Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sự chống lại quy tắc cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và lý thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.24 KB, 20 trang )

Trêng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n

BÀI TẬP NHÓM
LỊCH SỬ HỌC THUYẾT KINH TẾ
Đề tài:
Sự chống lại quy tắc cứng nhắc
trong chính sách tiền tệ và lý thuyết kinh tế.
Sinh viªn thùc hiÖn
: 1. LÊ THU HIỀN-CQ521191
2. PHÙNG HOÀI THU - CQ523500
3. NGUYỄN THỊ KHANH-CQ521829
4.NGUYỄN NHƯ NGỌC - CQ522542
5.PHẠM THỊ HÀ MY - CQ534678
6. TRƯƠNG THỊ MINH ÁNH- CQ520264
7. PHẠM THỊ THU HÀ - CQ520980
8. LÊ THỊ LAN ANH - CQ520088
Líp
:

LỊCH SỬ HỌC THUYẾT KINH TẾ 21
Hµ Néi - 09/2012
1
Sự chống lại quy tắc cứng nhắc
Xem Chính sách tiền tệ và lý thuyết kinh tế.
Introduction ( Giới thiệu)
Trọng tâm bài luận văn của tôi là để giải thích lý do tại sao học thuyết kinh tế
của Keynes không tương thích với các nguyên tắc cứng nhắc bằng cách phác họa
quan điểm của ông về "quy tắc" trong chính sách tiền tệ và tiền tệ trong quan hệ
quốc tế. Mọi sự dính dáng đến chủ nghĩa mĩ học trang trọng hoặc những quy tắc
được định nghĩa 1 cách cứng nhắc dường như không diễn tả hêt được công việc
của ông. Sự đối lập trong lý thuyết của Keynes về tính thẩm mĩ trang trọng đã dẫn


đến quan điểm của ông ấy cho rằng kinh tế học không chỉ riêng là một ngành khoa
học mềm hay khoa học về đạo đức. Lý thuyết kinh tế thiếu giả định cơ bản, cái mà
thực sự cần thiết để xây dựng một ngành khoa học cứng.
Không có sự tranh cãi về những điểm này: những thuật ngữ như không chắc
chắn, những sự kì vọng, sự xây dựng kỳ vọng, sự tin cậy là điểm trung tâm trong
sự phân tích kinh tế học của Keynes và cũng quan trọng để hiểu ngân hàng trung
ương và các quan hệ tiền tệ quốc tế. Tôi, sau đó, sẽ liên kết lý thuyết kinh tế của
Keynes 1 cách đại khái với một bài luận học thuật về vấn đề lý thuyết kinh tế sẽ trở
thành một môn khoa học cứng hay là một học thuyết được tạo ra một cách lỗi lạc.
Tất nhiên sau hơn bảy thập kỷ kể từ sau sự đóng góp của Keynes, sự kết nối
đến các cuộc tranh luận hiện nay nên càng thận trọng càng tốt (xem Moggridge
2002). Nghiên cứu bất kỳ phần nào của công việc của Keynes đều nên chắc chắn là
một đề tài để giải thích ý nghĩa của nó (Rorty 1991).
Bài luận bắt đầu từ Phần 1 với một mô tả ngắn về những cuộc tranh luận "Quy
tắc so với Quyết định". Phần 2 hướng đến các cuộc tranh luận hiện tại. Phần 3 đề
cập đến công việc của Keynes về chính sách tiền tệ và quan hệ tiền tệ quốc tế, mà
không bộc lộ bộc lộ ra sự thiên vị nào đối với những quy tắc cứng nhắc trong việc
hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế. Phần 4 cung cấp một bản tóm tắt về về những
thuật ngữ triết học được giới thiệu tại đây và ý nghĩa của chúng. Trong phần 5, tôi
giải thích lý do tại sao các khái niệm và lý thuyết kinh tế của Keynes đi xa hơn
xem như là được nêu trong Phần 1. Cuối cùng, tôi sẽ trình bày những kết luận
trong suy nghĩ của tôi ở phần 6.
Ghi chú về "Quy tắc so với Quyết định"
2
Dòng lịch sử của những tài liệu về sự tranh luận "quy tắc so với quyết định" đã tái
dựng về ý nghĩa của chính những cuộc tranh luận đó với những thuật ngữ "quy tắc"
và "quyết định" (Issing 1996). Gốc rễ của những cuộc tranh luận này đã kéo theo
một cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ trường phái ngân hàng và những ng
ủng hộ trường phái tiền tệ (xem Bordo và Eichengreen 2009). Sự diễn giải hiện đại
của cuộc tranh cãi này là sự phân biệt giữa những tín đồ ưa thích các quy tắc cứng

nhắc về chính sách tiền tệ và hệ thống tiền tệ quốc tế, và những tiêu chuẩn tiền tệ
có thể cân nhắc (Mishkin Năm 2009; Orphanides và Wieland 2008; Issing 2011).
Những quy tắc trong quan hệ tiền tệ quốc tế được xác định để giảm thiểu sự lên
xuống của tỷ giá hối đoái (tiêu chuẩn vàng, tỷ giá hối đoái cố định) và để tránh sự
mất cân bằng cán cân thanh toán (McKinnon 1993).
Việc cân nhắc giữa quy tắc và quyết định cũng dẫn đến công việc của Simon
(1936).Theo lý thuyết số lượng, Simons phản đối rằng số lượng tiền có thể không
được xây dựng như là một số lượng cứng nhắc như những người ủng hộ học thuyết
đã từng nghĩ. Simons chỉ rõ rằng số lượng chính nó đã rất dễ thay đổi, bởi vì nó
phụ thuộc vào vận tốc của tiền bạc, cái mà không thể được dự đoán một cách chắc
chắn. Bất kì 1 quan điểm cố hữu nào, sau đó đều phải thừa nhận rằng thị trường sẽ
không đáp lại 1 số lượng nào chắc chắn, nhưng đối với chính sách của ngân hàng
trung ương, nó lại được nhận thức, tìm hiểu cách ra quyết định và hành động dưới
con mắt của cộng đồng (Muchlinski 2011a). Không có nghi ngờ gì rằng việc giải
thích và ý nghĩa của "quy tắc so với quyết định" đã được thay đổi trong suốt những
thập kỷ qua. Một tiêu chuẩn giải thích sự khác biệt giữa cứng nhắc, tức là quy tắc
không phản ứng, mà được định nghĩa như 1 con đường với những phương tiện
hoặc mục tiêu mà không có bất kỳ 1 sự liên hệ nào đến hiện trạng và những
nguyên tắc phản ứng không cố định, trong đó hàm ý do những sự phản hồi thiếu
của hiện trạng quan sát. Trong khi đó, những quy tắc không có sự phản ứng đó tập
trung vào sự bổ sung vào chính nó, những nguyên tắc có sự phản ứng lại tập trung
vào các mục tiêu đã đc công bố bằng cách sử dụng phương pháp thích nghi.
Trong Những điểm mới về kinh tế vĩ mô cổ điển (NCM), có thể lấy ví dụ, thị
trường quen thuộc với nhiều kiểu phản ứng, do đó những cách phản ứng đó được
định nghĩa như là "quy tắc phản hồi ". Quy tắc trong chính sách tiền tệ được hiểu
như một phương pháp để hạn chế sự tùy ý ra quyết định của ngân hàng trung ương
và sự hỗ trợ của họ để đánh lừa công chúng bởi "lạm phát sai lệch". Blinder chỉ ra
rằng:
Trong những cuộc tranh cãi hiện tại về “Quy tắc so với quyết định”, dựa trên thời
gian không thống nhất, tôi đã tin rằng mọi thứ đã khác hẳn. Theo quan điểm của

