2002 5% 44% 44,5% 6,3% 0,2%
2002 - 2003 5,2% 37,1% 54% 3,5%
2003 – 2004 7,5% 44% 45% 3,5%
- Tốt nghiệp THCS các năm:
+ Năm học 2001 – 2002: 100%
+ Năm học 2002 – 2003: 100%

+ Năm học 2003 – 2004: 99,2%
- Vào PTTH: + Năm 2001 – 2002: 70%
+ Năm học 2002 – 2003: 71%
+ Năm học 2003 – 2004: 73%
- Học sinh giỏi các năm:
+ Năm học 2001 – 2002: 25 giải huyện, 1 giải tỉnh, đồng đội xếp thứ 3 của
huyện
+ Năm 2002 – 2003: 25 giải huyện; 1 giải tỉnh; đồng đội xếp thứ 2 của huyện
+ Năm 2003 – 2004: 29 giải huyện; 1 giải tỉnh; đồng đội xếp thứ 2 của huyện.
Qua số liệu trên cho thấy: về đạo đức học sinh trong 3 năm gần đây có sự
chuyển biến tích cực, số học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình tỉ lệ thấp, không có
hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật, không có học sinh mắc tệ nạn xã hội.
Chất lượng văn hoá cũng tăng năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt là số học
sinh giỏi của trường luôn xếp thứ hạng cao của huyện.
Sở dĩ có sự tiến bộ như vậy là do được sự quan tâm của Đảng uỷ xã đối
với sự nghiệp giáo dục, những năm gần đây CSVC của nhà trường được xã đầu tư
ngày càng khang trang hơn, đầy đủ hơn. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy
mạnh, quĩ khuyến học của các dòng họ, thôn, xã ngày càng lớn, đã động viên khen
thưởng nhiều học sinh có thành tích cao trong học tập, động viên học sinh nghèo,
học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, sự nhận thức của các gia đình đối
với giáo dục ngày càng tiến bộ, các bậc phụ huynh học sinh rất chăm lo đến việc
học tập và tương lai của con em mình.
Bên cạnh những kết quả trên còn một số tồn tại: Vẫn còn 5% học sinh xếp
loại hạnh kiểm trung bình hàng năm, những em này thường là học yếu, vi phạm nội
qui của trường, lớp, có biểu hiện chưa ngoan, chậm tiến, trong số này cũng có một
số học sinh thường đua đòi, ăn chơi, hay trốn học.
* Những nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan: Đó chính là yếu tố gia đình. Một gia đình mà cha mẹ
tôn trọng nhau, yêu thương con cái thì dù cho có nghèo đi chăng nữa con cái
cũng được sống trong sự bình yên. Một điều đã xưa cũ nhưng không phải ai

