Tải bản đầy đủ (.doc) (272 trang)

PHÁT HUY QUAN HỆ XÃ HỘI Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 272 trang )

PHÁT HUY QUAN HỆ XÃ HỘI
Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ
NGUYỄN Văn Thành
Khóa Đào Tạo Năm III
Mùa Hè 2007

Lời Mở Đường :
Ưu Tiên Số Một của chúng ta là gì ?

Nhằm trình bày và khảo sát về Hội Chứng Tự Kỷ, tôi đã
được lần lượt xuất bản ba tác phẩm khác nhau :
Cuốn sách thứ nhất mang tựa đề « Trẻ Em Tự Kỷ », có mặt
lần đầu tiên vào năm 2005, trên các tờ báo thông tin vi tính, ở
trong và ngồi Nước. Một cách đặc biệt trong tác phẩm nầy, tôi
đã khảo sát 5 triệu chứng, nhằm giúp đỡ cha mẹ và những
những người có liên hệ xa gần, trong vai trò phát hiện những
trẻ em mang hội chứng tự kỷ, từ những giây phút đầu tiên, khi
một vài rối loạn vừa mới thoáng lộ diện.
Càng phát hiện sớm, như tôi đã nhấn mạnh, chúng ta càng
hội tụ nhiều cơ may, khả dĩ giúp đỡ những trẻ em nầy mau
chóng thích nghi với đời sống và môi trường xã hội.
Hẳn thực, từ 0 đến 6 tuổi, trẻ em đang còn ở trong giai
đoạn tăng trưởng và phát triển, trên mọi bình diện, thuộc đời
sống cơ thể cũng như trong đời sống xã hội, từ những sinh
hoạt vui đùa với bạn bè cùng trang lứa, đến những qui luật cần
tuân hành ở môi trường học đường…Cũng trong thời gian và
lứa tuổi nầy, hệ thần kinh trung ương hay là não bộ, với ba giai
tầng khác nhau là Thân Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não, còn ở
trong tình trạng mềm dẽo, dễ uốn nắn, chuyển hóa và điều
chỉnh. Thậm chí những chương trình mang tên là bẩm sinh hay
di truyền còn tùy thuộc vào khả năng tác động của mơi trường


giáo dục gia đình. Những quan hệ của cha mẹ, giống như nước
tưới, đất màu hay là ánh sáng mặt trời, có thể mở ra hai con
đường : làm cho hạt giống bẩm sinh phát triển thành cây lớn


mạnh, hay là tàn lụi ung thối, vì khơng hội tụ đầy đủ điều kiện
dưỡng sinh thuận lợi.
Cuốn sách thứ hai, xuất bản vào năm 2006, với tựa
đề « Nguy Cơ Tự Kỷ , từ 0 đến 7 tuổi », đề xuất hai mục tiêu
rõ rệt :
Thứ nhất, để can thiệp một cách khoa học và hữu hiệu,
nghĩa là có khả năng mang lại những thành quả cụ thể và
khách quan, cho trẻ em đang có những rối loạn thuộc hội
chứng tự kỷ, chúng ta cần cưu mang trong nội tâm, thái độ
sáng suốt và tỉnh thức. Người làm cha mẹ, các giáo viên cũng
như chuyên viên thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, khơng
thể « chầm chày may rủi », nhắm mắt đưa chân, áp dụng một
cách máy móc tự động những chương trình có sẵn trong tầm
tay, hay là những phương pháp trừng trị và ức chế theo kiểu
« xưa bày nay làm ».
Tư duy cấu trúc, trái lại, đề nghị chúng ta hãy ý thức một
cách sáng suốt : Tôi đang ở đâu ? Bắt đầu từ khởi điểm nào ?
Đi đến đâu ? Đi con đường nào ? Vì lý do gì ? Đi với phương
tiện nào ? Đi theo những bước tiến lên từ dễ đến khó như thế
nào ? Sau một thời gian tác động hay là can thiệp, chúng ta
cần làm gì, nhằm đánh giá cơng việc và kết quả ? Khi nhận
thấy mình đã đi sai đường, chúng ta sẽ vận dụng những biện
pháp chuyển hóa như thế nào ?
Một câu hỏi cuối cùng, nhưng rất quan trọng mà chúng ta
thường bỏ quên, nằm trong lãnh vực xúc động : chúng ta thực

hiện bao nhiêu động tác đi lên ấy, với một thái độ và tâm
trạng như thế nào ? Hạnh phúc và thoải mái, an lạc và tự tin ?
Hay là xao xuyến, căng thẳng và loạn động, nhất là với một ý
đồ tồn năng, siêu ý định và siêu ý chí ?
Với những điều kiện nội tâm như vậy, chúng ta dễ có xu thế
áp đặt từ ngồi và từ trên, những chương trình phản ảnh tham
vọng của chúng ta, thay vì lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu chính
đáng của trẻ em.
Ngoài ra – đây là mục tiêu thứ hai của tác phẩm – mỗi trẻ
em tự kỷ là một thế giới đặc thù và riêng biệt. Vừa khi ra khỏi
lòng mẹ, và thậm chí trong lúc cịn ở trong tử cung, bất kỳ trẻ
em nào không phải là một loại « vườn khơng nhà trống ».
Chúng ta muốn trồng gì vào đó, thì trồng. Xây gì lên trên ấy,


thì xây. Trái lại, trong mỗi tế bào thần kinh của não bộ, thể
theo lối nhìn và kết quả nghiên cứu công phu của tác giả
Douglas M. ARONE, bao nhiêu chương trình đã được cài đặt và
khắc sâu đậm nét.
Trong tầm tay và điều kiện cụ thể của mình, mơi trường có
trách nhiệm làm những gì, từ khi trẻ em vừa ra chào đời ?
- Trước hết, vun tưới và củng cố những chương trình cần
củng cố và vun tưới ?
- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi, để chuyển hố, uốn nắn
lại hay là điều chỉnh những gì đã bắt đầu có hướng đi lệch lạc ?
- Sau cùng, khi mầm mống tự kỷ đã có mặt, mơi trường
giáo dục có trách nhiệm làm những gì, khơng chần chờ, hẹn
rày hẹn mai, để cản trở mầm mống ấy ngày ngày trở nên một
cây cổ thụ, « một sự đã rồi », lúc trẻ em lên 7 tuổi ?
Môi trường là ai, nếu khơng phải là chính chúng ta tất cả,

khơng trừ sót một ai ?
Thay vì xun qua liếc nhìn lẫn tránh hay là lời nói xiên xẹo,
nhằm đổ lỗi, tố cáo cho các bậc làm cha mẹ … ai trong chúng
ta cảm thấy mình có vai trị nâng đỡ các bà mẹ trẻ đang khổ
đau, tê liệt ? Phải chăng chúng ta hãy bước lại gần, giải thoát
những mặc cảm tội lỗi vô căn cứ, đang đè nặng lên tâm tư của
họ ?
Ngoài ra, nhằm chu toàn ba trách vụ vừa được nói tới, là :
Vun tưới, Chuyển hóa và Cản trở, chúng ta khơng thể khơng
học.
- Học nhìn đứa con, với một lối nhìn trinh nguyên, trong
trắng, chưa có vết tích của khổ đau bóp méo và xuyên tạc.
- Học nghe đứa con, với vành tai xôn xao, chưa vướng
mắc vào một nỗi lo sợ đang trấn áp mọi sức sống vươn lên.
- Học tiếp xúc và trao đổi, thậm chí với đứa con đang gặp
những khó khăn lớn lao, trong lãnh vực quan hệ xã hội thông
thường, hằng ngày.