tôi, các bài viết học thuật đã tập trung sai vấn đề và cả những thứ không phải là vấn
3
đề rồi đề xuất ra rất nhiều giải pháp (bao gồm cả chủ ngân hàng trung ương bảo thủ
Rogoff ) làm chúng có ít ý nghĩa trong thực tế thế giới (1998 Blinder, 50).
Trong lý thuyết hiện đại của ngân hàng trung ương, những quyết định tùy ý được
hiểu như quyết định dựa trên sự nhận thức được tình hình "không bị miễn cưỡng
bởi quy tắc hay những thứ đại loại như thế" (Tobin Năm 1983, 507). Một thực
trạng ngày nay là ngân hàng trung ương không tương thích với các quy tắc cứng
nhắc (Blinder năm 1999, 2005). Ngân hàng trung ương chi phối tới việc xây
dựng kì vọng bằng cách trông chờ vào sự ra quyết định (Bernanke 2004). Những
thay đổi trong lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng đến việc ra quyết định và hành động
của các đại lý. Do đó, ngân hàng trung ương cần phải giải thích quan điểm riêng
của mình trong hiện tại và sự thể hiện ở tương lai của kinh tế vĩ mô. Woodford
(2005) đã ví rằng ngân hàng trung ương như là một “ người quản lý của sự mong
đợi ", sử dụng sức mạnh để thiết lập tình trạng lãi suất của thị trường tiền tệ. Đối
lập với các tác giả khác (Blinder et al 2008; Issing 2005a), ông đi ngược lại với
phép loại suy máy móc bởi vì "ngân hàng trung ương không giống như chỉ đạo một
tàu chở dầu hoặc thậm chí dẫn đường một tàu vũ trụ "(2005a, 4). Về điểm này, vai
trò cơ bản của và thực hành lý thuyết ngân hàng trung ương có thể hầu như không
được bỏ qua. Việc dẫn dắt những kỳ vọng trên thị trường không thể được tách ra từ
lợi tích của ngôn ngữ và giao tiếp (Muchlinski 2011a, c).
Theo Cục dự báo lạm phát tại Hoa Kỳ, sự điều hành kỳ vọng thị trường thông qua
bởi sự thiết lập của lãi suất quỹ dự trữ liên bang đã được kết hợp với một trường
phái Keynes, trong khi tập trung vào một nguồn cung tiền tệ cố định hoặc sự gia
tăng lãi suất 1 cách tương ứng, được xem như một chiến lược của những người
theo chủ nghĩa trọng tiền (Lindsey et al 2005). Tuy nhiên, Cục Dự trữ Liên bang đã
không có ý định hành động theo và cũng không có thể hành động trên cơ sở trường
phái trọng tiền "quy tắc phần trăm k" (Muchlinski 2011a).
Các kênh chuyển giao tiền tệ được điều khiển bởi sự thay đổi kỳ vọng thay đổi của
những người tham gia thị trường. Một ngân hàng trung ương phải có khả năng

hành động linh hoạt nhưng điều này không ngụ ý hành động mà không có cam kết
với chính nó. Tự cam kết là liên quan đến tính minh bạch, độc lập, và trách nhiệm.
Minh bạch có nghĩa sự hiểu biết về những gì một ngân hàng trung ương, trên thực
tế, những gì ngân hàng đó đang làm (Issing 1999). Ngân hàng trung ương phải tập
trung vào quá trình xây dựng kì vọng để tác động đến những mục tiêu dài hạn và
để "mỏ neo kỳ vọng ở một mức độ phù hợp với nhiệm vụ của việc duy trì ổn định
giá cả "(2009 Issing, 7).
4
Bernanke (2004) cho rằng sự quan tâm rất lớn tới vấn đề liệu một quy tắc cứng
nhắc có hàm ý một hiệu quả cao hơn của chính sách tiền tệ:
Vấn đề chính là số tình huống bất ngờ mà chính sách có thể trả lời là có hiệu quả
vô tận (và, thật sự là, không thể lường trước được). Trong khi chỉ định một quy tắc
chính sách hoàn chỉnh là không khả thi, thì, một ngân hàng trung ương có thể làm
nhiều hơn thế - bằng cả hành động và lời nói của mình - để tăng cường khả năng
của thị trường tài chính để có thể dự đoán các hành động chính sách tiền tệ. Với sự
tôn trọng đến hành động, các ngân hàng trung ương nên cư xử càng có hệ thống và
dễ hiểu càng tốt, cung cấp cho nền kinh tế vĩ mô 1 môi trường tài chính tốt. Đó là,
mặc dù chính sách tiền tệ không thể được thực hiện bằng những quy tắc máy móc,
chính sách có thể và cần phải có chức năng của " những thứ giống như nguyên
tắc". Rõ ràng, chính sác tiền tệ càng hệ thống hơn và phù hợp hơn với một vài
nguyên tắc cơ bản, thì sẽ càng dễ dàng hơn cho cộng đồng để có thể hiểu và tự
đoán được hành động của Fed ???? Ngôn từ cũng rất cần thiết trong trường hợp
này.
Những sự tranh cãi dựa trên những giả thuyết cứng nhắc mà không được kết nối tới
thế giới đương thời này đều sẽ không bao giờ chạm đến được phạm vi hoạt động
của ngân hàng trung ương, điều mà luôn tập trung vào tính phi hiệu quả của chính
sách tiền tệ trong thực tế. Tất cả “số bằng cách vẽ hoặc vẽ bằng số” (Vickers 1998)
đều có liên hệ đến hiện tại, nghĩa là, thế giới nhận thức. Tại sao, sau đó, chúng ta
bàn luận về các quy tắc cứng nhắc hoặc một sự phân đôi "quy tắc so với sự tự do
cân nhắc"? Lý thuyết kinh tế và mô hình hóa thường cố gắng để làm cho những sự

cân nhắc với 1 nền kinh tế phức tạp được tương thích với một cách dạng ngôn ngữ
chính thức hoặc càng đơn giản càng tốt. "Đơn giản mang lại cho họ quyền lực
chính trị và sức mạnh"(1983 Tobin, 508).
Lý thuyết kinh tế của Keynes: Tóm tắt tổng hợp

Phần này giải quyết các ví dụ về những đóng góp của Keynes đối với chính sách
tiền tệ và quan hệ tiền tệ quốc. Tại sao lại là quan điểm về sự thích hợp của Keynes
? Không có quy tắc nào mang tên "quy tắc Keynes" được phát hiện như "quy
tắcTaylor". Một lý do chính là vì Keynes đã nhân ra chính sách tiền tệ và các quan
hệ tiền tệ quốc tế giống nhưlà một đề tài dính níu đến phương pháp tự do cân nhắc.
Chính sách tiền tệ và chính sách tiền tệ quốc tế (IMP)

5
Sự cần thiết phải đối mặt với mỗi quyết định chính sách mới, để đáp ứng mà không
ràng buộc chính thức có thể được xem như là công việc cơ bản của ngân hàng
trung ương. Tập trung trên các quy tắc cứng nhắc cố định là một cách giả tạo.
Keynes đã chỉ trích thế giới giả tạo trong bài viết của ông về lý thuyết lãi suất:
“Tất cả những gì đẹp đẽ, được thiết kế lịch sự, được tạo ra cho một phòng Hội
đồng và 1 sự điều chỉnh tốt đẹp cho thị trường, chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ
Tôi buộc tội các lý thuyết cổ điển kinh tế bởi chính nó đã là một trong những sự
đẹp đẽ, được thiết kế lịch sự đó, mà đang cố gắng để đối phó với hiện tại bằng cách
trừu tượng hóa từ thực tế là chúng ta biết rất ít về tương lai (1973 -1989 Keynes,
CW, XIII, 215).”
Một cách khác chính là để nhằm hiểu rõ hơn về ý nghĩa và mục tiêu của các quy
tắc (Blinderetal 2008). Ở mức mà chính sách tiền tệ hoạt động trên cơ sở của
những quy tắc xác định, các quy tắc này không thể được giải thích như các quy tắc
cứng nhắc được xác định. Những quy định được hiểu như là phục vụ một phương
pháp trong việc dẫn dắt công chúng xây dựng những kì vọng và cả những cuộc
tranh luận. Quy tắc, sau đó, phục vụ như là một chế độ phối hợp trong quá trình ra
quyết định và giao tiếp tương tác.