cũng nhớ, đó là cha mẹ chính là tấm gương sáng cho con cái noi theo. Ngược
lại, khi cha mẹ, anh chị sống với nhau đầy thù hằn, ai cũng mưu lợi riêng thì
17
trẻ em nhất định bị buông lỏng, và tự thân chúng cũng không thấy cần phải
sống cho cao đẹp. Gia đình chính là nền móng cho mỗi con người, nếu nền
móng vững thì từ đó các thế hệ nối tiếp sẽ xây được cho mình ngôi nhà đẹp
đẽ và bền vững, còn nếu cái nền móng đó chấp chới thì ngôi nhà đôi khi
chưa kịp xây đã lật nhào. Cha mẹ, anh chị, nếp nhà chính là sự chuẩn bị nội
lực một cách tự nhiên bền bỉ cho mỗi con người. Nếu họ không được chuẩn
bị một cách sống lương thiện từ trong máu thì ra đời rất dễ bị sa vào con
đường tội lỗi. Không ít ông bố, bà mẹ trong xã lăn lưng ra kiếm tiền, họ hành
động không sai, nhưng cũng chính vì quá mải mê kiếm tiền mà quên mất
trách nhiệm còn thiêng liêng hơn đó là việc dạy dỗ con cái. Có tiền, mua cho
con quần áo đẹp, cho con những bữa ăn ngon, nhưng tiền lại không cho
con được một lối sống đẹp, một sức đề kháng với virut độc hại từ bên ngoài
tấn công vào. Nếu phải chọn lựa: hoặc tha thiết kiếm tiền làm giàu, hoặc có
những đứa con lương thiện, ngoan ngoãn, giỏi giang, thiết tưởng không ít
bậc cha mẹ lại chọn cách thứ nhất. Chính vì thế trẻ em hư là do lỗi ở người
lớn và hơn hết là do bậc làm cha làm mẹ.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Đó là sự tác động của đồng tiền và lối sống ăn chơi hiện thời. Trẻ em có
trước mắt quá nhiều sự quyến rũ, có tiền là một đứa nhỏ cũng trở thành
“Thượng đế”, được cung phụng đủ điều. Thấy con em bây giờ sướng hơn
chúng ta ngày trước, ta mừng, nhưng nhiều khi cũng thấy lo. Trẻ biết tiêu tiền
sớm quá, thích tiêu tiền quá, suốt ngày chơi bi-a, điện tử, tiếp xúc với phim ảnh,
băng hình đồi truỵ, bạo lực, hút thuốc, uống bia rượu, làm cho trẻ ngày càng
xa rời tình nhân ái, lẽ làm người thuỷ chung, mà tiếp cận với cái xấu, thói vô
cảm, sự ích kỉ một cách chóng vánh.
+ Do công tác tuyên truyền pháp luật còn hạn chế, việc xử lí các trường
hợp vi phạm pháp luật (số đề, cờ bạc, ) chưa nghiêm nên hiệu quả giáo dục

chưa cao.
18
PHẦN III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua học tập nghiên cứu lí luận Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề gia đình, qua thực tế làm công tác giáo dục học sinh bước đầu tôi rút được một
số kinh nghiệm như sau:
1. Nâng cao nhận thức, tuyên truyền giáo dục pháp luật.
Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao nhận thức cho mọi
người, xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của gia đình đối với giáo dục thế hệ trẻ và
những yêu cầu về xây dựng gia đình mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để từ
đó mọi người có nhận thức đúng, xây dựng gia đình làm tốt các chức năng cơ bản
của gia đình.
2. Xây dựng gia đình văn hoá
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng gia đình văn hoá, cần
đưa ra tiêu chuẩn xây dựng gia đình văn hoá trong việc xét các chi bộ trong sạch
vững mạnh.
Phát động phong trào xây dựng gia đình “No ấm – bình đẳng, tiến bộ – Hạnh
phúc”. Tổ chức cho cán bộ Hội phụ nữ học tập và đăng kí xây dựng gia đình văn
hoá gắn với triển khai các nội dung, tiêu chuẩn của phong trào thi đua yêu nước
“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Tổ
chức các lớp tập huấn, các hội thi thiết thực để trang bị kiến thức về xây dựng gia
đình theo các chuẩn mực.
Tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong mỗi gia đình. Tuyên truyền luật
hôn nhân gia đình, kiến thức giáo dục con cái, vợ chồng bình đẳng tôn trọng lẫn
nhau, nuôi con khoẻ dạy con ngoan, đối xử công bằng với các con, người lớn sống
mẫu mực, con cháu chăm ngoan, hiếu thảo, chăm sóc chu đáo ông bà, bố mẹ, gia
đình không có người mắc tệ nạn xã hội.
Làm tốt công tác dân số, sinh đẻ có kế hoạch để có điều kiện chăm sóc giáo
dục con cái.
3. Phát triển kinh tế