Hẳn thực, trước khi có khả năng phát huy ngơn ngữ đang
được sử dụng trong mơi trường gia đình, phải chăng đứa bé sơ
sinh đã « chuyện trị » với người mẹ bằng cách nầy hay cách
khác, bắt đầu với « tiếng khóc chào đời ». Trong câu chuyện
đầu tiên ấy, phải chăng đứa con đã được đón nhận và chấp
nhận vô điều kiện, với tư cách là một con nguời tồn bích và
tồn diện, đang từ từ mở ra cánh cửa nội tâm, để thu hóa
những đóng góp của mơi trường và thế giới bên ngồi ? Mỗi
đứa con có một tốc độ nhanh hay chậm khác nhau. Một gốc
tre, chẳng hạn, từ ngày được trồng xuống lòng đất, phải đợi
chờ chung quanh 3 năm, mới có thể nảy ra một chồi măng đầu

tiên. Một người tự kỷ cũng vậy, như trường hợp của Sean
BARRON, phải đợi chờ 25 năm, mới bắt đầu trao đổi chuyện
trò qua lại với người mẹ sinh ra mình.
Chính vì bao nhiêu lý do vừa được giới thiệu một cách sơ
phác, cuốn sách thứ ba nầy về Hội Chứng Tự Kỷ, mang tựa
đề : « Phát huy những quan hệ xã hội, trong vấn đề giáo dục
trẻ em tự kỷ ».
Lý do đầu tiên thúc giục tôi xếp đặt quan hệ xã hội, lên
hàng ưu tiên số một, vì tất cả trẻ em tự kỷ đang gặp những
khó khăn trầm trọng và chủ yếu, trong lãnh vực nầy.
Lý do thứ hai phản ảnh những thành quả mới nhất, trong
các cơng trình nghiên cứu về Hội Chứng Tự Kỷ, ở Âu Tây cũng
như ở Bắc Mỹ. Hẵn thực, đầu năm 2006, trong một tác phẩm
có tầm cỡ quốc tế, tác giả Daniel GOLEMAN đã nhấn mạnh vai
trị của Trí Thơng Minh Xã Hội, trong mọi lãnh vực sinh hoạt
thuộc đời sống làm người.
Trí thơng minh xã hội bắt đầu chớm nở, khi trẻ sơ sinh nhìn
thẳng vào hai mắt của người mẹ.
Trí thơng minh xã hội đã có mặt, nảy mầm đâm mộng, vào
những lúc hai mẹ con sung sướng trao đổi nụ cười với nhau,
nhất là sau khi trẻ sơ sinh đi vào lứa tuổi 2-3 tháng.
Trí thơng minh xã hội đã có mặt, khi đứa bé biết ngoảnh
mặt nhìn nơi khác, trong một vài giây đồng hồ, nhằm giải tỏa
những căng thẳng đang leo thang trong nội tâm của mình.
Chính lúc ấy, nếu ý thức được rằng những kích thích hiện tại
của mình đang vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, bà mẹ
sẽ biết dừng lại, hay là sáng tạo những loại kích thích khác.


Làm được như vậy, bà đang giúp đứa con phát huy trí thơng

minh xã hội của mình, xun qua cách chọn lựa và quyết định
« khi nào mở ra, khi nào đóng lại » khả năng tiếp thu và hội
nhập của mình.
Bài học đầu tiên và lớn lao nhất, trong đời sống của mỗi con
người, phải chăng là ý thức được rằng : tôi được thương yêu vô
điều kiện và tơi được kính trọng, vì tơi là một con nguời có giá
trị tuyệt đối ?
Ngồi ra, khi trí thơng minh xã hội được ngày ngày phát
triển như vậy, một đường giây thần kinh sẽ xuất hiện trong
não bộ, nhằm nối kết các trung tâm khác nhau của Hệ Viền và
Tân Vỏ Não. Nhờ vào đó, những sức ép hay là xung năng tự
nhiên và bồng bột của Hạnh Nhân sẽ từ từ nhận được ánh sáng
điều hướng và điều hợp của Thùy Trán thuộc Tân Vỏ Não đưa
xuống. Ngược lại, Hạnh Nhân thuộc Hệ Viền gửi lên những tin
tức, sau khi tham cứu Kho tàng hoài niệm là Hải Mã. Dựa vào
đó, Thùy Trán có thể đề xuất những chương trình hành động
vừa có tình vừa có lý, vừa phản ảnh những giá trị và ý nghĩa
làm người, vừa thích ứng với những nhu cầu của thực tế và
thực tại.
Khi hiểu rõ những cơ chế sinh hoạt của Trí thơng minh xã
hội, được thể hiện một cách cụ thể trong những đường dây
thần kinh đi lên và đi xuống như vậy, cha mẹ, người giáo viên
và các chuyên viên có thể hợp tác với nhau. Cùng nhau, họ sẽ
sáng tạo những dụng cụ, những phương tiện, những cách làm,
nhằm bổ túc những gì đang cịn thiếu vắng, điều chỉnh lại
những gì đang sai lệch và kiện tồn những gì chưa hồn chỉnh,
trong bản thân và đời sống của chính mình. Nhờ vào đó, một
trẻ em tự kỷ sẽ thừa hưởng nhiều cơ may và điều kiện thuận
lợi, khả dĩ chuyển hóa bản thân và cuộc đời có nguy cơ của
mình.

Trong tinh thần và ý hướng giáo dục như vậy, cuốn sách
thứ ba nầy sẽ lần lượt trình bày và giới thiệu trong những
chương kế tiếp, những trọng điểm chính yếu như sau :
- Trong chương Một, tôi sẽ trùng tuyên, một cách đầy đủ
và tổng hợp về 3 Triệu Chứng chính qui và đặc hiệu thuộc hội
chứng Tự Kỷ Cầu Vồng. Thay vì chỉ mơ tả những hiện tượng
bên ngồi, tơi sẽ nhấn mạnh một sự kiện có tầm mức quan
trọng, trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Hẳn thực,


khi từ giả cung lòng ấm cúng của người mẹ, đứa bé sơ sinh
cần một cung lòng ấm cúng khác, để lớn lên và phát triển,
trong môi trường xã hội. Cung lịng ấm cúng nầy khơng cịn là
Tử Cung của bà mẹ. Cung lòng nầy được kết dệt bằng những
nụ hơn, bằng những bàn tay xoa bóp. Bằng những giọng hị ru
con, người mẹ và những ai « đại diện mẹ », gọi về trong giấc
mơ và tâm tuởng của con, cả một giang sơn đất nước, bao
nhiêu tầng tầng lớp lớp anh chị em đồng bào. Trong khung
cảnh hồn thiêng sơng núi ấy, khi nằm một mình trong nơi đứa
bé đã biết nhếch miệng mỉm cười – một nụ cười sinh lý - « với
Bà Mụ, Bà Tiên, Bà Âu Cơ ». Nụ cười vô thức ấy sẽ từ từ
chuyển qua nụ cười xã hội có ý thức, nếu có người đang có
mặt với con, chớp thời cơ, để nhìn con, khen con, chuyện trị
với con. Bắc lên cho con những nhịp cầu, với người có mặt,
cũng như với người khơng có mặt, nhưng đang hiện diện tràn
đầy, để kiến tạo một « cái KHUNG » bao bọc chiếc nơi của con
và tạo an tồn cho con.
- Chương Hai sẽ liệt kê và trình bày 5 loại sinh hoạt khác
nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau, nhằm xây dựng và
không ngừng tô điểm nội tâm của con người. Tôi đồng ý một

