Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài :
MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG VÀ SÁNG
TẠO CỦA HỌC SINH TRONG MỘT GIỜ GIẢNG VĂN Ở TRƯỜNG THCS.
Tác giả: Trần Thị Cẩm
A.MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề:
1. Mơ tả thực trạng vấn đề:
Thực tiễn của việc áp dụng phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần
hợp tác; tạo niềm tin niềm vui, hứng thú trong học tập; học sinh tìm tòi, khám phá, phát
hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thơng tin, tự hình thành tri thức, có năng lực và phẩm
chất của con người mới: tự tin, năng động, sáng tạo trong cuộc sống, để đáp ứng những
u cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản
thân học sinh và sự phát triển xã hội. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ
chức cho học sinh hoạt động. Tuy nhiên thực tế đã diễn ra tại trường THCS Mỹ Lợi nói
riêng, một số nơi khó khăn, vùng sâu, vùng xa nói chung như thế nào?
Qua điều tra, tìm hiểu, tơi tiến hành tổng hợp kết quả về sự hứng thú của học sinh khi
học mơn Ngữ văn, kết quả đạt được như sau:
Thời
Gian
Lớp
Tổng
số
HS
Thường xun phát biểu Thỉnh thoảng có phát biểu Hầu như khơng phát biểu
K-G TB Y-K K-G TB Y-K K-G TB Y-K
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
Giữa
HKI
9A3 32 5 15.6 2 6.2 / / 4 12.6 7 21.9 2 6.2 / / 5 15.6 7 21.9
9A4 33 6 18.2 2 6.1 / / 5 15.1 7 21.2 2 6.1 / / 5 15.2 6 18.2
8A2 42 8 19.0 4 9.5 / / 6 14.3 8 19.0 2 4.8 / / 6 14.3 8 19.0
8A3 41 9 22.0 5 12.2 / / 6 14.6 8 19.5 2 4.9 / / 5 12.2 6 14.6
Với kết quả trên, kết hợp với đàm thoại và quan sát học sinh trên lớp, số lượng học
sinh u thích, có hứng thú và tích cực học tập mơn Ngữ văn còn thấp. Thực trạng trên
cho thấy học sinh chưa có hứng thú học mơn học này, hay nói cách khác là học sinh chưa
thấy tầm quan trọng của mơn học đối với đời sống nên chưa phấn đấu học tập. Do một
phần đặc trưng của bộ mơn là mơn khoa học xã hội nên đòi hỏi người học phải có thêm
những hiểu biết về xã hội, có cảm nhận về nghệ thuật, về cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
Nhưng qua thực tế rất ít học sinh có năng lực tự bồi dưỡng kiến thức cho bản thân. Phần
lớn học sinh khơng có hứng thú đọc sách báo, tìm tòi tài liệu về văn chương, những tác
phẩm văn học hay để bồi dưỡng kiến thức, trau đồi vốn từ….Qua thực tế giảng dạy mơn
Ngữ văn ở trường THCS, tơi cũng nhận thấy một số ngun nhân khác từ phía học sinh và
giáo viên:
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 1
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Về phía học sinh:
Qua thực tế dự giờ ở các tiết dạy của 05 giáo viên giảng dạy mơn Ngữ văn và thực tế
học tập của học sinh tại trường THCS Mỹ Lợi trong nhiều năm qua, bản thân tơi nhận
thấy:
1.1.1. Học sinh có thói quen với lối học đối phó.
-Thực tế cho thấy còn nhiều học sinh lười học, lười đọc, lười tập trung, chủ quan ỷ
lại. Việc học, làm bài tập và bài soạn theo kiểu đối phó: chép sách học tốt, sách bài tập;
một số em mượn vở của các anh chị học năm trước chép laị; một số em mượn vở của bạn
chép lại ở nhà; thậm chí có em tranh thủ chép ngay trong giờ học các mơn khác, đặc biệt
hơn nữa là có em ngồi trong giờ học vừa chép vở học vừa chép vở soạn theo nội dung mà
giáo viên bộ mơn cho ghi trên bảng (chấp nhận vở soạn thiếu mơt bài soạn trong khi đó
khơng cần biết giáo viên u cầu soạn bài ở nhà như thế nào…)
Lối làm bài tập và bài soạn đối phó trên dẫn đến một số biểu hiện đáng buồn sau: học
sinh soạn bài khơng đúng u cầu mà giáo viên cho về nhà vì các em cứ chép theo thứ tự
sách bài soạn trong khi chương trình thì thay đổi. Ví dụ: Trong chương trình giảm tải ở
đầu năm học 2011-2012, chúng ta khơng dạy văn bản: “Mã Giám Sinh mua Kiều”, thế mà
khi kiểm tra vở soạn bài của học sinh vẫn có trường hợp soạn trước bài này. Thứ hai là
học sinh soạn bài một cách máy móc, soạn bài theo cảm tính khơng cần đọc trước văn bản,
nghiên cứu nội dung bài học, khơng đọc u cầu của bài tập mà cứ soạn được bài, cứ làm
được bài tập. Và có trường hợp dẫn đến chép sai đầu đề, ví dụ: Bài" Các phương châm
hội thoại'', viết thành: "Các phương châm hội họa". Ba là học sinh khơng chịu đọc chú
thích về tác giả, tác phẩm, các từ khó khi giáo viên u cầu trình bày thì các em khơng trả
lời được (nếu khơng cho các em xem sách trên lớp).Thậm chí có một số ít học sinh đi học
khơng có sách giáo khoa, khơng chép bài, khơng soạn bài, khi giáo viên gọi kiểm tra bài
cũ liền mượn vở bạn để đối phó (tất nhiên là giáo viên phát hiện ra)…
- Đối với việc học bài cũ ở nhà: Học sinh có thói quen học đối phó: chỉ học nội dung
đầu hoặc nội dung cuối (nếu bài học gồm nhiều nội dung); học sinh học bài theo lối thuộc
lòng mà dân gian thường gọi là học vẹt; học sinh còn học bài theo lối học chay: học nội
dung mà giáo viên cho ghi ở lớp khơng buồn mở sách giáo khoa để xem dẫn chứng…
Lối học bài đối phó trên dẫn đến một số biểu hiện đáng buồn sau: khi giáo viên nêu câu
hỏi các em khơng xác định được nội dung để trả lời các em đọc lung tung, thậm chí trả lời
ln nội dung mà khơng u cầu, ví dụ: Nêu giá trị nghệ thuật đặc sắc của văn bản? học
sinh trình bày cả phần nội dung văn bản; hoặc học sinh khơng nhớ từ đầu tiên và nhờ giáo
viên nhắc hộ chữ đầu; hoặc học sinh chỉ trả lời được vài ý khơng biết cách phân tích nội
dung, dẫn chứng…
- Học sinh quen lối học thụ động: nhiều học sinh rất sợ giáo viên gọi đến tên mình khi
u cầu trả lời câu hỏi, u cầu đọc bài ( do kĩ năng đọc bài kém) ; một số học sinh sợ trả
lời sai thầy giáo và các bạn cười (do tính nhút nhát); thậm chí có một số em có khả năng
trả lời được câu hỏi nhưng khơng tự giác giơ tay vì sợ các bạn trêu là do xem sách giải;
hoặc chỉ giơ tay khi chờ một số bạn khác giơ tay trước hoặc chờ giáo viên gọi đến tên