Chỉ ở trong 1 phép loại suy máy móc, thì sự mong đợi của những người tham gia
thị trường mới được mô hình hóa như đang được thúc đẩy bởi các quy tắc cố định.
Tính hiệu quả của chính sách tiền tệ không phải là một hậu quả của một lập luận
suy diễn dựa trên phản ứng kích thích kinh tế của một thế giới kiểu mẫu, mà dựa
trên cơ sở xác định cứng nhắc.
Một vấn đề mà tác động đặc biệt mạnh mẽ đến thị trường đó chính là là do sự
không đồng bộ của thời gian. Trong khi đó, những hành động của ngân hàng trung
ương đều được thực hiện trong một thời gian cụ thể, mà những câu trả lời của
người tham gia thị trường lại được thực hiện với thời gian có độ trễ khác nhau. Sự
không đồng bộ về thời gian này, về cơ bản liên quan đến cấu trúc dài hạn của lãi
suất tại các thị trường khác nhau. Sự hình thành các cấu trúc kỳ hạn lãi suất là do
"kinh nghiệm quá khứ và kỳ vọng hiện tại của chính sách tiền tệ trong tương lai,
(mà) được coi là không an toàn bởi ý kiến đại diện "(Keynes (1973-1989), CW,
Vol. VII, 203). 4. Keynes nhấn mạnh về việc thiếu tự tin và không chắc chắn là
không tương thíchvới mô hình của giả thuyết kỳ vọng hợp lý, cái mà duy trì sự
chắc chắn các kết quả trong tương lai. Khái niệm của ông thể hiện tính không ổn
định và sự mong manh của kiến thức.
6
Vì vậy, những quy tắc cứng nhắc, máy móc, độc lập của nền kinh tế đương thời
không còn thích hợp cho chính sách tiền tệ. Keynes chỉ ra theo sự tự do cân nhắc
chứ không phải là quy tắc cứng nhắc:
Chúng ta có thể và nên cam kết (i) để duy trì sự ổn định ngắn hạn trong một số
phạm vi; (ii) không phải viện đến sự giảm giá đơn thuần để có được lợi thế cạnh
tranh trong thương mại quốc tế Nhưng chúng ta phải duy trì một sự cân nhắc cơ
bản để làm bất cứ điều gì là cần thiết để làm dịu đi những đột biến hoặc sự căng
thằng mãnh liệt hay nhẹ nhàng, mà không đặt mình vào bất cứ sự chỉ trích nào .
Với thiện chí và sự hợp tác thực sự giữa các ngân hàng trung ương, tỉ giá hối đoái
cố định là không cần thiết cho thương mại quốc tế, và trong trường hợp không có
những điều kiện như vậy, chúng không chỉ nguy hiểm, mà hoàn toàn không đáng
tin cậy. Chúng ta sẽ có được sự hợp tác tốt hơn nếu chúng ta không tạo ra 1 sự

căng thẳng lớn lên chúng và cho phép các đối tác có được những sự cân nhắc
riêng. (Keynes 1935, Tương lai của Ngoại hối, C.W., XXI, 368).
Với tuyên bố này, người ta đặt câu hỏi tại sao, Keynes, sau đó, đề cập đến tiêu
chuẩn vàng (xem văn bản bằng chứng trong Keynes (1973-1989), XXI, 368) như
là nền tảng của quan hệ quốc tế tiền tệ?
Tôi đã giả định rằng : vàng sẽ vẫn là cơ sở trao đổi quốc tế, trong trường hợp rằng
ngân hàng trung ương sẽ tiếp tục giữ dự trữ bằng vàng và giải quyết số dư với các
ngân hàng trung ương của các lô vàng. Sự lựa chọn thay thế duy nhất sẽ chỉ là tiền
Anh hay một số loại tiền tệ nào đó như B.I.S., nhưng tấ t cả những cái đó đề không
có tính thực tế ngày hôm nay khi coi rằng đó là cơ sở của một hệ thống thế giới
(ibid). 7.
Sự liên quan đến vàng được xem như là một tiêu chuẩn quốc tế mà gây ra cả sự tín
nhiệm và sự thiếu khả thi. Việc thiếu tính khả thi ngụ ý việc không thể thực hiện
của của những bằng chứng thực nghiệm. Nó hoạt động như một khả năng nhận
thức luận. Người đọc có thể nghĩ rằng trên khái niệm về "khoảng cách đầu ra" như
là một phần quan trọng của " quy tắc Taylor" (xem 2001 ECB, 50).
Trong bài luận “ Lưu ý Vấn đề quốc tế và tiêu chuẩn vàng” , Keynes đã lập luận
chống lại các hạn chế bên ngoài và ủng hộ cho sự tự do cân nhắc. Đồng thời, ông
tán thành việc xác định từng loại tiền tệ trong mối quan hệ với vàng như là "đủ tiêu
chuẩn để trở lại để tiêu chuẩn vàng" (C.W., IX, 362). Có phải là một sự mâu
thuẫn? Điều này hàm ý sự xây dựng 1 cách cứng nhắc hệ thống tiền tệ quốc tế?
Chắc chắn là không! Keynes đã viết:
7
Nó có thể có vẻ kỳ lạ rằng tôi, người gần đây đã mô tả vàng như “một di tích tàn
bạo”, nên được phát hiện như là một người ủng hộ một chính sách như vậy, tại một
thời điểm khi cơ quan có thẩm quyền của đất nước đang thiết lập những điều kiện
cho sự quay lại với vàng mà họ cần phải biết để không thể hoàn thành. Nó cũng có
ý nghĩa rằng, chẳng bao giờ thích được vàng cả, tôi không muốn phải vỡ mộng.
Tuy nhiên, chủ yếu là bởi vì tôi tin rằng vàng đã gặp rất nhiều vấn đề, những điều
kiện bây giờ có thể được gỡ xuống cho sự quản lý của nó trong tương lai, sẽ không

thể chấp nhận được nếu khác với Keynes (1973-1989), CW, IX, 62).
Sự trở về với tiêu chuẩn vàng là một giải pháp thực tế, không phải là sự chấp nhận
của những "Quy tắc của trò chơi" (C.W., XXI, 361). Keynes đã đề xuất “tỉ giá hối
đoái thả nổi” như là một sự thay đổi tỉ giá hối đoái theo hoàn cảnh kinh tế, bởi vì
nó "được mong muốn duy trì vĩnh viễn một số quyền lực dần dần được điều chỉnh
giữa các quốc gia và trong những điều kiện quốc tế "(C.W., IX, 362). Chúng tôi
tìm thấy 1 số văn bản trong” Những bản viết được thu thập” chứng minh rằng
chính sự lưỡng lự này đã xác định từng loại tiền tệ trong mối quan hệ với vàng
giống như 1 quy tắc cố định dựa trên những chỉ số. Ông cũng tránh bất kỳ định
nghĩa chính xác nào của một trạng thái cân bằng hợp lý về tỷ giá hối đoái (ibid).
Để thuận tiện hơn, ông đề xuất điều phối những sự thay đổi tỷ giá hối đoái.
Tỉ giá hối đoái có thể được thiết lập khi không có căng thẳng quá mức nào ở hai
bên và không có sự dịch chuyển lớn về khối lượng vàng (dựa trên trên sự cân bằng
cán cân thanh toán), sẽ đáp ứng điều kiện của chúng ta về trạng thái cân bằng. Nó
sẽ là đủ nếu các ngân hàng trung ương khác nhau có thể chấp nhận mà không cần
lo lắng nghiêm trọng nào về thời gian, quy định rằng sẽ không có sự thay đổi đáng
kể thay đổi nào trong các điều kiện cơ bản (CW, XXI, 361-362).
Trong "Con đường để cải cách tiền tệ" (1924), Keynes đã giải thích rằng cả những
quy tắc cứng nhắc hay niềm tin vào một sự ổn định của bất kỳ tiêu chuẩn kim loại
nào đều là những phương pháp hợp lý để thành công. Để giải thích quan điểm của
ông, tôi muốn nói thêm rằng, lý thuyết thuần túy sẽ không có cách nào để có được
sự rõ ràng nếu như những tiên đề đó không liên quan gì đến thế giới đương đại.
Những lý thuyết thuần túy được xây dựng hướng tới mục đích của của sự đơn giản
hay chủ nghĩa thẩm mĩ trang trọng đều là 1 một khái niệm mù mờ. "Các tiêu chuẩn
không sử dụng kim loại, cái thứ mà chúng tôi có kinh nghiệm, đã là 1 thứ gì đó
hơn là thí nghiệm lạnh lùng "(Keynes (1973-1989), CW, Vol. IV, 170). Lập luận
này là rất quan trọng. Những quy tắc không còn hoạt động của tiêu chuẩn kim loại
"đã trở nên bấp bênh bởi những lý do giả tạo của nó "- một thời gian dài trước
chiến tranh (1924, 171).
8