phần nào với Simon BARON-COHEN, khi tác giả nầy khẳng
định rằng trẻ em tự kỷ không có NỘI TÂM. Nhưng Nội Tâm,
trong tầm nhìn của tác giả, không phải chỉ là Thinking hay là
Thinking Mind, nghĩa là Tư Duy mà thơi. Thêm vào đó, tư duy
chỉ là một công đoạn duy nhất, thuộc về một quá trình gồm có
nhiều thành tố giao thoa và kết hợp với nhau, như : Năm giác
quan, Xúc động, Ngôn ngữ và Quan hệ qua lại giữa người với
người.
Vì lý do sư phạm và vấn đề trình bày, tơi khơng thể KHƠNG
phân biệt trong và ngồi, truớc và sau, giữa 5 thành tố ấy. Tuy
nhiên, trong thực tế sinh hoạt, năm thành tố mà tôi vừa liệt
kê, tác động qua lại hai chiều, giao thoa chằng chịt với nhau,
cưu mang và phát huy, nhưng cũng có thể cản trở và hạn chế
lẫn nhau.
Bao nhiêu nhận xét ấy nhằm nhấn mạnh một sự kiện chất
chứa nhiều ý nghĩa : khi trẻ em khơng có hay là từ chối quan
hệ, phải chăng đó là một cách khẳng định rằng : Tôi muốn, tôi
cần một loại quan hệ hồn tồn khác. Thay vì những loại quan
hệ độc chiều, như tố cáo, trừng phạt, áp đặt…để làm người và
thành người, tôi cần nhất là những quan hệ đồng cảm và lắng
nghe. Khi tơi khơng nói, khơng nhìn, chính khi ấy, tơi đang


diễn tả mình, với một loại « ngơn ngữ khơng lời ». Sở dĩ tơi rút
lui, thu mình trong vỏ ốc tự kỷ, phải chăng vì tơi đang cần một
quan hệ an toàn.
Và loại quan hệ an toàn ấy đang cịn vắng mặt, một cách
trầm trọng, trong mơi trường giáo dục ngày hơm nay. Ai trong
chúng ta có khả năng nhạy bén, để lắng nghe, ghi nhận và tôn
trọng ý nghĩa của « câu chuyện khơng lời » ấy ?

- Chương Ba phản ảnh cơng trình nghiên cứu và tổng hợp
của Daniel GOLEMAN. Toàn bộ tác phẩm của tác giả nầy, nhằm
trả lời một cách rốt ráo cho vấn nạn : Trí Thơng Minh Xã Hội là
gì ? Trong hiện tại, quan niệm về Trí Thơng Minh Tổng qt,
đang được dạy dỗ trong mơi trường học đường, đã đẩy đưa
tồn thể nhân loại khắp đó đây, từ đơng qua tây, từ bắc xuống
nam, vào vòng sản xuất, tiêu thụ, làm ô nhiễm môi trường,
chế tạo vũ khí và bốc lột con người. Cho nên đã đến lúc, vấn
đề cần được đặt ra và khảo sát về Trí Thơng Minh Xã Hội,
nhằm lột trần và phơi bày một cách can đảm, trước mắt mọi
người, hai câu hỏi cơ bản.
Câu hỏi thứ nhất : Mục đích của con người sinh ra trong trời
đất, phải chăng là SỐNG HẠNH PHÚC ?
Câu hỏi thứ hai : Khi hai con người lại gần, trao đổi và tiếp
xúc với nhau, phải chăng họ tìm cách tạo ra cho nhau mọi điều
kiện thuận lợi, để giúp nhau thành người ? Trong thực tế của
xã hội ngày nay, con người khắp nơi, trên mặt địa cầu, có xu
thế tranh chấp, tàn sát, hoại diệt lẫn nhau, trên mọi bình diện,
thậm chí trong những cộng đồn và cộng đồng mang tính cách
tơn giáo, với chí hướng phục vụ nhân loại. Cịn có chăng một
loại người vẫn ngày ngày thắp sáng lý tưởng làm người và cố
quyết sống tình người với nhau ?
- Trong Chương Bốn, một câu hỏi quan trọng được nêu
lên : Trí Thơng Minh Xã Hội có những cơ sở và tổ chức
thần
kinh như thế nào ?
Các nhà khoa học về Thần Kinh Não Bộ đã khẳng định :
Khơng có ba loại cấu trúc thần kinh đặc thù và chun mơn,
dành cho ba loại Trí Thơng Minh khác nhau như Tổng Quát,
Xúc Động và Quan Hệ Xã Hội. Trái lại, khi hoạt động và phát

triển, mỗi loại trí thơng minh từ từ sáng tạo và củng cố những
đường dây chuyên biệt cho mình. Nhằm gửi tin đi, hay là nhận


tin đến, những đường dây thần kinh nầy nối kết lại với nhau
các trung tâm đã có sẵn thuộc 3 giai tầng cấu trúc là : Thân
Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Một cách đặc biệt, Trí Thơng Minh
Xã Hội hoạt động với hai đường dây chính yếu. Đường thứ nhất
mang tên là Đai lộ phía trên (High Road), nối kết Thùy Trán và
các Thùy khác thuộc Tân Vỏ Não với Cấu Trúc Hạnh Nhận
thuộc Hệ Viền. Đường thứ hai mang tên là Đại lộ phía dưới
(Low Road), phát xuất từ Hạnh Nhân và có liên hệ với những
cơ quan thuộc Giai tầng Thân Não và Tiểu Não.
Điều đáng chúng ta quan tâm một cách đặc biệt là càng
hoạt động một cách tích cực, Trí Thơng Minh Xã Hội càng củng
cố và tăng cường những đường dây thần kinh não bộ của
mình, về mặt lượng cũng như về mặt phẩm.
Thêm vào đó, bao lâu trí thơng minh xã hội càng được
chúng ta vận dụng và kích hoạt, ngược lại với những tin tưởng
và thành kiến trước đây, những tế bào thần kinh vẫn luôn luôn
được tái sinh và đổi mới…
Ngoài ra, các điểm giao liên giữa các tế bào, cịn mang tên
chun mơn là khớp xi-nắp, càng ngày càng nhân ra thêm
nhiều, nếu có nhu cầu đổi mới hay là thay thế. Nói một cách
vắn gọn, càng vận dụng một cách tích cực Trí Thơng Minh Xã
Hội, để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống, chúng ta càng
tái tạo và đổi mới Hệ Thần Kinh Não Bộ.
Chương Năm sẽ bàn thêm về quan hệ tác động qua lại giữa
Bẩm sinh và Môi trường, hay là giữa Gên và ảnh hưởng của
giáo dục.

Hẳn thực, nếu giả thuyết về « nguồn gốc hay là nguyên
nhân của hội chứng tự kỷ là Gen hay là Bẩm Sinh » được
chứng minh, một cách khoa học và khách quan, chúng ta cũng
chưa thể nào khẳng định rằng : Một trẻ em mang Gen tự kỷ,
sẽ suốt đời là người tự kỷ. Trường hợp Gen khơng được kích
hoạt, để có thể nẩy mầm đâm mộng, nhờ vào ảnh hưởng giáo
dục có khả năng tạo ra cho trẻ em những quan hệ xã hội tích
cực, xây dựng, an toàn và vui tươi, sung sướng, làm sao một
trẻ em có thể trở nên người tự kỷ ?
Nếu trong vịng 3 năm đầu tiên, chương trình tự kỷ có sẵn
trong tế bào thần kinh, khơng được mơi trường kích động, khởi
động, nghĩa là được chuyển biến thành hiện thực, chương trình