Gia đình – cha mẹ là người phải biết tổ chức hoạt động kinh tế nhằm tăng
nguồn thu nhập từ các ngành nghề chính và phụ, biết huy động và sử dụng hợp lí
sức lao động của mỗi thành viên trong gia đình, tổ chức lao động có hiệu quả cao,
trong đó cần lưu ý đến việc giáo dục tình cảm, thái độ lao động cho con cái, làm
sao phát huy tinh thần tự giác, sáng tạo trong lao động để làm cho kinh tế gia đình
ngày càng dồi dào. Đồng thời gia đình cũng phải quan tâm đến việc chi tiêu có kế
hoạch, tiết kiệm, đặc biệt tránh xa các tệ nạn số đề, cờ bạc làm cho khuynh gia bại
sản đẩy con người vào con đường cùng quẫn.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân có điều kiện phát triển
kinh tế hộ với lãi suất thấp. Đồng thời đa dạng hoá các loại hình đào tạo để thiếu
niên sau khi học hết bậc THCS có điều kiện học nghề, tạo việc làm cho các em.
19
4. Phối hợp gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục thiếu niên.
- Đối với gia đình: Tham gia tích cực vào tổ chức hội phụ huynh học sinh của
nhà trường, quan tâm giúp đỡ nhà trường xây dựng CSVC, các phương tiện
dạy học để nhà trường có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục. Những
cuộc họp phụ huynh học sinh cha mẹ cần đi đầy đủ để nắm vững mục đích,
nội dung, yêu cầu đối với việc giáo dục học sinh trong đó có con cái mình,từ
đó mà cha mẹ có tâm thế chuẩn bị các điều kiện cần thiết giúp cho con cái
học tập, rèn luyện tốt hơn, đồng thời qua giáo viên chủ nhiệm mà nắm được
năng lực, phẩm chất, triển vọng của con mình để xác định phương hướng
giáo dục gia đình.
Thường xuyên theo dõi sổ liên lạc để biết được kết quả học tập rèn
luyện và ưu khuyết điểm của con mình để cùng nhà trường tìm ra biện pháp
giáo dục phù hợp.
Gia đình cần xây dựng, phát huy truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đối
với nhà trường, bảo vệ uy tín cho thầy giáo, cô giáo.
Các bậc cha mẹ cần tạo điều kiện cho con em mình được sinh hoạt
trong tổ chức đoàn - đội, giúp cho trẻ ý thức kỉ luật đồng đội, tinh thần tập
thể, sự hoà nhập vào cộng đồng một cách cần thiết, hữu ích.

Mỗi gia đình phải biết được năng lực, trình độ học tập của con em
mình để định hướng cho các em sau khi học hết THCS, phải giáo dục cho
các em tư tưởng là vào đời không chỉ bằng con đường học Đại học. Gia đình
phải giúp xã hội phân luồng giáo dục.
- Đối với nhà trường: Nhà trường phải đưa mục tiêu giáo dục trong nhà
trường vào nội dung hoạt động của các tổ chức xã hội ở địa phương để thống
nhất định hướng tác động đối với quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của thiếu niên.
Phát huy vai trò nhà trường là trung tâm văn hoá, giáo dục. Tổ chức
phổ biến tri thức khoa học, văn hoá, xã hội qua các bài giảng cho học sinh,
đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh, phổ biến kiến thức về phương pháp giáo dục trẻ em trong điều
kiện xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường cho phụ huynh học sinh.
Động viên khen thưởng kịp thời những học sinh làm tốt, nghiêm khắc
xử lí đối với những học sinh vi phạm.
Tổ chức tốt các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, phối hợp với địa
phương tổ chức cho học sinh tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động văn
hoá xã hội góp phần cải tạo môi trường gia đình – xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.
Giúp địa phương theo dõi tiến trình đánh giá kết quả của việc giáo dục
thanh thiếu niên, phân tích nguyên nhân, đề xuất biện pháp nhằm nâng cao
20
hiệu quả và sự phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục, đặc biệt là
việc tận dụng triệt để vai trò, ưu thế đặc biệt của giáo dục gia đình.
Giáo viên chủ nhiệm cần có kế hoạch thăm gia đình học sinh thường
xuyên để nắm bắt kịp thời hoàn cảnh của từng học sinh, từ đó có biện pháp
giáo dục phù hợp.
Xây dựng, củng cố hội phụ huynh học sinh, tạo sức mạnh tổng hợp
đồng bộ hướng vào mục tiêu giáo dục một cách thường xuyên, có tổ chức, có
kế hoạch.