"Luật chơi" đã được xây dựng như Keynes đã phân tích trong cuốn sách của ông
về Tiền tệ và Tài chính Ấn Độ (1913). "Quy tắc của trò chơi" không được áp dụng
để thực hành vì nó đã được nhận thức và giải thích như là một sự cam kết (xem
Eichengreen Năm 1995; Muchlinski 1999b).
Keynes phản đối rằng các vấn đề thời kỳ hậu chiến tranh-bao gồm cả vấn đề của
các điều khoản và khái niệm để xác định và mô tả các vấn đề kinh tế thực tại-
không thể được giải quyết với một sự phụ thuộc vào tính thẩm mĩ hình thức.
Giả sử rằng có một số cơ chế tự động điều chỉnh hoạt động một cách trơn tru duy
trì trạng thái cân bằng, thì chúng chỉ tồn tại khi chúng ta tin tưởng phương pháp tự
do kinh doanh là một ảo tưởng giáo điều mà không quan tâm đến những bài học
kinh nghiệm lịch sử và không cần phải có sự hỗ trợ từ phía sau từ những học
thuyết đã được hoàn thiện. Tiền tệ quốc tế và tự do kinh doanh đã nhanh chóng bị
phá vỡ trước chiến tranh. Trong thời kỳ chiến tranh, nó đã biến mất hoàn toàn.
Thường ông không muốn lấp đầy khoảng cách giữa các giải pháp kinh nghiệm với
ảo tưởng. Sự kéo theo những học thuyết hoàn thiện của những của những giả
thuyết được thiết kế một cách đẹp đẽ đều là không thể và thậm chí không được
mong muốn.Ông, sau đó, bước vào lĩnh vực thuật ngữ và kinh tế không chắc chắn,
vì lợi ích rõ ràng của nó.
Keynes đã đưa ra những phản đối của ông đối với lý thuyết chính thống, trong đó
nói rằng lãi suất của ngân hàng và sự thu hẹp tín dụng có thể được xem xét lại để
điều chỉnh sự mất cân bằng trong cán cân thương mại bằng cách cách giảm mức độ
làm việc và tiền lương, do đó để phục vụ cho một trạng thái cân bằ ng rộng
hơn (CB thị trường). Ông giải thích: "Vì chúng ta đã hiểu biết hơn về cách làm
việc của nó, tôi không tin rằng nó sẽ không bao giờ được sử dụng lần nữa cho mục
đích này"
Keynes tập trung vào mức lãi suất như một phương tiện để đạt được mục tiêu nội
bộ. Ông không nói lời ủng hộ tỷ giá hối đoái cố định bởi vì bất kỳ ngân hàng trung
ương nào đều nên quản lý lãi suất thay vì hy sinh công cụ này cho 1 sự cân bằng
rộng hơn.(Cb thị trường) Hơn nữa, tỷ giá hối đoái phải được ổn định trong ngắn
hạn với mục tiêu nhất định, trong khi đó tất cả các nước bắt buộc để tránh các

chiến lược như phá giá cạnh tranh (CW, XXI, 368). Không có "bàn tay vô hình"
nào kết hợp quyết định của các nước với kết quả của một trạng thái cân bằng quốc
tế. Điều này cũng đúng đối với chính sách ngân hàng trung ương trong lý thuyết
hiện đại:
9
Trong thế giới hiện đại của tiền giấy và tín dụng ngân hàng không có lối thoát nào
từ việc tiề n tệ 'được quản lý', cho dù chúng ta muốn hay không; chuyển đổi thành
vàng sẽ không làm thay đổi thực tế là chính giá trị của vàng phụ thuộc vào chính
sách của Ngân hàng Trung ương. ( ) Nó sẽ là vô lý để điều chỉnh tỷ giá của ngân
hàng bằng cách tham chiếu đến một tỷ lệ đã mất tất cả ý nghĩa của nó. ( )Tỷ giá
của ngân hàng hiện đang được sử dụng, tuy nhiên không đầy đủ và thực nghiệm,
điều chỉnh việc mở rộng và giảm phát của tín dụng trong lợi ích của sự ổn định của
kinh doanh và sự vững chắc giá cả.
Keynes nhìn nhận ngân hàng trung ương là tương thích với quan điểm hiện đại.
Một người có thể có được khuynh hướng tranh luận như của ông không chỉ vượt ra
ngoài quy tắc cứng nhắc, mà còn vượt ra ngoài các quy tắc so với sự tự do cân
nhắc, bởi vì ông đã không giải thích lý thuyết của ông trong vòng một sự phân đôi
hoặc các thuật ngữ kép.
Định hình quan hệ tiền tệ quốc tế
Tôi muốn tiến gần hơn tới quan điểm của Keynes về việc hình thành tiền tệ quốc tế
dựa trên mối quan hệ cơ bản của hệ thống đa phương tiện. Keynes đã thay đổi quan
điểm của mình về cơ chế quốc tế của các phương pháp đã được điều chỉnh vài lần,
nhưng một trong những đề xuất chi phối là: Ông đã không thể hiện một sự thay đổi
trong tỷ giá hối đoái như là một phương pháp của quá trình thanh toán bù trừ thị
trường. Theo quan hệ tiền tệ quốc tế, ông chỉ ra quy tắc điều chỉnh luôn chú ý đến
tình hình hiện đại của đất nước. Điều này không bao gồm một chiến lược đề phòng
giảm giá cạnh tranh của bất kỳ quốc gia riêng biệt nào.
Moggridge đã phác thảo trong công việc tiên phong của ông, rằng Keynes đã từ
chối quy tắc cứng nhắc của Kế hoạch trắng bởi vì : “Nó giống nmột sự đầu hàng
của chủ quyền và cứng nhắc như vậy là không thể chấp nhận được đối với người

Anh, người đã đẩy quan điểm của Keynes theo hướng thận trọng hơn, và trong các
nỗ lực tổng hợp, cái mà đã được Quỹ bình ổn làm cơ sở để soạn thảo, những vấn
đề của quốc gia trong việc thiết lập tỷ giá ban đầu là vấn đề trọng tâm”. Tôi nghĩ
rằng lập luận của ông làm sáng tỏ những gì là quan trọng, trong khi Boughton
tranh luận từ một quan điểm khác. Boughton (2002) đã viết rằng Keynes mất tất cả
các trận chiến chống lại Trắng vì ông muốn bảo vệ đế quốc, chống lại chủ nghĩa đa
phương
Trong cách hiểu của tôi, một sự đề nghị mà đã làm tổn hại mạnh mẽ đến lãi suất
của nước Anh hay bất cứ 1 quốc gia nào khác có thể không phải là sự thành lập để
10
thích nghi với những hiệp ước quốc tế. Keynes cũng tóm tắt ý nghĩa của thuật ngữ
chế độ đa biên: "Điều đó là hoàn toàn mag tính chất quốc tế, dựa trên một thỏa
thuận chung và không phải trên sự đa dạng của các thoả thuận song phương . Tóm
tắt trên khuôn khổ của Ngân hàng trung ương thế giới (ICU), trong đó bao gồm cả
các quốc gia chủ nợ và các quốc gia con nợ: "Một đất nước ở trong tín dụng hoặc
thẻ ghi nợ với Liên minh Tiền tệ như một toàn thể. Điều này có nghĩa là các cơ sở
thấu chi,trong khi một cứu trợ đối với một số người, không phải là một gánh nặng
thực sự cho người khác ". Ông đã đưa ra ví dụ lý do tại sao các thoả thuận song
phương được đánh giá với thái độ hoài nghi. Một trong những phản đối chính
trong thoả thuận song phương là chúng phụ thuộc nhau về lý do chính trị và có thể
gây ra hoặc làm trầm trọng thêm sự phân kỳ giữa các quốc gia. Cả chủ nợ cũng và
con nợ sẽ có thể vẫn còn duy trì sự cân đối của họ về thanh toán. Điều này chính
xác là cốt lõi của chủ nghĩa đa phương của mình. Đề nghị cho tùy ý của Phương
pháp cân nhắc của Keynes đã được ghi lại trong bản thảo của mình trên ICU rất rõ
ràng.
Hãy để tôi kết luận: I.C.U. đã được khái niệm hóa như một phương pháp để đối
phó với những vấn đề quốc tế vấn đề hơn là né tránh chúng. Vì vậy, Keynes liên
kết ý tưởng của mình, khái niệm và danh mục để thế giới thực nghiệm . Đây là lý
do tại sao Keynes định nghĩa đồng tiền quốc tế như vàng, vì ông không muốn nhìn
thấy tài chính của nền kinh tế thế giới phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ và tiền tệ Mỹ.