ấy sẽ bị vơ hiệu hóa và tạn lụi vĩnh viễn. Tin tức nầy mở ra
trước mặt chúng ta một Đại Lộ thênh thang đầy lạc quan và
hứa hẹn. Nhưng đồng thời, tin tức khoa học ấy đang gây ý
thức về một trách nhiệm lớn lao : Số phận và ngày mai của trẻ
tự kỷ nằm trọn trong lòng bàn tay và quyết định của chính
chúng ta.
Trong tinh thần phục vụ trẻ em tự kỷ, tiếp theo những nhận
xét vừa được trình bày, tơi sẽ đề nghị một số sinh hoạt như
sau :
Mục tiêu cần nhắm tới, và ngày ngày chuyển biến thành
hiện thực, bằng những động tác cụ thể, là tạo cho trẻ em
những quan hệ hài hịa, có mặt, lắng nghe, tôn trọng, đồng
cảm và vui tươi.
Về mặt kỹ thuật, chúng ta sử dụng những hình ảnh của trẻ
em và những người thân như cha, mẹ, anh, chị em…, những
cuốn phim ghi hình trực tiếp, khi trẻ em buồn, sợ, giận, vui

sướng.
Tất cả những phương tiện nầy, cọng với ngôn ngữ hồn
nhiên và sống động của chúng ta, nhằm phản ảnh cho trẻ em
thấy mình, nghe mình, nhìn vào khuôn mặt của mẹ và của
cha, trên các tấm hình.
Mục dích cuối cùng mà chúng ta ln ln nhắm tới, trong
những sinh hoạt vui chơi và phản ảnh, như vừa được trình bày,
là kích thích những tế bào hình suốt (spindle cells), cũng như
những tế bào phản ảnh (mirror neurons), có mặt trong các
đường dây thần kinh sau đây :
- Đường dây nối kết Hạnh Nhân với Thùy OFC (OrbitoFrontal Cortex, Thùy Trán-Ô mắt),
- Đường dây nối kết Hạnh nhân với Thùy ACC (Anterior
Cingulae Cortex, Thùy Đai Phía Trước).
Khi hai đại lộ thần kinh não bộ « phía trên nầy » hoạt động
mạnh, trẻ em tự kỷ sẽ từ từ tiến lên khả năng thiết lập những
quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, trong bất cứ môi
trường xã hội nào.


Chương Sáu mang tựa đề « Hai bộ mặt : Bóng Tối và Ánh
Sáng… ». Chương cuối cùng nầy đặc biệt dành cho những
người có trách vụ giáo dục và phục vụ trẻ em có nguy cơ tự
kỷ. Nhằm giúp đỡ một cách hữu hiệu con em và học sinh của
mình, phải chăng cha mẹ và các giáo viên, hơn ai hết, cần hiểu
rõ mình là ai, đang mang những bộ mặt nào, khi thiết lập quan
hệ với trẻ em, cũng như khi phản ảnh những xúc động của các
em.
Trong chương Sáu với tựa đề Hai Bộ Mặt « Bóng Tối và Ánh
Sáng » trong mỗi quan hệ đối tác xã hội, tôi sẽ bàn đến ảnh
hưởng của Xúc Động, trong đời sống của con người.

Trong lời Nói Cuối, tơi sẽ nhắc lại ba nhiệm vụ giáo dục :
-

Thiết lập những quan hệ đồng cảm với trẻ em,

-

Giúp trẻ em diễn tả những xúc động,

-

Phát huy tư duy cấu trúc, khi giải quyết vấn đề

Trong toàn bộ cuốn sách, khi bàn về vấn đề thiết lập và
phát huy những quan hệ với trẻ em, phải chăng chúng ta cần
lắng nghe lại những lời nhắn nhủ của Tổ Tiên và Cha Ơng :
-

Có cơng mài sắt ắt ngày thành kim.

-

Kiến tha lâu đầy tổ.

-

Nước chảy đá mòn.

-


Mẹ già như chuối ba hương,

Như xơi nếp một, như đường mía lau.
-

Cơng cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Nhờ những bài học nầy làm điểm tựa, chắc chắn chúng ta
tất cả có thể « dời núi, lấp sơng », cho trẻ em, vì trẻ em và với
trẻ em.


Sách tham khảo trong Lời Mở Đường:
1) Daniel GOLEMAN – Social Intelligence -

Hutchinson,

London 2006.
2) Judy & Sean BARRON – Moi, l’enfant autiste – Plon 1933.
- There’s a boy in here – Simon&Schuster,
N.Y.
1991.
3) Jacques SALOMÉ – Heureux qui communique – Albin
Michel
Paris 1993.
4) M.B. ROSENBERG – Enseigner avec bienveillance –
Jouvence
2006.
5) Douglas M. ARONE - The Theorem - O Books,

Winchester UK 2005.

Chương MỘT : HỘI CHỨNG TỰ KỶ :
Hướng đến một lối nhìn khoa học và toàn diện

1.-Năm dấu hiệu cổ điển của Hội Chứng Tự Kỷ
Trong 2 cuốn sách, được xuất bản ở Việt Nam, vào những
năm 2005 và 2006 (1), tôi đã nói đến 5 triệu chứng hay là dấu
hiệu chính qui và cổ điển, cần được phát hiện và xác định, một
cách cụ thể và khách quan, khi chúng ta cưu mang trong tâm
tưởng, những « nghi vấn » về Hội chứng Tự Kỷ đang thành
hình và xuất diện, nơi một trẻ em, trong khoảng thời gian từ 0
đến 7 tuổi.


- Dấu hiệu thứ nhất là đời sống bít kín : Trẻ em khơng có
những quan hệ tác động qua lại với những người khác, cùng có
mặt trong mơi trường sinh sống, thậm chí với bà mẹ đã sinh ra
mình,
- Dấu hiệu thứ hai nằm trong lãnh vực ngôn ngữ : Ngơn
ngữ thiếu vắng hồn tồn, từ những giai đoạn bi bơ, bập bẹ,
hay là có những rối lọan trong thể thức sử dụng các loại đại
danh từ khác nhau như mày và tôi…
- Dấu hiệu thứ ba là những phản ứng « bùng nổ », trong
lãnh vực xúc động, kèm theo những hành vi tự hủy, làm hại
chính mình, hay là những tác phong bạo động đối với kẻ khác,
- Dấu hiệu thứ bốn là những hành vi « lặp đi lặp lại », một
cách tự động, cơ hồ một chiếc máy ghi và phát âm,
- Dấu hiệu thứ năm là những sở thích kỳ dị, lạ thường,
như nhún nhảy, quay trịn, đưa 5 ngón tay ve vẫy trước mắt,

say mê nhìn ngắm những hạt bụi, những tia nắng xuyên qua
một kẻ hở, hay là sắp xếp đồ chơi thành hàng…Thêm vào đó,
vài trẻ em có những cơn động kinh nhẹ hay nặng, với những
hiện tượng như sùi bọt mép, mất ý thức, tiểu tiện trong quần
và cắn răng vào luỡi.
2.- Những trọng điểm cần nhấn mạnh
Mỗi khi liệt kê và trình bày năm triệu chứng trên đây, tơi
ln ln cố tình nhấn mạnh thêm những trọng điểm sau đây
a) Vừa khi chúng ta khám phá và xác định một dấu hiệu
đang thành hình và xuất hiện nơi trẻ em, cơng việc cần thực
thi tức khắc, khơng trì hoản là Can Thiệp Sớm, nhằm chận
đứng hoặc giới hạn ảnh hưởng lan tỏa của dấu hiệu nầy, trong
nhiều lãnh vực phát triển khác nhau.
b) Bao lâu tất cả 5 dấu hiệu chưa được hội tụ một cách đầy
đủ, khách quan và chính xác, cũng như khi trẻ em cịn ở trong
lứa tuổi tăng trưởng và phát triển - từ 0 đến 7 năm - thái
độ « khoa học » của chúng ta là khiêm cung và dè dặt. Chúng
ta không sử dụng một cách vội vàng nhãn hiệu « Hội Chứng Tự
Kỷ », bao lâu hệ thần kinh trung ương chưa hồn tất tiến trình
mlin-hóa các đường dây liên lạc của mình. Thay vào đó, lối
nói « có nguy cơ Tự Kỷ » được đề nghị và cần được trở nên


thông dụng, trong những trao đổi thông tin giữa các bác sĩ và
chuyên viên, cũng như giữa giáo viên và phụ huynh của học
sinh.
c) Ngoài ra, đối với cha mẹ đến tham vấn, những nhận định
của chúng ta về nguy cơ Tự Kỷ nơi đứa con của họ, có thể gây
ra nhiều ấn tượng hoang mang, khắc khoải, lo sợ và mặc cảm
tội lỗi… nếu chúng ta khơng trình bày những tin tức khoa học