mình mới chịu giơ tay.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 2
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
1.1.2. Học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp.
Nhiều học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp với đặc trưng phân mơn của
mơn Ngữ văn, chưa biết nên học và chuẩn bị nội dung như thế nào cho có hiệu quả. Từ đó
các em chỉ biết học những gì có trong vở ghi, khơng đi sâu tìm hiểu nội dung bài học, tìm
hiểu dẫn chứng nên khơng phát hiện cái hay, cái đẹp của văn chương, tỏ ra chán nản
khơng muốn học.
1.1.3. Học sinh xem thường mơn Ngữ văn
-Một số học sinh cho rằng học mơn Văn ít thực dụng hơn mơn Tốn hoặc mơn Hóa
học, mơn Vật lí,…. Học giỏi Văn đến mấy cũng khơng bằng học giỏi các mơn khoa học tự
nhiên; đặc biệt là một số học sinh nam khơng chú trọng đến việc học bộ mơn này và đó
cũng là quan điểm của khơng ít các bậc phụ huynh.
-Tình trạng học sinh viết chữ cẩu thả, q xấu, khơng đọc được; học sinh khơng
thích thú với mơn học này, chỉ thích thú với các truyện tranh, truyện cười khi đến thư
viện, khơng hề mượn sách tham khảo. Học sinh nghèo vốn từ, khả năng diễn đạt yếu và
cho rằng mình khơng có năng khiếu văn chương, khơng tự tin vào năng lực của mình, nên
khơng độc lập suy nghĩ, khơng có khát vọng tự mình chiếm lĩnh tri thức, thiếu niềm tin
vào chính mình.
1.2. Về phía giáo viên:
1.2.1 Giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của học sinh
- Một số giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc chuẩn bị sách vở của học
sinh, chưa theo dõi q trình ghi bài của các em, chưa chú trọng kiểm tra vở soạn vở bài
tập của các em (nhất là đối tượng học sinh yếu, kém). Đã có trường hợp học sinh đã học
đến giữa học kì I mà chưa có vở soạn bài.
- Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến khâu thực hành nghe, nói, đọc, viết
của học sinh. Nhìn chung học sinh đọc bài rất kém, nhưng giáo viên chỉ nhắc lướt qua, sợ
mất thời gian nên giáo viên chỉ gọi những học sinh đọc trơi chảy để đọc bài, do đó tạo
thêm tính chây lười ở các em .
1.2.2 Chưa chú ý đến việc chuẩn bị bài mới, làm bài tập ở cuối tiết học
-Một số giáo viên dành thời lượng cho phần hướng dẫn ở nhà chưa thỏa đáng, giao
bài soạn, bài tập về nhà cho học sinh thiếu chi tiết, thiếu cụ thể, khơng chú ý đến từng đối
tượng học sinh mà còn mang tính chung chung.
- Giáo viên chưa thật sự chú trọng bài tập khó cuối phần luyện tập, chưa chú trọng
quan tâm phần đọc thêm. Nhưng đây là phần có tác dụng bổ sung, mở rộng, nâng cao kiến
thức cho học sinh nhất là học sinh giỏi. Từ đó học sinh giỏi cũng khơng quan tâm đến
phần này.
1.2.3. Giáo viên chưa thật sự quan tâm đến việc kiểm tra học sinh.
- Đến lớp giáo viên ít chú trọng khâu kiểm tra nhất là những bài tập khó, những câu
hỏi khó dành cho học sinh khá giỏi.
- Học sinh khá giỏi nhiều lần tự giác làm bài tập khó, tự trả lời những câu hỏi nâng
cao trong sách giáo khoa nhưng khơng được giáo viên kiểm tra, phát huy tun dương. Từ
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 3
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
đó học sinh khơng chịu tìm tòi, khơng chịu tự giác làm bài với những bài tập khó, do vậy
đến lớp khơng trả lời được những câu hỏi khó.
1.2.4.Hệ thống câu hỏi của một tiết dạy chưa thật phù hợp.
-Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trên thực tế chưa
thực sự được chú trọng đúng mức , vẫn còn tình trạng đọc- chép và diễn giảng, truyền thụ
một chiều mang tính áp đặt do giáo viên ngại khó, chưa thật sự đầu tư thời gian, cơng sức
vào hệ thống câu hỏi .
-Câu hỏi trong giờ dạy văn để dẫn dắt định hướng gợi mở cho học sinh còn chưa thật
phong phú, thiếu tính hệ thống, chưa phù hợp với các loại đối tượng học sinh. Các câu hỏi
chủ yếu nặng về câu hỏi phát hiện, còn thiếu loại câu hỏi nâng cao, câu hỏi giảng bình,
chưa sử dụng một cách linh hoạt, chính xác các loại câu hỏi cho phù hợp với nội dung
khác nhau của bài giảng.
-Có tình trạng rơi vào hỏi đáp liên miên, giờ dạy chỉ còn hỏi và đáp với những câu hỏi
q vụn vặt, phá vỡ hệ thống lơgíc của bài giảng khiến cho q trình tiếp thu tri thức của
học sinh khơng có một định hướng rõ rệt .
Tất cả những điều đó đã tạo nên những quan niệm, những cách làm ngược xi khơng
giống nhau, thành thử việc đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Với thực trạng đó xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học văn là một vấn
đề bức xúc đặt ra với mỗi giáo viên đứng lớp.