Cơ chế điều chỉnh mà Keynes đã giải thích là vượt ra ngoài phạm vi của phương
pháp tự do kinh tế. Hơn nữa, nó đã vượt ra ngoài sự phân đôi "quy tắc so với quyết
định" bởi vì ông đã thu hút sự chú ý đến tình hình hiện đại như một toàn thể, trong
đó mỗi nước sẽ sở hữu một vị trí tạm thời. Một sự thay đổi vị trí của một cá nhân
cũng sẽ thay đổi kết quả của toàn bộ, nhưng không phải trong một phương thức bổ
sung, bởi vì toàn bộ không phải đơn giản là tổng của các bộ phận của nó. Nếu một
thứ thay đổi hoàn toàn thì không phải là một thực thể cố định, việc điều tra của các
bộ phận của nó đòi hỏi phải có phương pháp riêng biệt và các phương tiện phân
tích. Chúng được giải thích dựa trên mối tương quan hữu cơ và không phải là một
sự bổ sung tuyến tính của các thành phần của nó. Tóm lại, chúng tôi đã xem xét
một số bằng chứng văn bản công việc của Keynes. Tiếp theo điểm tôi muốn thực
hiện là giới thiệu một số khía cạnh của phương pháp luận.
Một số quan điểm theo triết học
Đối với Keynes,sự cần thiết của việc hình thành các quan hệ tiền tệ quốc tế có liên
quan với sự cần thiết phát triển các điều khoản và khái niệm mới. Nó không thể
giải thích những vấn đề kinh tế theo thuật ngữ mà không loại trừ vấn đề gì cả. Sự
11
cần thiết của một tư duy mới yêu cầu phạm trù mới và các điều khoản mới bước
vượt ra ngoài niềm tin trong quan niệm ảo tưởng hoặc những mệnh đề cứng nhắc,
được đề xuất chắc chắn và hoàn thành phạm vi kiến thức. Keynes đã sử dụng các
đề xuất hạn trong ý nghĩa của phán xét và thuyết phục (Xem Muchlinski 2003a).
Bởi vậy, đề xuất được liên kết với thế giới đương đại, với kinh nghiệm và cả
những kỳ vọng.
Đó là nhu cầu của Keyne khi muốn rời bỏ các yếu tố được xây dựng vì lợi ích của
hình thức chính thức và không chính thức, được xác định bởi những lý thuyết
chính thống trong quá khứ để giới thiệu một cái nhìn hiện đại của tư duy kinh tế.
Lý thuyết chính thống đã đánh đồng 1 cách lỏng lẻo với lý thuyết cổ điển, tân cổ
điển lý thuyết và các tiên đề tiềm ẩn cùng những giả định được xác định nghiêm
túc. Cốt lõi của nó là lý thuyết cân bằng, giả định hợp lý tối ưu hành vi và mô hình
cách tiếp cận chính thức để xây dựng kỳ vọng,vì thế việc suy diễn những tiên đề là

phương pháp chủ yếu.
Ngược lại, Keynes yêu cầu làm cho rõ ràng những gì tiềm ẩn trong việc sử dụng
những giả định và tuyên bố. Ưu thế của lập luận suy diễn là một bất cập trong
tương lai cho kinh tế như là một khoa học xã hội. Keynes nhấn mạnh sự liên quan
của lý do phải quy nạp trong kinh tế. Ông nói: "Dường như với tôi rằng kinh tế là
một chi nhánh của logic, một cách suy nghĩ. ( ) Tiến bộ trong lĩnh vực kinh tế bao
gồm gần như hoàn toàn những tiến bộ cải thiện trong việc lựa chọn các mô hình.
( ) Kinh tế học là một khoa học về tư duy trong các mô hình tham gia vào nghệ
thuật của việc lựa chọn mô hình có liên quan đến thế giới hiện đại "(CW, XIV,
295-296, Thư RF Harrod, 04 tháng 7 năm 1938). Trong khi đó,xây dựng mô hình
là phương pháp tiếp cận lý thuyết thích hợp, khấu trừ là cách duy nhất của lý luận
nên được đánh giá cẩn thận và bổ sung bằng các phán xét cá nhân và phán xét
thông thường (Muchlinski 1999a, 2003a). Đây là lý do tại sao một số bản thảo đầu
và luận án của ông về xác suất có tầm quan trọng để hiểu lần lượt các phạm trù
ông đã thực hiện (2002 Muchlinski, 2003b, 2007a).
Tôi mô tả tóm tắt một số nguyên tắc cơ sở của chủ nghĩa hiện thực bản thể học
truyền thống, dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm và kiến tạo để làm rõ lý do tại sao
những quan điểm kinh tế của Keynes không thể được chỉ định để xem xét,có liên
quan sự thích hợp với tư tưởng chính thống.
Tương ứng với những dòng lịch sử của triết học của khoa học, người ta có thể phác
thảo một số kỷ nguyên lịch sử (Chalmers 2006). Sự cần thiết phải áp dụng thực tế
nguyên tắc lý thuyết kinh tế đã được đề xuất bởi một số nhà kinh tế (Baert 1996).
12
Trái ngược với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lý tưởng bao gồm một sự chấp nhận
của một thế giới bên ngoài hoặc bản thể học.Thật khó có thể phủ nhận rằng một số
đối tượng, như những viên đá, cây cối, nhà cửa tồn tại. Nhưng điều này không hàm
ý rằng hoàn cảnh kinh tế, "sự thật" là một phần của bản thể học cho thế giới.
1 cách ngắn gọn: Ontology giả định rằng các đối tượng tồn tại độc lập trong nhận
thức hoặc sự công nhận của từng người. Một cái nhìn bản thể học rằng duy trì sự
tồn tại độc lập là một trong những cách nghĩ hoặc cảm giác về chúng. Tổng quát

hơn: Một tài sản hay nguyên tắc là hợp lý nếu nó là một phần của chất (chính nó).
Do đó, tài sản hoặc nguyên tắc là vốn có đối tượng. Kant cũng như New-Kant đã
bị đối lập với bản thể học.
Câu hỏi là, liệu bản thể học của chủ nghĩa hiện thực có bất kỳ sự liên quan nào đến
khoa học kinh tế.Tôi sẽ hoài nghi thêm bởi vì cơ cấu kinh tế và các đối tượng
không phải đã được đưa ra. Sự thực về kinh tế được tạo ra hoặc tạo ra các sự thật.
Chúng được dựa trên sự định nghĩa và các khái niệm để mô tả các quyết định kinh
tế và hành động thị trường. Như Keynes giải thích quyết định và hành động kinh tế
dựa trên sự dự tính xây dựng trong ánh sáng của sự không chắc chắn và sự phán
đoán thông thường hoặc ý kiến trung bình bởi vì " với một người đàn ông trong
một trạng thái của sự thiếu hiểu biết " không có" cách giải thoát "(Muchlinski
2011b). Hơn nữa, sự thật kinh tế không phải độc lập với sự nhận thức hoặc sự công
nhận của mỗi cá nhân. Theo công việc của Keynes, tôi đề nghị phải giải thích rằng
quan điểm của ông không dựa trên chủ nghĩa hiện thực bản thể học.
Tôi quay về quan điểm truyền thống về chủ nghĩa kinh nghiệm. Đây là chi nhánh
của chủ nghĩa kinh nghiệm tập trung vào sự tương ứng giữa sự thật và thực tế. Hai
giả thuyết cơ bản được đề cập: Một cho rằng không có vai trò cho một nguyên tắc
ưu tiên. Giả thuyết thứ 2 nói về bất kỳ đề xuất nào về các sự kiện hoặc các sự kiện
cơ bản gốc rễ trong kinh nghiệm. Đề xuất này hoặc là một mô tả về kinh nghiệm
hoặc sở hữu một mối quan hệ hợp lý mô tả kinh nghiệm dựa trên một kết luận quy
nạp.Quan điểm của Hume cho rằng kinh nghiệm là sự tích lũy kinh nghiệm chủ
quan gây ra vấn đề của biện minh cho mục tiêu hiểu biết.
Đây là điểm khởi đầu cho triết học của Kant, một quan điểm siêu việt. Kant phê
bình Lý luận thuần túy (CPR). Đó là gì? Ông trả lời bằng cách liên kết những câu
hỏi để suy nghĩ. Trên phương diện khoa học, ông đã vạch ra với Copernican “chỉ
thể hiện một mối quan hệ với những khả năng của kiến thức”( Phê bình lý tính
thuần túy (1781/1965), phần B 266). Kiến thức là một kết quả của sự tương tác
giữa trực giác và khái niệm. Trong tất cả những điều này, không chắc chắn nó vẫn
13
còn tồn tại vì trực giác chỉ là một điều kiện tiên quyết của kiến thức, không phải là