đơn sơ và cụ thể, cũng như đề nghị thêm những lời hướng
dẫn, hay là những cách làm thuộc khả năng và ở trong tầm
hoạt động thường ngày của họ.
d) Một cách đặc biệt, khi câu hỏi về Nguyên Nhân của Hội
Chứng Tự Kỷ được nêu lên, chúng ta cần khẳng định, một cách
rõ ràng và dứt khốt là vấn đề đang ở trong vịng nghiên cứu
khoa học. Một trong những yếu tố càng ngày càng được đề
xuất, trong lãnh vực y khoa, là những rối loạn, trắc trở, trong
tiến trình tăng trưởng và phát triển của Hệ Thần Kinh Trung
Ương, còn mang tên là Não Bộ. Ngoài ra, một số tác giả đã
nhấn mạnh giả thuyết về những quan hệ lạnh nhạt, vô cảm
của cha mẹ. Lối giải thích nầy, thường được nêu lên vào những
năm 1950, đã gây tổn thương một cách trầm trọng cho bao
nhiêu tầng lớp cha mẹ. May thay, đường hướng tiếp cận vấn
đề như vậy, dần dần có xu thế mất hiệu năng và tàn lụi, trong
các cơng trình nghiên cứu ngày nay.
Nhằm phát huy tinh thần và lối nhìn Khoa Học vừa được đề
xuất, chương nầy sẽ lần lượt giới thiệu những tin tức bổ sung,
đổi mới và có khả năng soi sáng, cho những ai luôn luôn ở trên
đường tìm kiếm, học hỏi.
3.-Những Rối loạn Tự Kỷ Cầu Vồng mn Sắc (Spectrum
Disorders)
Khi nói đến Hội Chứng Tự Kỷ, chúng ta cần lưu tâm đến
nhiều đặc điểm quan trọng đang có mặt với nhau, cùng một
lúc :
- Thứ nhất, Hội Chứng Tự Kỷ bao gồm nhiều triệu chứng
khác nhau. Trên đây, tôi đã liệt kê 5 triệu chứng, thường được
nhắc lui nhắc tới, trong các tác phẩm chuyên môn.
- Thứ hai, Tự Kỷ không phải là một Hội chứng đơn thuần
và duy nhất. Thể theo tác phẩm DMS-4 (2), được giới Y Khoa



Hoa Kỳ chọn làm tài liệu qui chiếu, Tự Kỷ cịn được gọi là « Rối
Loạn Phát Triển Lan Tỏa » (Pervasive Developmental
Disorders, PDD). Hay là rối loạn nan quạt, rối loạn cầu vồng
(spectrum disorders. Nói cách khác, đó là một Rối loạn quần
thể hay là hợp thể, bao gồm 5 thể loại khác nhau, tùy theo giai
đoạn xuất hiện, cũng như tùy vào mức độ trầm trọng khác
nhau, được nhiều bác sĩ chuyên môn phát hiện, ở nhiều thời
điểm khác nhau, nơi trẻ em từ 0 đến 8 tuổi.
- Thứ ba, cũng trong tác phẩm DMS-4, năm triệu chứng
cổ điển, như tơi đã trình bày trên đây, được gom góp lại thành
3 triệu chứng đặc hiệu và chính qui :

Hội,

Triệu chứng thứ nhất nằm trong lãnh vực Quan Hệ Xã

• Triệu chứng thứ hai nằm trong lãnh vực Ngơn Ngữ. Phải
chăng ngôn ngữ của người tự kỷ là một phương tiện Thơng
Đạt, có mục đích và ý nghĩa là Diễn Tả Chính Mình và đồng
thời lắng nghe, tìm hiểu quan điểm của kẻ khác ?
• Triệu chứng thứ ba nằm trong lãnh vực Hành vi và Sở
Thích. Xuyên qua những xu thế « lặp đi lặp lại, hay là sắp
thành hàng dài những đồ chơi… », phải chăng trẻ em muốn
bộc lộ nhu cầu sống trong những cơ cấu tổ chức xã hội đã
được ổn định, khả dĩ tạo nên một cảm nghiệm an tồn, khơng
bị ai trừng phạt, đe dọa ?
- Thứ bốn, Hội Chứng Tự Kỷ, còn mang tên là Tự Kỷ Cầu
Vồng (Spectrum autism), trong DMS-4, bao gồm 5 thể loại

« Rối Lọan Phát Triển » khác nhau :


Rối loạn Tự Kỷ đặc hiệu và chính qui (Autistic Disorder),

• Rối loạn Asperger, cịn được gọi là Tự Kỷ với trí thơng
minh trên trung bình (Asperger’s Disorder),


Rối loạn Rett (Rett’s Disorder),

• Rối loạn thối hóa thuộc thời thơ ấu (Childhood
Disentegrative Disorder, CDD),
• Rối loạn phát triển lan tỏa: Không đặc hiệu (Pervasive
Developmental Disorder: Not otherwise Specified, PDD:NOS).


- Thứ năm, Hội chứng Tự Kỷ là một loại Rối Loạn Phát
Triển, ở vào nhiều giai đoạn thuộc cùng một tiến trình lan tỏa,
từ lãnh vực sinh hoạt nầy sang qua những lãnh vực khác,
trong đời sống của con người. Do đó, khi mơ tả các dấu hiệu cơ
bản, cũng như khi đề nghị những thể thức can thiệp nơi trẻ
em, chúng ta không thể không đề cập, một cách đồng đều, tất
cả 5 loại sinh hoạt cơ bản khác nhau, nhưng có ảnh hưởng tác
động qua lại hai chiều trên nhau (3) :
• 1) Loại sinh hoạt thứ nhất là: Nhận thức giác quan và
Tâm Vận Động, còn gọi là Cửa Vào của Nội Tâm (Input),


2) Loại sinh hoạt thứ hai là: Tư duy,




3) Loại sinh hoạt thứ ba là : Xúc động,

• 4) Loại sinh hoạt thứ bốn là : Ngơn ngữ trao đổi và giao
tiếp,
• 5) Loại sinh hoạt thư năm là : Quan hệ tác động qua lại
trong đời sống xã hội, còn gọi là Cửa Ra (Output).
• Cả 3 sinh hoạt ở giữa – Tư duy, Xúc động và Ngôn ngữ thuộc về Tiến trình biến chế, chuyển hóa (Processing) của Nội
tâm. Theo lối giải thích bình dân, Processing trong tiếng Anh
có nghĩa là “kho nấu”, chuyển biến những vật liệu góp nhặt từ
mơi trường bên ngồi, thành của ăn ni sống con người, trên
bình diện Tư Duy hay là Tâm Linh
• Tơi đã định vị trí loại sinh hoạt « Quan Hệ tác động qua
lại », ở Cửa Ra. Tuy nhiên, ở tại Cửa Vào, Quan Hệ cũng phải
có mặt và đảm nhiệm một vai trò rất quan trọng, khả dĩ nâng
cao phẩm chất của Nhận thức Giác Quan. Nói khác đi, Quan Hệ
cũng là một loại kích thích có khả năng tăng cường hay là giảm
hạ giá trị của các loại kích thích khác. Chẳng hạn, khi có
những cảm tình đặc biệt với một vị thầy, phải chăng tơi sẵn
sàng thu hóa những bài dạy của vị ấy một cách dễ dàng và
mau chóng hơn ?
Thay vi triển khai một lối nhìn bao quát và toàn diện như
vậy, nhiều tác giả hay là giáo viên, chỉ tập trung khả năng chú
ý và thể thức tác động vào 1 hoặc 2 lãnh vực chủ yếu mà thơi,
ví dụ như q đề cao lãnh vực ngôn ngữ và không đánh giá
đúng tầm những lãnh vực khác như Xúc động và Giác quan...