1.2.5. Giáo viên chưa linh hoạt trong khâu vận dụng phương pháp dạy học mới
- Do còn quen với phương pháp dạy học cũ, vận dụng phương pháp mới chưa linh
hoạt, sử dụng câu hỏi gợi mở còn lúng túng, hệ thống câu hỏi còn rập khn. Ví dụ: u
cầu học sinh trình bày tác giả- tác phẩm, học sinh khơng cần chuẩn bị bài ở nhà vẫn cứ trả
lời được, từ đó học sinh bỏ qua khâu tìm hiểu chú thích ở nhà. Còn học sinh yếu đọc lướt
qua trên lớp một lần khơng thể trả lời ngay câu hỏi của giáo viên, nên khơng dám giơ tay.
Hoặc khi hỏi học sinh tìm bố cục văn bản thì chỉ duy nhất một câu hỏi: Hãy tìm bố cục
của văn bản?. Khi một học sinh trung bình khơng trả lời được thì giáo viên khơng gợi
mở.Ví dụ: Tìm đoạn văn thể hiện nội dung a, đoạn văn thể hiện nội dung b…để từ đó hình
thành bố cục.
-Đặc biệt, một số giáo viên chưa vận dụng thành cơng phương pháp dạy học mới, nên
khi tổ chức các hoạt động dạy học trong một giờ giảng văn gặp nhiều khó khăn và những
hạn chế yếu kém nhất định: Đó là phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp vẽ bản đồ
tư duy khi khai thác nội dung bài mới. Một trong những yếu kém nữa hiện nay mà bản
thân giáo viên nào cũng đều nhận thấy đó là cách khai thác, cảm nhận và cách truyền đạt
tới học sinh về giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn chương chưa tốt. Chính giáo viên
khơng làm tốt điều này dẫn đến học sinh cảm nhận giá trị nghệ thuật của một tác phẩm
văn học một cách máy móc, lâu dần học sinh sẽ khơng cảm được cái hay cái đẹp về giá trị
nghệ thuật ngơn từ, về phong cách nghệ thuật trong tác phẩm của tác giả, của thể loại…
dẫn đến sự bào mòn cảm xúc, rung động thẩm mỹ cần có ở các em.
- Ngồi ra, một số giáo viên rất sơ sài trong việc rèn luyện phương pháp tự học , tích
cực, chủ động học tập mơn Ngữ văn của học sinh: giúp học sinh sử dụng SGK, SBT và
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 4
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
các tư liệu tham khảo một cách có ý thức và hiệu quả; uốn nắn, hướng dẫn cách tự đọc, tự
học, tự nghiên cứu phù hợp với năng lực cụ thể của từng học sinh; bồi dưỡng hứng thú
học tập Ngữ văn, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập và giao tiếp bằng ngơn
ngữ cho học sinh.
- Giáo viên chưa thật chú trọng đến khâu giải thích từ khó, một u cầu lẽ ra học sinh
phải tự tìm hiểu ở nhà trước khi trả lời câu hỏi phần đọc-hiểu văn bản lúc soạn bài. Đến
lớp giáo viên khơng quan tâm, khơng kiểm tra nên các em khơng chú trọng mặt này .
1.2.6. Chưa quan tâm đúng mức đến các đối tượng học sinh
- Đa số giáo viên khi lên lớp đều có tâm lí sợ khơng đủ giờ nên khi tổ chức cho học
sinh đọc bài cứ gọi học sinh giỏi đọc, nêu câu hỏi cứ gọi học sinh khá-giỏi trả lời, thậm
chí khi kiểm tra bài cũ vẫn cứ phải chọn học sinh khá –giỏi (nhất là khi có người dự giờ)
nên học sinh trung bình trở xuống khơng được quan tâm, lâu ngày dẫn đến thói quen thụ
động. Khi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm những học sinh này khơng thèm chú ý
tham gia thảo luận. Khi cần giáo viên hỏi đến thì học sinh khơng trả lời được.
- Giáo viên chưa phát huy hết tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
chưa thực sự quan tâm sâu sắc đến đặc điểm từng lớp học, đặc thù của bộ mơn Ngữ văn.
Chính vì vậy, việc bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh còn
hạn chế.
1.2.7. Giáo viên chưa quan tâm thích đáng đến việc đánh giá năng lực của học sinh
-Về vấn đề kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh sau mỗi đơn vị kiến thức ( mỗi
bài, chủ đề, chủ điểm…) chưa tốt. Giáo viên còn ngại khó, làm việc rập khn máy móc,
chưa có cái tâm sâu sắc đối với cái nghề của mình. Hãy ghi nhớ một câu nói nổi tiếng sau:
“Giáo dục tốt một người đàn ơng thì được một người, giáo dục tốt một người phụ nữ thì
được một gia đình, giáo dục tốt một người thầy giáo thì được cả một thế hệ”.
Ví dụ điển hình: Hiện nay, việc sử dụng cơng nghệ thơng tin khá phổ biến, nên giáo viên
cũng khơng cần phải đầu tư suy nghĩ, khi kiểm tra 15’hoặc 45’, thi HK lại coppy ngay một
đề trên mạng, thậm chí in ngay đề kiểm tra của năm học trước ( có sẵn trong giáo án) mà
khơng cần phải chỉnh sửa gì thêm. Khơng cần biết tình hình thực tế của lớp học; của xu
hướng giáo dục hiện nay như thế nào. Và học sinh thì cũng khơng cần học nhiều cũng như
tìm hiểu kiến thức ở các lĩnh vực khác để làm gì, chỉ cần mượn đề của anh chị năm trước
là làm bài được ngay. Vì thế mà thực tế cho thấy giáo viên ra đề kiểm tra có nội dung kiến
thức nằm ngay trong chương trình giảm tải của Bộ GD-ĐT, đây là một hiện tượng đáng
buồn.
1.2.8. Một số giáo viên khơng kiềm chế được cảm xúc bực dọc khi đứng lớp.
Khi học sinh trả lời câu hỏi sai, giáo viên có thái độ cau có, nạt nộ tỏ ý khơng hài lòng.
Từ đó học sinh có tâm lí sợ hãi. Khi học sinh trả lời câu hỏi đúng (nhất là học sinh yếu)
giáo viên chưa tìm cách tun dương kịp thời.
1.2.9. GVBM và GVCN phối hợp chưa tốt trong việc giáo dục học sinh
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 5
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
- Q trình giảng dạy giáo viên bộ mơn chưa coi trọng quan hệ với giáo viên chủ
nhiệm lớp để có kế hoạch phối hợp theo dõi, động viên khích lệ những học sinh có tinh
thần học tập tích cực; nhắc nhở, uốn nắn những học sinh tinh thần học tập chưa tốt.