điểm cuối cùng của việc chứng minh kiến thức. Sự suy nghĩ cũng được liên hệ với
logic siêu việt ngụ ý rằng sự hiệu nghiệm thực sự bị giảm sút tới khả năng nhận
thức. Không có sự nhận thức chắc chắn trong luận thức luận của Kant. Quan điểm
của ông nhấn mạnh tầm quan trọng của những thứ dễ hiểu, mối quan hệ giữa chúng
là sự nhận thức và sự hiểu biết của chúng ta.Trong đó sự logic chiếm một vị trí
quan trọng. Một kết luận quan trọng của triết học Kant là sự khác biệt của hiểu biết
và kinh nghiệm. Phương pháp khoa học kết hợp một thứ tự không quan sát một hệ
thống độc lập mà phải để kinh nghiệm thực sự làm điều đó. Có thể nói, một quan
sát đó như được nhìn thấy để thấm nhuần lý thuyết. Do đó thuyết nhị nguyên quan
sát và lý luận bị phá vỡ. Triết lý siêu việt nói về triết học Kant, hoạt động đưa ra
chức năng cao cấp của logic như gắn vào ngôn ngữ và một nguyên tắc ưu tiên. Tuy
nhiên mọi lý thuyết phải đem lại kinh nghiệm, nếu không chúng sẽ được gọi là
“trống rỗng” hay “mù” các khái niệm. Phê phán của Kant về kiến thức đã đưa ra
bản thể học và siêu hình học. Chúng ta quay trở lại với triết học Kant:
Chúng ta chắc chắn đang sở hữu một kiểu kiến thức tiên nghiệm. (…) Do đó
những gì tiếp theo chúng ta hiểu được sẽ là từ kiểu kiến thực tiên nghiệm đó,
không phải kiến thức tiên nghiệm độc lập với mọi kinh nghiệm. (…) Như vậy,
chúng ta sẽ nói về khi một người đàn ông đã đục khoét móng nhà của ông ta, ông
ta đã có thể biết trước được rằng nó sẽ đổ vỡ mà ông ta không cần chờ đợi thực tế
để biết rằng ngôi nhà sẽ đổ (phê bình lý luận thuần túy Kant (1781/1965, phần B
3).
Kant nhấn mạnh: "Mặc dù tất cả kiến thức của chúng ta bắt đầu bằng kinh nghiệm,
nó không tuân theo tất cả các kinh nghiệm (phê bình lý luận thuần túy Kant
(1781/1965, phần B 1), tương tự với Kant, Keynes chỉ ra những giới hạn của kinh
nghiệm như một hướng dẫn đưa ra quyết định. Những lời chỉ trích của ông được
gửi tới một trường thực nghiệm Anh.
Nếu kinh nghiệm và kiến thức của chúng ta đã hoàn thiện, chúng ta nên làm nhiều
hơn nhu cầu của phép tính xác suất. Và nơi kinh nghiệm chúng ta chưa hoàn thiện,
chúng ta không thể hi vọng lấy được sự đánh giá xác suất mà không có sự trợ giúp
của trực giác. Kinh nghiệm trái ngược lại với trực giác, không thể có đủ khả năng

cho chúng ta một tiêu chuẩn để đánh giá liệu bằng chứng đã cho xác suất của hai
mệnh đề có bằng nhau hay không ( Keynes (1973–1989).
Cách tiếp cận siêu việt này của Kant nhấn mạnh kinh nghiệm nhưng cũng không
bỏ qua giới hạn của nó (Parsons 1992). Những tinh hoa của nó là tất cả đối tượng
nào được đưa ra nhận thức. Nó không bao gồm khả năng xác định các đối tượng
14
nhận thức với bản thân của đối tượng này. Đối với Kant ngôn ngữ không chỉ là
một phương tiện truyền thông nhưng cũng là một yếu tố cấu thành của tri thức.
Trong khi đó, triết học của Kant là một chuyển đổi của siêu hình học; triết học
phân tích – sau Ludwig Wittgenstein (công việc của ông kể từ năm 1929 ) và
Gilbert Ryle ( 1966) trong số những người khác lần lượt đưa ra những bản thể học.
Wittgenstein vàRyle đã đưa ra ý tưởng chính xác hơn (Muchlinski 2011c).
Có bất cứ sự liên quan đến công việc của Kenyes ở đây không? Lý thuyết kinh tế
của ông không xây dựng dựa trên truyền thống chủ nghĩa kinh nghiệm như đã giới
thiệu trước đó. Lý thuyết Kenyes về kiến thức bao hàm ý không chắc chắn và
không thể lý giải được sự mỏng manh của kiến thức. Ông phản đối chủ nghĩa kinh
nghiệm trong những nghiên cứu về xác suất. Ông giải thích xác suất từ một cái
nhìn của nhận thức luận quan điểm trên. Một xác suất chứa đựng nhận thức thực tế
của một cá nhân và một nguyên tắc ưu tiên.
Điểm tiếp theo, tôi muốn giải quyết với xu hướng kiến tạo mà không đi sâu hơn về
nguồn gốc và sự phát triển. Kiến tạo duy trì kiến thức khoa học là kết quả của công
trình khoa học tiến bộ hay suy nghĩ. Do đó, sự thật không được tiết lộ cho các nhà
khoa học nhưng được xây dựng bởi họ. Tri thức khoa học được thành lập. Đương
nhiên, có sự khác nhau giữa diễn giải và tạo dựng. Mặc dù có sự khác biệt, một
trong những tính năng đặc biệt của kiến tạo có thể được xác định là : Khoa học
không phát minh một cơ cấu xác định của thực tại. Theo cách hiểu này có 2 kết
luận đưa ra: Một dẫn đến ý tưởng rằng bất kỳ quá trình khoa học nào cũng để giải
quyết các công trình xã hội vì lợi ích của sự hiểu biết. Cách hiểu thứ hai về cơ bản
là bi quan hơn bởi vì nó nói rằng không thực tế xã hội cũng như xã hội nào có thể
hiểu hơn so với thế giới tự nhiên. Trong hướng nhìn kiên quyết của mình,xu hướng