Vì lý do « siêu ý định và siêu chú ý » như vậy, khi tìm cách
hóa giải một triệu chứng, chúng ta vơ tình tạo ra điều kiện
thuận lợi, cho một triệu chứng phó sản khác xuất hiện và khó
khắc phục hơn. Cho nên, ích lợi gì, khi trẻ em suốt ngày phải
học lặp đi lặp lại một đôi từ hay là một đơi câu, một cách máy
móc tự động, như keo vẹt, để rồi sau đó trở nên bị động và ù
lì hồn tồn trong các tác phong hằng ngày, xuyên qua mọi
quan hệ với người lớn thuộc mơi trường gia đình ? Ích lợi gì,
khi chúng ta tìm cách ức chế hoặc trừng phạt một hành vi kỳ
dị và lạ thường, nếu sau đó, trẻ em càng ngày càng cố thủ
trong một nếp sống bít kín và cắt đứt mọi quan hệ xã hội với
mọi người ?
Trong khn khổ của Chương MỘT nầy, nhằm bổ túc những
gì cịn thiếu sót, trong 2 tác phẩm đã được xuất bản, tơi sẽ lần
lượt trình bày những nét đặc trưng, thuộc mỗi Hội Chứng của
« Tự Kỷ Cầu Vồng ». Những chương kế tiếp sẽ từ từ bàn đến
những điều kiện thiết yếu, khi chúng ta xây dựng những kế
hoạch tác động, trong những chương trình can thiệp, giáo
dục . Một cách đặc biệt, tôi sẽ chú trọng vào hai lãnh vực xúc
động và quan hệ xã hội, nhất là khi trẻ em còn ở trong giai
đoạn từ 0 đến 6 tuổi.
4.- Rối loạn Tự Kỷ Chính Qui và Đặc Hiệu (Autistic Disorder)
Danh xưng « Tự Kỷ » (Autism) đã được Bác Sĩ Eugen
BLEULER, người Thụy Sĩ (1857-1939) sử dụng lần đầu tiên, để
mô tả triệu chứng nỗi bật nhất của chứng bệnh Tâm Thần
Phân Liệt, nơi người lớn (Schizophrenia).
Vào năm 1943, Bác Sĩ Leo KANNER, người Mỹ gốc Áo, đã
mượn lại danh xưng nầy, để mô tả Hội Chứng Tự Kỷ, được
quan sát và phát hiện nơi 11 trẻ em, giữa 2 đến 8 tuổi, trong
suốt thời gian từ 1938 đến 1943 (4). Trong những năm kế

tiếp, nhiều bác sĩ khác đã phát hiện nhiều hội chứng mới, có
liên hệ ít nhiều với Hội Chứng Tự Kỷ nơi trẻ em, do Leo Kanner
đã khám phá lần đầu tiên
Mẫu số chung, khả dĩ nối kết lại với nhau tất cả 5 Hội Chứng
thuộc Tự Kỷ Cầu Vồng, bao gồm 3 loại triệu chứng được gọi là
« Chính Qui và Đặc Hiệu ». Nếu một trong ba thiếu vắng,
không được xác định một cách khách quan và khoa học, Hội
Chứng Tự Kỷ Cầu Vồng , còn mang tên là Rối Loạn Phát triển
Lan Tỏa, sẽ khơng có lý do tồn tại.


Những dấu hiệu khác còn lại, ngoại trừ 3 Triệu Chứng Đặc
Hiệu và Chính Qui, chỉ tạo nên những nét khác biệt giữa 5 Hội
Chứng với nhau. Nhằm xác định những yếu tố phụ thuộc nầy,
chúng ta cần khảo sát và khám phá thời điểm xuất hiện, mức
độ trầm trọng, cũng như vai trò nhận thức bị hạn chế và quá
thu hẹp của các giác quan khác nhau, có mặt trong các Rối
Loạn nầy.
Triệu Chứng thứ nhất : Những rối loạn trong quan hệ tương
tác giữa trẻ em và các thành viên khác thuộc mơi trường gia
đình và xã hội, gồm có những người lớn và các trẻ em cùng lứa
tuổi.
• Các em thu hẹp hay là đóng kín mình, trong vũ trụ hồn
tồn riêng tư của mình,
• Các em khơng tìm cách tạo quan hệ gắn bó, hay là tác
động qua lại hai chiều, với người lớn chung quanh, hoặc với trẻ
em khác cùng lứa tuổi. Thậm chí với người mẹ sinh ra mình,
hoặc với anh chị em sinh đôi, các em cũng không tham gia
hoặc khởi động các trị chơi đơn giản như : « cúc cù, trốn
tìm »…


Người khác khơng được nhìn nhận và đón nhận như một
chủ thể giống như mình, có khả năng chia sẻ niềm vui và nỗi
buồn, cùng bao nhiêu kinh nghiệm và cảm nghiệm, trong đời
sống thường ngày. Trái lại, họ chỉ được đối xử như là một dụng
cụ hoặc phương tiện, được các em dùng, để thâu đạt một mục
đích. Ví dụ trẻ em chỉ cầm tay mẹ, dẫn mẹ đi lấy nước uống
cho mình, thay vì dùng lời nói hay cử chỉ, để diễn tả nhu cầu
và nguyện vọng. Sự kiện nầy có thể được chấp nhận một phần
nào, khi trẻ em khơng biết nói. Trong thực tế, với những trẻ
em có khả năng nói, phát âm và đọc chữ…ngơn ngữ vẫn không
phải là một dụng cụ để tạo quan hệ trao đổi qua lại, diễn tả ý
định của mình và tìm hiểu nhu cầu của người đối diện.
• Một cách vắn gọn, tôi xin liệt kê một số dấu hiệu quan
trọng khác như : - khơng có lối nhìn trực diện mắt nhìn mắt,
- khơng phân biệt người lạ và quen, mặc dù tuổi
đời đã vượt quá một năm,
- chung quanh 3-4 tháng, không biết mỉm cười với
người thân, như bà mẹ của mình,


- khơng tìm cách bắt chước bạn bè, để làm như,
làm cho, làm với…
Chính vì những lý do vừa được liệt kê, bốn động tác « Xin,
Cho, Nhận và Từ chối », một cách thanh thản, hài hòa, trong
lãnh vực quan hệ giữa người với người, là bốn bài học rất cơ
bản, nhưng rất khó học và khó làm, đối với tất cả mọi người,
khơng trừ sót một ai. Cho nên 4 bài học nầy phải bắt đầu được
dạy, với mỗi trẻ em, Tự Kỷ hay Không Tự Kỷ, từ khi vừa lọt
lòng mẹ.

Triệu chứng thứ hai : Những rối loạn trong lãnh vực diễn tả
và thơng đạt sở thích, ý định và nhu cầu của mình
• Mặc dù có khả năng phát âm, lặp lại các từ, đọc nhiều
chữ hoặc nhiều câu, trẻ em không biết trao đổi, chuyện trị
qua lại với một người thứ hai,
• Khi phát biểu, trẻ em thường hay lẫn lộn hai đại danh từ
ngôi thứ nhất và ngơi thứ hai, tơi và mầy…
• Lặp lại như một chiếc máy phát âm, thậm chí những câu
khá dài. Trẻ em hoặc lặp lại tức khắc, sau khi ghi nhận, hay là
sau một thời gian cách khoảng,
• Khơng có khả năng hình dung hoặc giả bộ, như trong
các trị chơi nấu ăn và mời nhau ăn…
• Khơng dùng những cử điệu « hình tượng », như vẫy tay
chào tạm biệt, lúc ra đi,
• Khơng dùng ngơn ngữ có lời, hay là khơng lời như cử
điệu, nét mặt… để diển tả, thông đạt, trao đổi với người khác
về ý định của mình, hay là tìm hiểu nhu cầu của kẻ khác.
• Khơng nhìn theo hướng ngón tay, khi mẹ đưa tay chỉ
một vật dụng. Trẻ em cũng không biết đứng từ xa đưa tay chỉ
một đồ chơi mong muốn.
• Nói cách chung, ngơn ngữ, mặc dù có mặt, không phải là
một dụng cụ, một phương tiện nhằm tạo ra nhịp cầu trao đổi,
nối kết và đồng cảm với kẻ khác.