-Một ngun nhân cơ bản nữa mà chắc ai là người đam mê mơn văn cũng đều nhận
thấy đó là cảm hứng khi dạy, người giáo viên phải có một tâm hồn nghệ sĩ. Nghệ thuật tổ
chức hoạt động dạy học, với nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú học tập cho học
sinh, tạo cho học sinh tinh thần sảng khối để tiếp thu kiến thức tốt hơn. Ví dụ: trong tiết
dạy giáo viên mang một tâm lí nặng nề hoặc do một tình huống sư phạm khơng hay nào
đó đã làm tan biến cảm hứng văn chương cần có của giáo viên, tiết học sẽ trở nên buồn tẻ
khơng gây hứng thú học tập cho học sinh.
1.3. Về phía nhà trường:
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn: Bàn ghế, sân chơi bãi tập, thiết bị dạy học, cảnh quan
sân trường nhằm tạo ra một mơi trường học tập thân thiện để nâng cao hứng thú và hiệu
quả học tập Ngữ văn cho học sinh còn hạn chế.
Trên đây là những thực tế vẫn còn đang xảy ra ở trường THCS Mỹ Lợi nói riêng, ở
nhiều nơi nói chung. Chính những việc làm, những biểu hiện trên là những ngun nhân
dẫn đến hạn chế tính tích cực, chủ động của học sinh trong q trình học tập nói chung,
trong một giờ giảng văn nói riêng. Vì vậy, tơi xin trình bày một số kinh nghiệm để khắc
phục những hạn chế nêu trên.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Giúp học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo hơn trong q trình học tập nói chung và
trong một giờ giảng văn nói riêng. Khơng ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục; rèn kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng u nước, u
nền văn hóa, văn học của dân tộc mình.
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng: Học sinh lớp 9A
3
, 9A
4
và lớp 8A
2
, 8A
3
Trường THCS Mỹ Lợi.
- Nội dung: Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong
một giờ giảng văn ở trường THCS.
II. Phương pháp tiến hành:
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn:
* Cơ sở lí luận:
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học bộ mơn Ngữ văn
ln được các nhà khoa học, nhà giáo quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện
pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò
của người học khơng phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể nhận thức
tích cực trong q trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và
sự tự chiếm lĩnh lấy kiến thức cho học sinh. Đó là một định hướng giáo dục quan trọng
hiện nay. Tuy nhiên, để giúp học sinh có cách tư duy tốt và tự chiếm lĩnh tri thức khơng
phải là một việc đơn giản. Chính vì vậy việc tìm giải pháp để phát huy tính tích cực của
học sinh là một vấn đề quan trọng trong việc học Ngữ văn.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 6
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
* Cơ sở thực tiễn:
Bộ mơn Ngữ văn trong nhà trường là một trong những bộ mơn có dung lượng kiến
thức và có số tiết dạy nhiều nhất. Đây là mơn học có vai trò quan trọng trong việc hình
thành nhân cách học sinh, góp phần giúp các em nhận ra cái tốt cái đẹp của cuộc sống để
từ đó sống tốt hơn, đẹp hơn. Thế nhưng qua thực tế, chúng ta thấy rằng ở nhiều địa
phương, nhất là vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, trong đó có trường THCS Mỹ Lợi, việc
áp dụng phương pháp mới còn nhiều bất cập, học sinh chưa thích nghi với phương pháp
dạy học tích cực, học sinh học yếu, học tập chưa tự giác, còn thụ động chưa chủ động,
khơng có cảm xúc và tỏ ra chán ngán.
Vậy ngun nhân nào khiến các em rơi vào tình trạng như vậy? Cũng có thể là do
giáo viên chỉ chú trọng đến việc truyền đạt nội dung của bài dạy đến học sinh ( sợ hết thời
gian), chưa quan tâm đến các đối tượng học sinh, vận dụng phương pháp mới còn cứng
nhắc, thiếu linh hoạt; hoặc sách học tốt Ngữ văn đang tràn ngập thị trường khiến các em
khơng cần phải động não mà vẫn làm bài được, trả lời được. Nhưng chủ yếu là do các em
chưa có phương pháp học bộ mơn này, chưa thấy tầm quan trọng của bộ mơn Ngữ văn
trong nhà trường, chưa hứng thú trong cảm nhận một tác phẩm văn học….Đó chính là
điều trăn trở của người giáo viên dạy Ngữ văn trong nhà trường THCS.Vậy làm thế nào để
giúp các em hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo trong một giờ học văn ?
Để khắc phục tình trạng đó GVBM cần phải làm gì để kích thích tính tích cực của
học sinh trong q trình học tập nói chung, trong một giờ giảng văn nói riêng. Giải quyết
vấn đề này nhiều nhà khoa học, nhà giáo đã nghiên cứu nhưng chỉ đưa ra kết luận chung
áp dụng ở những nơi phát triển, học sinh có điều kiện học tập, mà chưa có những giải
pháp cụ thể cho học sinh những nơi còn đặc biệt khó khăn. Đây chính là lí do mà bản thân
tơi quyết định chọn đề tài "Một số kinh nghiệm phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh trong một giờ giảng văn ở trường THCS".
Để viết được đề tài này bản thân tơi đã dựa vào những điều kiện thuận lợi có thể
phát huy được, trong q trình nghiên cứu tơi đã được các đồng chí giáo viên trong tổ
tham khảo góp ý, nhưng chủ yếu là bản thân tơi dựa vào thực tế giảng dạy ở trường THCS
Mỹ Lợi và xét thấy năng lực của mình có thể làm được điều đó. Sau đó áp dụng cho giáo
viên giảng dạy mơn Ngữ văn và học sinh tồn trường.
2/ Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:
a. Các biện pháp tiến hành
*Cơ sở tiến hành:
Dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn, đồng thời dưa vào nhiệm vụ cần giải quyết, phương
pháp tiến hành, tơi đã chọn các lớp 9A3, 9A4 làm đối tượng nghiên cứu và các lớp 8A1,
8A2 làm đối chứng những kinh nghiệm trong q trình dạy học. Thực hiện đề tài này, bản
thân tơi có một mong muốn tìm ra những kinh nghiệm phát huy tác dụng của phương pháp
dạy học mới, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn
luyện phương pháp tự học của học sinh trong một giờ giảng văn.