kiến tạo phủ nhận mọi đối tượng nào đề cập đến thế giới đương đại bởi vì nó đi
theo quan điểm của chủ nghĩa xây dựng thực tế. Bởi vì một quan điểm xây dựng
không có gì hơn một khái niệm hoặc ý nghĩa của Kant, một khái niệm rỗng.
Trái ngược với các cách nhìn được nêu trong đoạn trước, một cách tiếp cận sửa đổi
để kiến tạo một thời gian ngắn sẽ được giới thiệu: Nó dùng để chỉ sự thật là một
vấn đề có tầm quan trọng đáng kể.Tuy nhiên, sự thật, thực tế và sự kiện được ràng
buộc bởi các công trình xây dựng xã hội. Cuối cùng, sự thật được xây dựng 1 cách
xã hội. Theo quan điểm này, kinh tế là do việc giải thích, định nghĩa, nhận thức, và
sự chấp nhận của cộng đồng khoa học. Tiếp theo đó là gì? Hậu quả đầu tiên là sự
bác bỏ quan điểm thực chứng của khoa học và cho biết ý tưởng về cái gọ là sự thật
đồng nhất. Vì vậy, giả định và khái niệm trong lý thuyết kinh tế có nghĩa là, tính
thanh khoản ưu đãi hoặc tiền đề của sự khan hiếm, các thể loại của nghi ngờ và
không chắc chắn, nên được thảo luận trong hoàn cảnh xã hội, trong đó họ đã được
15
thành lập và không phải là bản thể học cho thực tế. Tóm lại, chúng ta đã xem xét
các tính năng của một số dòng của triết học. Lý thuyết triết học cần được phân biệt
với lý thuyết khoa học và phương pháp của nó, ví dụ như lý thuyết kinh tế. Phương
pháp khoa học bao hàm một trật tự không thể quan sát được hệ thống không được
liên kết tới một trật tự thực phải, vì tầm quan trọng của một nguyên tắc ưu tiên. Tôi
bây giờ chuyển sang lý thuyết kinh tế của Keynes để giải thích lý do tại sao quan
điểm của ônglà tương thích với triết lý siêu việt. Do đó, kinh nghiệm có thể giải
thích cho chúng tôi những gì đã xảy ra, nhưng nó không thể tiết lộ cho chúng ta
những gì sẽ xảy ra.
Cái nhìn sâu hơn về quan điểm kinh tế của Keynes theo góc nhìn của triết học.
Quan điểm của Keynes cung cấp cơ sở cho những lời bình luận của ông về truyền
thống và mô hình xây dựng kinh tế. Ông đã chuyển các phân loại chính thống như
sự chặt chẽ và sự hoàn chỉnh kiến thức để đưa vào thành sự không chắc chắn và
sự thiếu hiểu biết, kỳ vọng, trạng thái của sự tự tin,mức độ tín ngưỡng, vv. Ông
trình bày những ý tưởng này trong cuốn Lí thuyết chung “mơ hồ và ít ỏi” (Keynes
(1973-1989), CW, Vol. VII, 148).

Đối với Keynes, điều quan trọng là phải đưa ra khái niệm cũng như sự phân loại về
thế giới nhận thức . Cách tiếp cận này không tính đến sự cống hiến của ông đối với
chủ nghĩa hiện thực tạo nên ý nghĩa của bản thể học hiện thực. Bằng chứng cho
giả thuyết của tôi được cung cấp bởi quan điểm của Keynes về hệ thống tiền tệ
quốc tế. Sự điều phối tiền tệ quốc tế nên tránh một sự hợp tác ảo tưởng của các chủ
thể. Nó dựa trên ý kiến của các cá nhân hoặc các quốc gia- phải chịu trách nhiệm
đối với lợi ích riêng của họ cũng như hậu quả 1 cách thống nhất với nhau .
Keynes giải thích sự suy luận sai lầm đó là : sự hợp lý riêng lẻ của một cá nhân
không cần thiết bao hàm sự hợp lý của toàn bộ nền kinh tế thị trường bởi vì nó
không đơn thuần là việc gộp các phần lại với nhau .
Việc chống lại những quy tắc cứng nhắc cố định nhưbộ xương khô
Đâu là những gốc rễ quan điểm của ông cho rằng những quy tắc cứng nhắc cố
định độc lập với các quy tắc của kinh tế đương đại không thích ứng với quan hệ
giữa chính sách tiền tệ và tiền tệ quốc tế? Nó được phản ánh trong sự phản bác 1
cách rõ ràng của ông về cơ sở của lý thuyết cổ điển (GT, xxi, 33, 192, 371, CW
XIII, 488).
Cách tiếp cận của ông là cách tiếp cận logic, nhưng không phải loại logic lưỡng trị.
Ông không chỉ trích những kinh nghiệm không thể chấp nhận được của những kết
16
luận hay sự mâu thuẫn logic giữa tiền đề và kết luận, nhưng khá ngụ ý của tiền đề
chính thống. Như Keynes đã nói: "Nếu theo quan điểm này , tất cả các phần còn
lại sẽ dựa trên nó" (GT, 1936, 21) Phần bên trên của lý thuyết cổ điển được xây
dựng 1 cách cẩn thận để đạt được " tính nhất quán hợp lý " ( Keynes ( 1973-1989 ),
c. W ., Vol. VII, xxi ). Keynes định nghĩa lôgíc cổ điển ( nghĩa là, logic của Aristot
) như1 bộ xương khô. Do đó, ông mô tả tiền đề của lý thuyết kinh tế tân cổ điển
cũng cứng nhắc như là 1 bộ xương khô vậy.
Ông phản đối quy tắc cứng nhắc cố định được thiết kế vì lợi ích của chủ nghĩa mỹ
học trang trọng cái mà được hiểu như là bộ xương khô. Keynes bác bỏ giả định có
tính (tân) cổ điển vì sự phổ thông được vin vào không gian và thời gian. Theo ông
một tiêu chí quan trọng trong việc xác định tính hợp lệ của một mô hình là sự liên

kết của nó với thế giới đương thời, có nghĩa là, thế giới được nhận thức (Keynes,
CW, XIV, 296). Do đó, lý thuyết (tân) cổ điển bị phản đối vì sự thiếu liên kết của
nó với thế giới đương đại và tính lưỡng trị của nó. Trong ý nghĩa này, ông đã phản
đối chủ nghĩa kiến tạo.
Bối cảnh tình huống hay dạng của kiến thức
Gốc rễ triết học quan điểm của Keynes dẫn trở lại lý thuyết của ông về xác suất, đó
tất nhiên là một lý thuyết về kiến thức (Keynes (1973-1989), CW, Vol. VIII, 19).
Trong quyển “chuyên luận về xác suất “ ông phác thảo sự ẩn dụ của thể kiến thức
để giải thích lý do tại sao kiến thức không dẫn đến được sự chắc chắn khi kiến thức
vẫn còn chưa rõ ràng (Keynes (1973-1989), CW, Vol. VIII, 4). Ông đã thay đổi
khái niệm truyền thống bằng cách thay đổi cách hiểu truyền thống của logic. Ông
đưa ra các luận điểm rất minh bạch và rõ ràng để chứng minh điều đó :
Ngay khi chúng tôi hiểu được cách suy luận của logic, các loại sự thật và dối trá
cho đến sự logic về khả năng có thể xảy ra cùng các loại kiến thức, sự kém hiểu
biết, và niềm tin đúng đắn, chúng tôi chú ý tới quan hệ logic mới, trong đó, mặc
dù nó thuộc logic, trước đây chúng tôi đã không quan tâm, và không thể trình bày
được hoặc định nghĩa khái niệm trước ( Keynes ( 1973-1989 ), c. W ., Vol. VIII, 8
).
Keynes nhấn mạnh các yếu tố quy nạp về lý luận. Phép quy nạp là việc đưa ra của
những ý nghĩa tổng quát có thể có. Phương phâp quy nạp không áp dụng được
quan niệm của Aristotle về cái gọi là logic lưỡng giá trị.
Tuy nhiên ít khi nó được thể hiện rõ ràng, kể cả bởi những người viết ra nó hay là
bởi những người khác, về giá trị pháp lí của mọi phép quy nạp, về sự giải thích
17
nghiêm chỉnh , sự phụ thuộc, không phải dựa trên một vấn đề của thực tế,mà trên
sự tồn tại của những quan hệ có thể xảy ra . Một lập luận quy nạp khẳng
định, không phải là nhất định sự thật là vậy, nhưng với một bằng chứng có khả
năng có thể xảy ra có lợi cho chúng (Keynes (1973-1989), C.W., Vol. VIII, 345).
Như chúng ta đã thấy, logic là một phần của lý thuyết của Keynes , và nằm ngoài
quan niệm cổ điển của logic. Chúng tôi có thể liên hệ xem xét với công việc sau