Triệu chứng thứ ba : Những rối loạn trong thể thức tiếp cận
các sự vật và các sự cố, có mặt trong cuộc sống thường ngày.
Nhằm minh họa triệu chứng nầy, tôi bắt đầu nêu lên những
sự kiện cụ thể và khách quan, được diễn đi diễn lại, trong cuộc
sống thường ngày của trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ :

• Thay vì tiếp cận từng đồ chơi, theo chức năng tự nhiên
của mình, ví dụ như ngịi bút chì dùng để vẽ, trái banh dùng
để ném ra xa hay là đưa chân đẩy mạnh tới đằng trước…trẻ em
chỉ xếp thành hàng với nhau, kề sát nhau, những đồ chơi của
mình. Trẻ em có thể làm như vậy, một cách say mê suốt ngày.
Thoảng hoạt, trẻ em dừng lại, đi quanh đó đây hay là làm một
động tác khác… Nhưng sau đó, trẻ em lại trở lui với « cơng
trình sắp xếp thành hàng » những đồ vật và đồ chơi của mình.
Trẻ em sẽ bùng nổ, la hét, tức giận, bực bội, khi có người cất
lấy đi, dời chỗ, hay là thay đổi thứ tự
• Trẻ em cũng khư khư bám sát, bám chặt vào những
chương trình, thứ tự, nghi thức, cách tổ chức, trong các sinh
hoạt hằng ngày. Những chương trình và thứ tự nầy… hoặc là
đã có sẵn trong cuộc sống, hoặc là do chính trẻ em áp đặt và
ấn định một cách đơn phương. Một vài thay đổi nho nhỏ không
được báo trước hay là không được chuẩn bị, trong các nề nếp
và qui luật bất di bất dịch ấy, sẽ tạo nên nơi trẻ em, những
cơn khủng hoảng trầm trọng, những cuộc bùng nổ rộn ràng,
những phản ứng chống đối gay gắt.
• Hình dung một cảnh tượng sắp xãy ra hoặc đang có mặt
ở một nơi khác, thao tác những trò chơi giả bộ, hay là tìm hiểu
ý nghĩa trừu tượng và hình tượng của một bức tranh, một câu
chuyện, cũng như nhìn vào nét mặt để khám phá ý định và
tâm tình của một người khác… tất cả những sinh hoạt ấy hoàn
toàn vượt ra ngoài khả năng tiếp thu và hiểu biết của một trẻ
em có nguy cơ Tự Kỷ.
Tất cả ba loại sự kiện ấy cho chúng ta thấy rõ : Trẻ em có
Hội Chứng Tự Kỷ, có xu thế hạn chế và khoanh vùng cuộc sống
của mình, vào những thứ tự ổn định. Trái lại, những sự cố sắp
xãy ra trong tương lai gần và xa, đối với các em, là những gì

khơng hiện hữu, là số khơng.
Cho nên, đặt mình vào vị trí của kẻ khác, đồng cảm với họ,
tìm hiểu ý định và nhu cầu của họ, là những khả năng mà các


em khó tiếp thu và hội nhập. Sở dĩ như vậy, vì các em từ
những giây phút đầu tiên của cuộc đời, đã gặp những trắc trở
tày đình: khơng THẤY như kẻ khác thấy, không NGHE như kẻ
khác nghe, không CẢM XÚC và TIẾP CẬN với LÀN DA, như kẻ
khác, với kẻ khác và nhờ kẻ khác.
Nói cách khác một cách đơn sơ và vắn gọn, nếu trẻ em có
nguy cơ Tự Kỷ không học sử dụng CỬA VÀO làm bằng mắt, tai
và làn da, làm sao các em có thể mở đường đi vào Nội Tâm, để
phát huy Nội Tâm ?
Trong lăng kính ấy, Can Thiệp Sớm, như sau này tôi sẽ
nhấn mạnh, là can thiệp ở Cửa Vào, từ những ngày đầu tiên
của cuộc đời. Phải chăng đó là bài học mà thú vật đang đề nghị
cho loài người : Chẳng hạn con mèo mẹ, tức khắc sau khi sinh
con, đã liếm da của con, liếm mắt của con, liếm tai của con…
Nhờ đó, con mèo con từ từ có khả năng thấy, nghe và cảm
xúc, giống như con mèo mẹ (4).
5.- Hội Chứng hay là Rối Loạn ASPERGER (Asperger’s
Disorder)
Hội Chứng Asperger do chính Bác sĩ Hans ASPERGER phát
hiện vào năm 1944, khi quan sát một nhóm gồm có 4 trẻ em
từ 6 đến 11 tuổi.
Ngồi 3 triệu chứng đặc hiệu, như đã được nói tới trước đây,
trong Rối Loạn Tự Kỷ, những trẻ em nầy có thêm những dấu
hiệu riêng biệt sau đây :
• Gần như mọi trẻ em mang Hội Chứng Asperger đều biết

nói. Sống giữa các trẻ em khác, các em loại nầy cũng học nói.
• Hội Chứng Tự Kỷ đặc hiệu được phát hiện rất sớm, khi
trẻ em lên 2-3 tuổi hay là sớm hơn. Ngày nay, các nhà chuyên
môn về loại trẻ em nầy, đã có khả năng phát hiện một vài dấu
hiệu báo động, vào những tuần lễ đầu tiên, sau ngày sinh. Trái
lại với những trẻ em mang Hội Chứng Asperger, cơng việc phát
hiện chỉ có thể bắt đầu, sau khi trẻ em lên 2 tuổi. Trong rất
nhiều trường hợp, kết quả chỉ được xác định một cách dứt
điểm và rõ ràng, giữa 7 và 8 tuổi.
• Một số lớn trẻ em mang Hội Chứng Tự Kỷ đặc hiệu cũng
thuộc diện trẻ em chậm phát triển trí tuệ. Thương số Trí tuệ -


Intellectual quotient, viết tắt là IQ - thường ở dưới 50-60. Trái
lại, với trẻ em mang Hội Chứng Asperger, trí thơng minh thuộc
loại trung bình và trên trung bình. IQ của một vài trẻ em vượt
chỉ số 120-130.
Nhằm giúp độc giả có một ý niệm về IQ, tơi xin nêu ra
phương trình :
Tuổi thực sự (bằng tháng)
- IQ = ------------------------------ x (nhân) 100
Tuổi Thông Minh
- Tuổi Thông Minh được đo lường bằng những bản lượng giá
hay là những trắc nghiệm Tâm lý.
- Tuổi Thực sự = Ngày làm trắc nghiệm – (trừ) ngày sinh ra
(tính bằng tháng)
- Những loại phát triển trí tuệ :
IQ dưới 25 : loại chậm nặng,
IQ từ 25 đến 50 : loại chậm vừa,
IQ từ 50 đến 70 : loại chậm nhẹ,

IQ từ 70 đến 100 : loại trung bình,
IQ từ 100 đến 125: loại trên trung bình,
IQ trên 125: loại xuất sắc

• Với Rối Loạn Asperger, trẻ em vẫn có ngơn ngữ và có
khả năng trao đổi, tiếp xúc. Tuy nhiên lý luận của các trẻ em
thuộc loại nầy có những hình thức rườm rà, vịng vo và khó
hiểu. Trẻ em có thể dùng ngơn ngữ, để trao đổi với người
khác, xuyên qua những hình thức đơn sơ, vắn gọn. Trái lại, trẻ
em khơng có khả năng chủ động và điều động một cách thích


hợp, những quan hệ tác động qua lại, với nhiều cơng đoạn tiến
tới và địi hỏi nhiều lý luận sáng tạo…
• Xét về số lượng, trong 4 trẻ em mang Hội Chứng
Asperger, trung bình có 3 trai và 1 gái.
6.- Rối Lọan RETT
Vào năm 1960, một bác sĩ, người Áo, có tên là Andreas
RETT, và ít lâu sau đó, một bác sĩ người Thụy điển có tên là
Bengt HAGBERG, đã phát hiện, nơi những trẻ em thuộc phái
nữ mà thôi, những triệu chứng như sau :
• Thiếu phối hợp và hòa nhịp, trong những vận động và cử
động, tay chân co quắp, cong quẹo, cho nên trẻ em khi đi
đứng, di chuyển, dễ té ngã, vấp váp, mất qn bình.