*.Phương pháp điều tra:
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 7
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi thực hiện một số tiết dạy ở các lớp: 8A2, 8A3, 9A3, 9A4, chúng tơi tiến hành
phát phiếu đến từng học sinh trong lớp để cá nhân học sinh lớp điền những thơng tin mà
tơi cần, mục đích để thẩm định thực tế. (Học sinh đánh chéo vào cột mà bản thân cho là
phù hợp)
Trong học tập:
Họ và tên Lớp Thường xun phát biểu Thỉnh thoảng có phát biểu Hầu như khơng phát biểu
*. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Sau khi điều tra xong trên phiếu, tơi tiến hành thu hồi phiếu và tiến hành phân tích,
tổng hợp kết quả.
*. Phương pháp quan sát:
Qua q trình giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp mà tơi phân tích thực tế đã diễn ra
như thế nào, thầy sử dụng phương pháp dạy học ra sao, thực tế học sinh học tập như thế
nào? Từ đó đối chiếu với u cầu phương pháp dạy học mới mà phân tích mặt đúng-sai ,
mặt tích cực- mặt hạn chế…
*. Phương pháp thực nghiệm
Sau khi thống nhất một số kinh nghiệm chúng tơi tiến hành chọn lớp 9A3,9A4 để
thực nghiêm nhằm thẩm định lại phiếu tự đánh giá của học sinh (có sự chứng kiến của
giáo viên tổ văn) và đến giai đoạn cuối học kì I cũng chọn lớp này thực nghiệm để làm đối
chứng. Sau đó thống kê tỉ lệ phần trăm đối chiếu với lần trước để đi đến kết luận.
a. Thời gian tạo ra giải pháp:
*Thời gian tiến hành: 03 năm
-Định hướng khái qt vấn đề cần nghiên cứu: Từ 9/2009 đến tháng 10/2011.
-Tiến hành nghiên cứu , tổ chức điều tra, vạch ra phương pháp mới nhằm giải quyết vấn
đề: Từ tháng 10/2009 đến ngày 02/11/2011.
-Tiến hành thực nghiệm phương pháp mới, thao giảng, khảo sát chất lượng: Từ tháng
11/2009 đến tháng 11/2011.
-Đánh giá kết quả: 15/10/2011.
-Viết dàn ý đề tài: 19/11/2011.
- Hồn thành đề tài: 10/ 03/2012
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu:
Dựa vào u cầu của phương pháp dạy học mới và thực tế học tập của học sinh và
dựa vào các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài mà tơi nghiên cứu tìm ra một số
kinh nghiệm giúp bản thân tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong q trình giảng dạy.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 8
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Dựa trên cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn bản thân tơi đặt ra nhiệm vụ của đề tài và
tiến hành phân tích thực tế việc áp dụng phương pháp dạy học mới, phân tích tình hình
học tập của học sinh ở trường THCS Mỹ Lợi để từ đó áp dụng những kinh nghiệm mà bản
thân tơi đã tích lũy được trong q trình giảng dạy giúp học sinh tích cực chủ động hơn
trong q trình học tập nói chung và trong một giờ giảng văn nói riêng.
II. Mơ tả giải pháp của đề tài.
1.Thuyết minh tính mới:
Một số kinh nghiệm được áp dụng vào giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo trong một giờ giảng văn ở học sinh THCS như sau:
Từ việc nghiên cứu thực tiễn trên, bản thân tơi đã đề ra một số biện pháp nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh như sau;
1.1. Kinh nghiệm chuẩn bị, tổ chức, thực hiện của giáo viên.
1.1.1 Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh.
Tự học là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục
của nhà trường chính là chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh. Để tạo ra chất lượng
này, người giáo viên cần có biện pháp kích thích nhu cầu tự học và niềm tin vào khả năng
tự học của mỗi học sinh. Nhu cầu và niềm tin tự học có ý nghĩa quan trọng đối với nhu
cầu tự học nói chung và rèn luyện kĩ năng tự học nói riêng của mỗi học sinh. Học sinh
khơng thể tự học, và càng khơng thể rèn luyện kĩ năng tự học nếu như ở các em thiếu đi sự
mong muốn, khát vọng tự mình chiếm lĩnh, mở rộng đào sâu kiến thức ở bản thân, thiếu đi
niềm tin vào chính mình.
Vì thế giáo viên cần giúp cho học sinh thấy vai trò to lớn của việc tự học. Thường xun
giao cho các em nhiệm vụ học tập và giúp các em tự giải quyết các nhiệm vụ đó.
1.1.2. Hướng dẫn cho học sinh tự chuẩn bị bài ở nhà:
- Giáo viên phải dành một khoảng thời gian thỏa đáng cho khâu hướng dẫn học sinh
tự chuẩn bị bài ở nhà (từ 3-5 phút). Khắc phục tình trạng hướng dẫn qua loa, sơ sài thường
là do khơng chủ động thời gian trên lớp. Cần dặn dò học sinh một cách chi tiết từ việc đọc
văn bản, đến việc đọc chú thích (tác giả, tác phẩm, những từ khó cần chú ý) soạn bài theo
những câu hỏi nào, câu hỏi nào là câu hỏi khó cần đặc biệt lưu ý. Đối với học sinh khá-
giỏi lưu ý cho các em tự giác làm bài tập khó, câu hỏi khó sau khi đã được hướng dẫn trên
lớp.
- Ngồi ra cần lưu ý cho các em về cách trình bày vở soạn bài và chữ viết. Mặt này
giáo viên bộ mơn thường ít quan tâm mà chỉ dừng lại ở việc nhắc học sinh soạn đúng bài
theo phân phối chương trình.
- Rèn luyện phương pháp tự học và tích cực học tập mơn Ngữ văn của học sinh:
giúp học sinh sử dụng SGK, SBT và các tư liệu tham khảo một cách có ý thức và hiệu
quả.
- Cách kiểm tra vở soạn bài trên lớp: Việc kiểm tra vở soạn được thực hiện bằng
nhiều hình thức, nhiều nội dung khác nhau: kiểm tra vở bài soạn kết hợp với kiểm tra bài
cũ, kiểm tra độc lập vở bài soạn, thu vở bài soạn về nhà,… Khi kiểm tra cũng cần phải chú
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 9
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
ý từng đối tượng học sinh. Đối với học sinh yếu- kém kiểm tra xem các em có chép bài
khơng, có soạn bài khơng, việc trình bày vở bài soạn như thế nào, soạn đến mức độ nào?
Đối với học sinh khá-giỏi, ngồi u cầu chung kiểm tra xem các em có tự trả lời được
những câu hỏi khó hay khơng, mức độ tự giải quyết các câu hỏi khó, các bài tập khó ra
sao. Đặc biệt là kiểm tra việc tự giải các bài tập khó ở trên lớp đã được giáo viên hướng
dẫn. Điểm này trong q trình kiểm tra vở bài soạn của học sinh giáo viên thường bỏ qua.