này của Wittgenstein, Wittgenstein (Muchlinski 2011b).Việc trích dẫn cho những
quan điểm này là rất quan trọng ,là bắt nguồn từ quan điểm của lịch sử tư tưởng
kinh tế. Sự chuyển đổi của các khái niệm và các phân loại được dẫn chứng tài liệu
từ chủ nghĩa kinh nghiệm anh cũng như chủ nghĩa hiện thực và kiến tạo bản thể
học.
Keynes mô tả xác suất như là một mối quan hệ logic giữa hai mệnh đề: tiền đề và
kết luận (Keynes (1973-1989), CW, Vol. VIII, 11). Không chỉ trong hai mệnh đề,
mà sự quen thuộc đã cho phép thể hiện vấn đề xác suất. (Keynes1973-1989), C.W.,
Vol. VIII, 19). Keyne giải thích cặn kẽ vì sao có các phân bố xác suất đều .Ông
nhắc đến sự kém hiểu biết trong khi nhiều người coi chuyện đó như là hiển nhiên,
không giải thích được tại sao, dẫn đến tính toán sai lầm vì khi phân bố không đều
vẫn cứ coi là đều). (Keynes (1973-1989), CW, Vol. VIII, 356). Do đó, ý nghĩa của
xác suất tùy theo đánh giá riêng với sự không chắc chắn để nhận thấy quan hệ
giữa định đề với " hợp lý mức độ niềm tin”
Lý thuyết xác suất là hợp lý, do đó, bởi vì nó liên quan với mức độ tin tưởng mà nó
minh họa trong những điều kiện nhất định, và không chỉ với thực tế niềm tin của
các cá nhân cụ thể, mà có thể hoặc không là hợp lý (Keynes (1973-1989),C.W.,
Vol. VIII, 4).
Ông đưa ra khái niệm lý thuyết xác suất như là một lý thuyết về các loại kiến thức
chung khác . Điều này cung cấp 1 cơ cấu chắc chắn nào đó được tìm thấy trong lý
thuyết kinh tế của ông,ví dụ, sự chắc chắn , tính thanh khoản cao, kỳ vọng và đánh
giá thông thường. quan điểm của Vị trí của Keynes có thể được mô tả như là một
cách tiếp nhận thực tế xa hơn sự chấp nhận một thế giới bên ngoài của cá nhân.
Trong công việc sau này của mình, Wittgenstein nghĩ đến việc xem xét rằng đó là
cách biểu hiện mà kỳ vọng và sự hoàn thành tạo ra sự liên quan đến nhau
(Muchlinski 2006). Cách tiếp cận hiện thực không nên nhầm lẫn với cái được gọi
là chủ nghĩa hiện thực "phê phán”. Theo quan điểm của Keynes, có người cũng đã
tìm thấy các yếu tố duy lý(O'Donnell 1989). Quan điểm của người này trái ngược
với chủ nghĩa lý tưởng, tức là, ông loại bỏ những khái niệm vô nghĩa, và chủ nghĩa
18

kinh nghiệm truyền thống, tức là, ông nhấn mạnh các giới hạn của kinh nghiệm và
của chủ nghĩa kinh nghiêm ở Anh (Muchlinski 2002)
Việc chuyển đổi giữa Gốc rễ của sự không chắc chắn và kém hiểu biết
Sự biến đổi này trong đoạn văn trước đây cung cấp cơ sở chắc chắn rằng chẳng có
lý thuyết nào là được xây dựng 1 cách hoàn hảo và nó lại cứng nhắc trong công
việc của mình. Keynes, sau đó, bước vào lĩnh vực của thuật ngữ và bất ổn kinh tế ,
nhằm đạt được sự rõ ràng . Sự không chắc chắn là chắc chắn vốn có liên quan đến
các quyết định, hành động và sự lựa chọn. Đây là lý do tại sao tất cả kế hoạch hoặc
dự thảo cần phải được hiểu như là một cơ hội để thành công hoặc thất bại.
Ngược lại , tiêu chuẩn trong lý thuyết cổ điển là tính phổ biến và tính chính xác
làm nền tảng cho kiến thức nhất định, loại trừ và tính thẩm mỹ trang trọng. Lý
thuyết cổ điển tìm kiếm để giảm sự không chắc chắn cùng một trạng thái nhận thức
bằng cách sử dụng lập luận của Keynes, nền kinh tế như là một hệ thống bao gồm
các khía cạnh của không thể đảo ngược được tạo ra bởi sự tương tác giữa những
người khác nhau có liên quan đến việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế của họ. Ông
dựa vào khái niệm về mức độ tin cậy, mức độ chắc chắn , mức độ của niềm tin hợp
lý, Tóm lại, lý thuyết kinh tế Keynes vượt qua cả sự kiến tạo, bản thể học, chủ
nghĩa hiện thực và chủ nghĩa kinh nghiệm kể từ khi ông cho rằng lý thuyết kinh tế
như một khoa học xã hội cơ bản mà ông lấy nó làm căn cứ.
Kết luận
Keynes đã cố gắng để cân bằng những ý tưởng của mình cho hệ thống tiền tệ quốc
tế mới với tình hình hiện đại và nhận thức. Các cuộc tranh luận về tiền tệ quốc tế
được đưa ra , mà bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa và các tài liệu về học thuyết của
Keyne được xem là vượt quá bản thể học kiến tạo chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
kinh nghiệm. Do đó ông đã cách mạng hóa lý thuyết kinh tế bằng cách tích hợp các
phạm trù kiến thức,sự thiếu hiểu biết, hợp lý, mức độ và bấp bênh. Ông cũng bỏ đi
xu hướng kiến tạo bởi vì ông bác bỏ các khái niệm trống rỗng như xương khô .
Ông cũng rời bỏ chủ nghĩa kinh nghiệm truyền thống và chủ nghĩa bản thể học
hiện thực vì ông cần phát triển và để thảo luận phạm trù mới như là một nguyên tắc
ưu tiên. Cái nhìn của ông về lý thuyết kinh tế bao gồm cả sự bấp bênh kiến thức kể

từ khi ông phản đối sự tính toán của Benthamine. Ông xem logic lưỡng giá trị
không đầy đủ cho mục đích của mình để tìm giải pháp cho các khó khăn về kinh
tế . Những gì cần phải được thảo luận là làm thế nào để giải quyết một cách đơn
giản hơn các vấn đề kinh tế (Duménil và Lévy năm 1997; D'Autume và Cartelier
1997).
19
Một điểm quan trọng là, mặc dù bản chất của quy tắc trong các mô hình là một bản
mô tả cụ thể hóa, quy tắc chính nó thường được hiểu là các bản hướng dẫn quy
chuẩn mà không ảnh hưởng sâu hơn trên phạm vi của nó,về ý nghĩa quy
chuẩn.Hơn nữa, chúng được nhìn nhân như các quy tắc phổ quát hoặc pháp luật
phổ quát. Như Keynes nói, "cho nó là điều hiển nhiên " tất cả các phần còn lại sẽ
được suy luận theo . Quy tắc hay sự phân đôi "quy tắc so với quyết định" như đã
giới thiệu trước đó không phải là do định luật hấp dẫn. Kinh tế và lý thuyết kinh tế
không được hướng dẫn bởi các điều khoản cứng nhắc hay là pháp luật phổ quát.
Ngược lại, điều khoản, quy định và pháp luật có liên quan đến hành động kinh tế,
nhận thức, kinh nghiệm và quyết định. Quan hệ được coi là hiện tượng tự nhiên
như định luật hấp dẫn là không thuyết phục. Hành động và quyết định kinh tế
không được điều khiển bởi quyền lực phổ cập hoặc các cơ chế ẩn sau nó.
Các thông số kinh tế như lãi suất ngắn hạn và dài hạn và giá cả được hiểu như là
kết quả của quá trình ra quyết định theo sự không chắc chắn. Đáng ngạc nhiên hay
không, cộng đồng khoa học đã không thành công trong việc xác định các quy tắc ,
không có ai đã từng viết ra một quy tắc thỏa đáng cho đến bây giờ.
Nói về chính sách tiền tệ được xây dựng bởi một sự phân đôi sai, tức là "quy tắc so
với quyết định", sự tín nhiệm giả dối có vẻ là một mâu thuẫn. Hiệu quả của chính
sách tiền tệ không phải là một kết quả của một sự liên tục đánh lừa công chúng về
mục tiêu, chiến lược, và dự báo được thực hiện bởi các ngân hàng trung ương. Một
kết quả của sự nghiên cứu của tôi là sự phân đôi nổi tiếng "quy tắc đối với quyết
định " là không có liên quan đến Keynes,bởi vì ông đã sử dụng thuật ngữ "quy tắc"
không phải trong ý nghĩa của khái niệm thực tế trang trọng . Ông thực hiện một
sự phân biệt rõ ràng giữa những quy tắc không cố định 1 cách cứng nhắc và quyết

định.
20

×