Trí thơng minh hạn hẹp,




Ngơn ngữ nghèo nàn và thối hóa dần dần,

• Từ 0 đến 6 tháng đầu tiên, trẻ em phát triển bình
thường. Sau đó, một vài triệu chứng tư từ xuất hiện, trong vấn
đề phối hợp tay chân.
• Lên tới lứa tuổi 48 tháng, những rối loạn của Hệ Thần
Kinh Trung Ương trở nên rõ ràng và càng ngày càng trầm
trọng.
Trong cách xác định và phát hiện, vì sự có mặt của ba triệu
chứng cơ bản có liên hệ đến những vấn đề quan hệ xã hội,
ngôn ngữ thông đạt và hành vi, Rối Loạn RETT được xếp lọai
vào trong Hội Chứng Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa.
7.- Rối Loạn Thối Hóa thuộc thời thơ ấu (CDD)
• Xét về mặt thời gian, Hội Chứng CDD xuất hiện chậm
hơn, so với hai Hội Chứng Tự Kỷ Đặc Hiệu và RETT.
• Khác với Rối Loạn RETT, Hội Chứng CDD xuất hiện nơi
trẻ em thuộc cả 2 phái nam và nữ, sau 8-9 tuổi.
• Hội Chứng nầy xuất hiện với tỷ lệ rất nhỏ: 1 trên tổng số
100 000 (một trăm ngàn) trẻ em.


• Trẻ em, sau khi mắc hội chứng nầy, có cả 3 triệu chứng,
giống như trong Hội Chứng PDD đặc hiệu.
• Trước khi mắc hội chứng nầy, trẻ em đã phát triển một
cách hồn tồn bình thường, thậm chí trong lãnh vực vận
động. Trái lại trong Hội Chứng RETT, các trẻ em đã có những
rối loạn nho nhỏ trên bình diện phối hợp tay chân và các giác
quan với nhau, khi vận động và di chuyển. Chính yếu tố quan
trọng nầy, cùng với phái tính, xác định sự khác biệt giữa RETT
và CDD.

• Với 2 Hội Chứng RETT và CDD, vì ngun nhân là những
hiện tượng thối hóa của Não Bộ, trong những điều kiện hiện
tại của y khoa, chưa có một trường hợp nào được phục hồi, sau
khi các hội chứng đã xuất hiện và được phát hiện.
8.- Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa: Không Đặc Hiệu (PDD:
NOS)
Trên đây, khi bàn đến Hội Chứng Tự Kỷ hay là Rối Lọan
Phát Triển Lan Tỏa (PDD), tôi đã nhấn mạnh lui tới:
• Khi tất cả triệu chứng chính qui chưa được hội tụ, một
cách đầy đủ, chính xác và khách quan,


Khi trẻ em chưa lên 7 tuổi,

• Cũng như khi chúng ta đang cịn áp dụng Chương Trình
Can Thiệp Sớm, vừa khi trẻ em có một thống dấu hiệu báo
động, chung quanh lứa tuổi 1 năm,
• Khi dấu hiệu báo động có thể chỉ là hành vi hơi lăng
xăng, ngơn ngữ chậm trể, thiếu chú ý, tính tình nhút nhát…
Lúc bấy giờ chúng ta chỉ dùng lối nói “Nguy Cơ Tự Kỷ”.
Thay vào danh xưng ấy, DMS-4 đã dùng nhãn hiệu PDD:
NOS có nghĩa là Rối Loạn Phát Triển Lan Tỏa: Khơng Đặc Hiệu.
Cụm từ “Khơng Đặc Hiệu”, ở đây có nghĩa là CHƯA và KHƠNG
trầm trọng, vì khơng rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, trong lối
nhìn của tơi, khơng phải vì chưa trầm trọng mà chúng ta
khơng cần can thiệp lập tức và một cách đứng đắn, thích hợp.
Hẳn thực, một que diêm nho nhỏ, nếu không được dập tắt, có


thể gây ra một đám cháy lan tràn, cho cả một khu rừng lớn

lao.

***
9.- Kết Luận: Nối lại những con
đường…
Nhằm kết luận, tơi muốn nêu lên câu hỏi: Điều gì có tầm
mức quan trọng bậc nhất, mà chúng ta cần nhận diện và đối
diện, một cách sáng suốt, can đảm và nghiêm chỉnh, khi tiếp
cận một trẻ em có nguy cơ Tự Kỷ?
Tự Kỷ là gì, nếu Hội Chứng nầy không phải là vấn đề của
một trẻ em, trong những điều kiện hiện thời thuộc hệ thần
kinh và sinh lý hóa (biochemistry), ĐANG thiếu khả năng tạo
quan hệ tiếp xúc và giao tiếp, với những người chung quanh,
bắt đầu từ mẹ, cha và anh chị em trong gia đình?
Thế nhưng, để học và dạy bài học tạo quan hệ có chất
lượng xây dựng và đóng góp, một cách năng động, với những
người đang chung sống, chính chúng ta đang có những hành
trang thiết yếu nào, trong cuộc sống làm người?
Trong xã hội và thế giới văn minh, thuộc thời đại Nghìn
Năm Thứ Ba, con người giải quyết thế nào những vấn đề xung
đột đang xãy ra đó đây ?
Hiện tại người Mỹ đang lên kế hoạch xây cất một bức vạn lý
trường thành, giữa hai nước Mexique và Hoa Kỳ, dài 2 200 cây
số và tốn kém ước chừng 1 tỷ 200 triệu đô la.
Một bức vạn lý trường thành khác đang có mặt, tại biên giới
giữa Israel và Palestine, từ bao nhiêu năm nay...
Khi con người khắp đó đây, đang xây lên những bức vạn lý
trường thành giữa mình với người khác…làm sao một trẻ em
Tự Kỷ có khả năng và điều kiện thuận lợi, để bắc lại những
nhịp cầu bị gãy đổ, trong cuộc đời làm người của mình?

Tơi thắp lên một nén hương, khấn vái những vị Bồ Tát hãy
can trường xuất hiện, đi ra cùng với tôi, nối lại những con


đường đang bị đứt đoạn, trong cõi lòng người và trong cõi lịng
của Q Hương.
Bí Chú:
1) NGUYỄN văn Thành – Trẻ Em Tự Kỷ - nXB Tôn giáo, Tp
HCM, 2006.
NGUYỄN văn Thành – Nguy Cơ Tự Kỷ -UBBA-XH, Tp HCM,
2006.
2) Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders –
Fourth Edition, Washington, DC, American Psychiatric
Association, 1994.
-

Diagnostic Criteria for 299.00 Autistic Disorder,

-

Diagnostic Criteria for 299.80 Rett’s Disorder,

- Diagnostic Criteria for 299.10 Childhood Disintegrative
Disorder,
-

Diagnostic Criteria for 299.80 Asperger’s Disorder,

- Diagnostic Criteria for 299.80 Pervasive Developmental
Disorder: Not Otherwise Specified (Including Atypical Autism).


POWERS M.D. – Children with Autism – Woodbine House,
2000 USA.
3) NGUYỄN văn Thành – Những Sinh Hoạt của Con Người –
www.chungnhanduckito.net
4) GRANDIN Temple – L’Interprète des Animaux – Odile
Jacob, Paris 2006.

Sách Tham Khảo trong Chương Một:

5) BELHASSEN M. – L’Enfant Autiste – Audibert, Paris 2006.


×