Đây là cơ sở để giáo viên nhận xét, đánh giá đúng q trình chuẩn bị bài ở nhà của học
sinh, là cơ sở để giáo viên khuyến khích, khích lệ học sinh. Khi kiểm tra giáo viên nên cho
điểm học sinh hoặc điểm kiểm tra vở bài soạn phải dành một tỉ lệ thỏa đáng cho cột kiểm
tra miệng (tỉ lệ 4/6, 3/7,…)
- Mỗi tiết học có thể kiểm tra từ 1-3 vở soạn tùy theo câu hỏi kiểm tra bài cũ. Có
những tiết giáo viên dành hẳn cho việc kiểm tra vở soạn bài (khoảng 5 vở) để kiểm tra sự
chuẩn bị bài của lớp.
1.1.3. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập phù hợp với đặc trưng của
một tiết giảng văn:
Đa số học sinh ít nghiên cứu bài mới ở nhà, khi soạn bài các em chỉ đọc lướt qua
nên cảm thấy hơi khó hiểu.
Trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm văn chương một
cách độc lập thơng qua việc chuẩn bị bài mới. Giáo viên đưa ra một số kiến thức nhất định
buộc các em phải chuẩn bị kiến thức cũng như tâm lí khi đến lớp. Và khi tự mình chuẩn bị
một số kiến thức nhất định các em sẽ tự tin chọn học và tiếp thu kiến thức mới. Năng lực
tự học dù còn hạn chế vẫn là ngun tố quyết định đến việc tiếp thu bài trên lớp của học
sinh . Vậy để chuẩn bị bài mới được tốt giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị những
nội dung sau:
+ Đọc tác phẩm trước khi soạn bài: đọc kĩ, đọc đúng, đọc diễn cảm để tự cảm nhận
tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen dùng bút chì gạch chân và ghi
lại những đoạn hay của tác phẩm. Ví dụ khi dạy bài: “Hịch tướng sĩ”-Trần Quốc Tuấn,
GV hướng HS dùng bút chì gạch chân và ghi nhớ đoạn văn cảm xúc nhất: “Ta thường tới
bữa qn ăn…ta cũng n lòng”. Để từ đó hình thành cho HS có thói quen cảm thụ, suy
ngẫm văn xi.
+ Nếu là tác phẩm thơ: đọc thuộc , ghi nhớ, suy ngẫm tác phẩm, những câu, đoạn
mà mình tâm đắc nhất. Ví dụ khi dạy bài “Con cò” của Chế Lan Viên, GV hướng HS
thuộc lòng và cảm nhận hai câu thơ: Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Để từ đó hình thành cho HS có thói quen cảm thụ, suy ngẫm thơ.
+ Hình thành thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác
có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.Ví dụ khi dạy bài: Bài thơ
về tiểu đội xe khơng kính-Phạm Tiến Duật, HS sẽ liên tưởngđến hình ảnh người lính cụ
Hồ trong kháng chiến chống Mỹ qua bài thơ Đồng chí-Chính Hữu.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 10
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
+ Cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh khơng máy móc thụ động,
phải tập trung suy nghĩ những điều mới lạ ở tác phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt, gợi
ý của thầy cơ; nghĩa là phải có sự cảm nhận của riêng mình.
+ Cảm nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại-kiểu văn bản, đặc trưng thi pháp.
- Rèn luyện tích tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh ở giờ giảng văn khơng
chỉ dừng lại ở việc thực hiện các thao tác trên mà nó còn đòi hỏi ở cả giáo viên lẫn học
sinh một cách hoc, cách dạy hợp lí, khoa học, linh hoạt, khơng phải bài nào cũng dùng
các phương pháp dạy học như nhau theo kiểu rập khn máy móc. Phải tùy thuộc vào tác
phẩm cụ thể, hồn cảnh sáng tác, thể loại, đặc trưng thi pháp của tác phẩm.
-Để giúp học sinh có được sự sáng tạo trong một giờ giảng văn, giáo viên nên
hướng dẫn học sinh đi theo con đường thi pháp học ( thuật ngữ “thi pháp” được hiểu theo
nghĩa rộng, đó là những đặc điểm về nội dung, nghệ thuật, cách lựa chọn đề tài, cách biểu
hiện chủ đề, tư tưởng, phương pháp, phong cách nghệ thuật…của một tác phẩm văn học
hoặc của một tác giả; từ đó thấy rõ sự khác biệt giữa tác phẩm này với tác phẩm kia. Ví dụ
thi pháp Truyện Kiều, thi pháp thơ Đường…). Điều này giúp học sinh hiểu đúng, nhanh
chóng phát hiện ra những điểm sáng thẩm mỹ ở tác phẩm.Muốn vậy, người thầy phải nắm
và vận dụng linh hoạt, vững vàng lí luận thi pháp trong q trình giảng văn.
Ví dụ: Khi phân tích thơ, nên đi từ mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình hoặc hình
tượng trữ tình trong tác phẩm. Chẳng hạn khi tìm hiểu bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính”-Phạm Tiến Duật, ta có thể phân tích hình tượng những chiếc xe khơng kính
và hình tượng những chiến sĩ lái xe. Khi tìm hiểu bài thơ “ Sang thu”-Hữu Thỉnh ta phân
tích theo mạch trữ tình –chính luận của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Với văn xi, có tác phẩm giảng bằng thi pháp nhân vật. Ví dụ : Khi dạy văn bản
“Lặng lẽ Sa Pa”-Nguyễn Thành Long, rèn luyện cho học sinh năng lực phân tích, cắt
nghĩa tác phẩm văn học, năng lực tái hiện hình tượng trung tâm của tác phẩm. Từ đó phát
hiện được đặc trưng về phong cách nghệ thuật cũng như điểm sáng thẩm mỹ của một tác
phẩm nghệ thuật. Giáo viên giúp học sinh phát hiện chất trữ tình của trong phong cảnh
thiên nhiên hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của tác giả. Học sinh sẽ tái hiện lại bức tranh
thiên nhiên đẹp, thơ mộng, bằng nghệ thuật ngơn ngữ tạo hình, giàu chất thơ và qua cái
rung cảm của một tâm hồn tinh tế thơng qua một số câu văn: “Nắng bây giờ bắt đầu đốt
cháy rừng cây…luồn cả vào vòm xe”. “Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và
làm cho cơ gái thấy mình rực rỡ theo”. Có thể nói chỉ vài nét vẽ thơi cũng đủ gợi lên một
phong cảnh SaPa tuyệt đẹp, thơ mộng hòa vào những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật.