- Với các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã hội ở đây bao gồm các cơ quan chính
quyền có chức năng đặc biệt thực thi pháp luật như công an, toà án, và các
đoàn thể xã hội như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên tiền
phong, là một lực lượng đông đảo phải tham gia vào quá trình giám sát,
tác động mạnh mẽ vào quá trình giáo dục đối với mọi đối tượng đặc biệt là
đối với thanh thiếu niên học sinh.
Liên kết, phối hợp chặt chẽ 3 lực lượng gia đình – nhà trường – xã hội
nhất định sẽ nâng cao được hiệu quả giáo dục, rèn luyện cho thế hệ trẻ.
Chính vì vậy, Hồ Chủ Tịch đã căn dặn:”Giáo dục trong nhà trường chỉ là một
phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình, để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt đến mấy,
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không
hoàn toàn”
21
PHẦN IV. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. Kiến nghị
- Đối với Đảng, nhà nước: Cần có biện pháp mạnh đối với các tệ nạn xã hội
đang đầu độc thế hệ trẻ bằng ma tuý, bằng phim ảnh, băng hình đồi truỵ kích
động, bạo lực. Đặc biệt quản lí các tụ điểm Internet có nội dung khiêu dâm,
đồi truỵ.
- Bộ văn hoá thông tin, đài truyền hình Việt Nam và đài truyền hình của các địa
phương nên có nhiều chương trình cho thiếu nhi.
- Đối với Đảng chính quyền địa phương cần đưa vấn đề giáo dục gia đình vào
làm tiêu chí đánh giá Đảng viên.
- Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, ở địa phương cần phối hợp thực hiện chương
trình giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh thiếu niên, tạo nhiều sân
chơi bổ ích cho các em trong dịp hè.
- Đối với nhà trường: Tổ chức tốt các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Khuyến khích giáo viên thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh, đến
thăm gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh cá biệt để động viên

các em và có các biện pháp giáo dục thích hợp.
2. Kết luận.
Việc giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi thiếu niên là một việc rất cần
thiết. Vì vậy trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi gia đình là phải giáo dục thường
xuyên đối với thanh thiếu niên về đạo đức, văn hoá, giá trị truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam. Mọi gia đình đều phải có trách nhiệm xây dựng xã hội, xây
dựng gia đình theo hướng tiến bộ, có như vậy xã hội mới tốt đẹp.
Với kiến thức và kinh nghiệm của bản thân cùng với sự giúp đỡ của đồng
nghiệp, của Đảng, chính quyền, các đoàn thể, hội phụ huynh học sinh ở địa
phương, tôi đã hoàn thành đề tài này. Bài viết không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất
mong được sự góp ý của hội đồng khoa học các cấp, của các đồng nghiệp để đề tài
thực sự có hiệu quả trong công tác giáo dục.
Xin trân trọng cảm ơn !
22
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời nói đầu
1
Phần I. Cơ sở lí luận
1. Định nghĩa gia đình 3
2. Mối quan hệ gia đình – xã hội 3
3. Các chức năng của gia đình 5
4. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về vấn đề gia đình và
việc xây dựng gia đình mới XHCN
11
5. Gia đình và nghĩa vụ người công dân chân chính trong thời
đại hiện nay (Thực trạng gia đình Việt Nam)
13
Phần II. Thực trạng gia đình và giáo dục gia đình đối với
tuổi thiếu niên ở xã

1. Đặc điểm tình hình địa phương 15
2. Thực trạng gia đình – giáo dục gia đình ở xã Hồng Phong

Nam Sách – Hải Dương
17
Phần III. Một số giải pháp
25
Phần IV. Kiến nghị và kết luận
29
23

×