Có tác phẩm giảng bằng thi pháp cốt truyện, tình tiết. Ví dụ: Tác phẩm “ Bến q”-
Nguyễn Minh Châu. Hình ảnh ơng giáo Khuyến ở cuối truyện là nét đẹp về tình cảm láng
giềng có sự chia sẻ, cảm thơng động viên rất mực chân thành. Đây còn là giá trị bền vững
đáng trân trọng mà Bến q hướng tới. Hay hình ảnh của nhân vật Nhĩ ở cuối truyện gợi
ra một ý nghĩa khái qt. Đó là ý muốn thức tỉnh mội người về những cái vòng vèo, chùng
chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị
đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
1.1.4. Hệ thống câu hỏi trong một tiết dạy
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 11
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Câu hỏi trong một giờ dạy học văn là rất đa dạng, phong phú. Có câu hỏi cảm nhận, có
câu hỏi tái hiện, có câu hỏi tổng hợp khái qt, câu hỏi cụ thể chi tiết, có câu hỏi phát
hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi đối chiếu so sánh, câu hỏi gợi mở, câu hỏi về kiến thức cơ
bản, câu hỏi nêu vấn đề … Đối với từng phần nội dung của bài học, đối với từng đối
tượng học sinh giáo viên cần phải sử dụng một cách linh hoạt để học sinh cùng làm việc
một cách tích cực, chủ động tạo khơng khí hào hứng sơi nổi trong lớp học, tránh tình trạng
chỉ sử dụng một loại câu hỏi vừa đơn điệu,vừa tẻ nhạt, vừa khơng kích thích hứng thú học
tập của các em. Qua thực tế cho thấy, phần lớn câu hỏi trong giờ giảng văn thường chỉ tập
trung ở dạng câu hỏi : câu hỏi phát hiện; thường loại câu hỏi gợi mở, câu hỏi khái qt
tổng hợp, câu hỏi phân tích giảng bình được sử dụng còn ít .
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của một giờ giảng văn, giáo viên cần phải thiết kế hệ
thống câu hỏi đảm bảo các u cầu sau:
Các câu hỏi phải đảm bảo nội dung kiến thức u cầu của bài học. Hệ thống câu hỏi
phải bám sát mục đích u cầu và kiến thức trọng tâm bài học. Nếu bám sát mục đích u
cầu và kiến thức trọng tâm thì hệ thống câu hỏi thiết kế sẽ đúng hướng, vận hành một giờ
văn sẽ có hiệu quả. Xa rời u cầu của bài học, hệ thống câu hỏi sẽ thừa thải, chơng
chênh, vơ nghĩa dẫn học sinh xa rời tác phẩm.
Câu hỏi phải có tính hệ thống , các câu hỏi trong bài dạy học văn phải đảm bảo trình
tự hợp lý khoa học. Cả bài học là một hệ thống khơng rời rạc, chắp vá, gặp đâu hỏi đó.
Muốn làm tốt được việc này, giáo viên phải xác định được bố cục bài giảng một cách rõ
ràng, các câu hỏi sẽ đi theo bố cục ấy. Nhìn vào hệ thống câu hỏi người ta có thể hình
dung được nội dung tác phẩm, kiến thức trọng tâm , con đường cảm thụ văn chương của
thầy và trò như thế nào? Cần tránh những câu hỏi q vụn vặt, q chi tiết sẽ phá vỡ tính
hệ thống. Các câu hỏi chỉ phát huy được ý nghĩa, sức mạnh khi được đặt trong hệ thống .
Câu hỏi phải có vấn đề. Câu hỏi cần phải được hiểu là một loại bài tập để tạo dựng
những tình huống có vấn đề buộc học sinh phải suy nghĩ, động não để chủ động trong
việc tiếp thu tri thức. Các câu hỏi phải lần lượt bóc tách từng phần nội dung kiến thức của
bài học. Tránh những câu hỏi lan man, vơ nghĩa, hỏi mà khơng có vấn đề, khơng có tình
huống để giải quyết.
Câu hỏi phải phong phú phù hợp với đối tượng học sinh. Các câu hỏi phải đa dạng
đầy đủ chủng loại: có câu hỏi khó, có câu hỏi dễ, có câu hỏi cụ thể chi tiết, có câu hỏi tổng
hợp khái qt … để đối tượng học sinh nào cũng có cơ hội được làm việc, được trả lời.
Tránh tình trạng chỉ dồn vào một số em học sinh khá giỏi. Trong giờ văn để học sinh làm
việc có hiệu quả, giáo viên phải lường trước được các tình huống xảy ra. Nếu học sinh
khơng trả lời được, hoặc trả lời khơng đúng hướng thì giáo viên phải sử dụng một loạt câu
hỏi phụ để gợi mở. Loại câu hỏi gợi mở này tuỳ thuộc vào bản lĩnh ứng xử của giáo viên
trong từng tình huống cụ thể.Với loại câu hỏi này giáo viên phải hết sức chủ động linh
hoạt, phải nắm vững vấn đề và xử lý nhanh, nhạy.
1.2. Kinh nghiệm giảng dạy trên lớp:
1.2.1. Kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh:
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 12
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
-Ngồi u cầu kiểm tra vở bài soạn, vở bài tập, lên lớp giáo viên thường xun kiểm
tra việc đọc chú thích, đọc văn bản, đọc ghi nhớ trong sách giáo khoa ở nhà của học sinh
bằng một số câu hỏi: trình bày hiểu biết của em về tác giả, hồn cảnh ra đời và xuất xứ của
tác phẩm mà khơng phải xem sách giáo khoa; hãy giải thích nghĩa của một số từ khó trong
chú thích…và thường xun gọi bất kì các đối tượng học sinh trả lời. Như vậy buộc học
sinh phải chuẩn bị ở nhà để đến lớp đối phó với câu hỏi của thầy, nhất là học sinh yếu,
kém.Tránh tư tưởng sợ khơng đủ giờ mà khơng quan tâm đến những câu hỏi này, đặc biệt
là khơng quan tâm đến học sinh yếu, kém. Khi tổ chức cho học sinh đọc văn bản cần theo
dõi học sinh, nhất là học sinh cá biệt . Tránh tình trạng để học sinh làm việc riêng. Chú ý
khơng chỉ gọi học sinh khá, giỏi đọc mà phải thưường xun gọi học sinh yếu, kém đọc
( một vài đoạn tùy theo). Cần khuyến khích học sinh đọc thuộc văn bản (nếu là thơ), hoăc
đọc thuộc một số đoạn văn tiêu biểu (nếu là văn xi). Học sinh có làm việc được với văn
bản thì mới có thể trả lời các câu hỏi của giáo viên. Đồng thời giáo viên cũng phải tun
dương, khuyến khích, ghi điểm cho học sinh.
- Trong hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài, giáo viên bộ mơn cần dành những câu hỏi phù
hợp cho từng đối tượng học sinh. Đối với học sinh yếu-kém thường xun gọi học sinh trả
lời câu hỏi của giáo viên bằng những câu hỏi gợi mở, tránh trường hợp áp đặt học sinh, để
rồi giáo viên tự hỏi và tự trả lời. Tránh tư tưởng sợ hết giờ mà khơng quan tâm đến đối
tượng này. Đối với học sinh khá- giỏi phải chú ý câu hỏi nâng cao, câu hỏi khó ở phần
luyện tập, câu hỏi liên quan phần đọc thêm sách gi khoa (đây là những câu hỏi mà giáo
viên thường bỏ qua).
1.2.2. Kinh nghiệm tổ chức các phương pháp dạy học mới:
- Hình thành những “Nhà phê bình văn học” trong tương lai
Giáo viên phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh qua việc tạo điều kiện để các
em trở thành “Nhà phê bình văn học nhỏ tuổi”. Giáo viên tạo điều kiện để các em trình
bày suy nghĩ, cảm nhận của mình qua việc tiếp nhận văn bản. Trên cơ sở tơn trọng ý kiến
của các em. Giúp các em tự tin trong việc trao đổi thơng tin qua lại giữa giáo viên và học
sinh. Tạo mơi trường học tập thân thiện, tích cực. Tuy nhiên ở mức độ tiếp thu kiến thức
cũng như ở lứa tuổi HS THCS giáo viên đưa ra những u cầu với mức độ đơn giản hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài xong bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh giáo viên hỏi. Em có ý kiến
như thế nào về nhận xét: Hữu Thỉnh thật khác với các nhà thơ khác.
Có rất nhiều HS đưa ra nhiều ý kiến khác nhau:
1.Có lẽ mùa thu của Hữu Thỉnh vào lúc giao mùa. Trong làng thơ dân tộc, đã và sẽ
có nhiều bài thơ hay, nhưng sẽ chẳng ai biết mà lại qn được một chớm thu sang của
Hữu Thỉnh-một mùa thu nhẹ nhàng, nữ tính trơng qua như một cơ thơn nữ mộc mạc mà
sao lại đằm thắm khó qn đến thế! Vì thế mà ta có thể khẳng định: Hữu Thỉnh thật khác
với các nhà thơ khác
2.Bài thơ mang hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền q nhỏ. Tín hiệu đầu
tiên để tác giả nhận ra mùa thu là hương ổi mùi hương q mộc mạc phả trong gió thoảng
bay trong khơng gian …Khơng phải là sắc mơ phai hay hình ảnh con nai vàng ngơ ngác
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 13
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế của nhà
thơ…Đó cùng chính là nét riêng của nhà thơ.
Hoặc khi dạy phần thơ mới chương trình Ngữ văn 8 GV có thể hỏi: Em hiểu như
thế nào là thơ mới?
1.Có những câu thơ gần như lời nói bình thường, khơng giống thi pháp thơ Đường
2.Thơ mới hình ảnh táo bạo, chữ dùng trừu tượng, có sức mạnh gợi hình, gợi cảm
để diễn đạt nhừng cảm giác tinh vi, nhừng tình ý nồng nàn của tác giả….
Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến GV khẳng định từng ý kiến một, tun dương
tinh thần ham hiểu biết của các em, đồng thời nhận xét, sửa chữa, bổ sung.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Hoạt động nhóm giúp cho học sinh hiểu sâu sắc
thấu đáo giá trị của tác phẩm, có cách tiếp cận độc đáo, sáng tạo, đảm bảo mỗi học sinh
đều được đối thoại, được tơn trọng, bình đẳng trước tác phẩm nhằm phát triển tư duy sáng
tạo của học sinh. Trong thảo luận nhóm giáo viên có thể linh hoạt theo nhiều mơ hình ví
dụ như : Làm việc theo cặp hoặc làm việc theo nhóm 6-8 học sinh, bố trí mỗi nhóm hai
bàn kề nhau trong một dãy. Mỗi nhóm cử hai em làm nhóm trưởng và nhóm phó. Hai em
này phải có năng lực học tập cũng như năng lực điều hành để được cả nhóm tin cậy. Sau
khi tổ chức cho các em thảo luận cần gọi các đối tượng yếu –kém tham gia trả lời. Buộc
các em phải chú ý lắng nghe, trao đổi với các bạn trong nhóm.Tránh thói quen chỉ gọi
những học sinh tiêu biểu trong nhóm trả lời. Như vậy các đối tượng khác chẳng những
khơng tham gia thảo luận mà gây ồn, làm việc riêng trong khi thảo luận.
- Phương pháp vận dụng bản đồ tư duy:
Đây là một phương pháp dạy học mới mang tính tích cực nhằm giúp chúng ta tiết
kiệm thời gian, giúp ghi nhớ tốt, kích thích tiềm năng sáng tạo của học sinh, cung cấp cho
học sinh bức tranh tổng thể về nội dung bài học. Là một phương pháp sử dụng rộng rãi
hiệu quả và dễ dàng. Sử dụng BĐTD trong một bài giảng sẽ làm học sinh hưng phấn hơn,
thích thú hơn. Nếu sử dụng phương pháp này trong kiểm tra bài cũ; củng cố bài mới các
em sẽ tích cực hoạt động, tự thể hiện năng lực của chính mình, có ý thức và cộng đồng
trách nhiệm cao hơn. Nếu sử dụng để truyền đạt nội dung kiến thức mới của bài học,
BĐTD sẽ trở thành một cơng cụ gợi mở, kích thích q trình tìm tòi kiến thức của học
sinh. Bước quan trọng nhất là giáo viên giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm
bản đồ- trọng tâm bài học. Sau đó theo ngun lí BĐTD là từ ý này nảy sinh sang ý khác,
từ đó dần dần giúp học sinh khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập
hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình
ảnh chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn học
sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học
sinh dễ dàng ơn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết tự mình vận động,
tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả.
Ví dụ Vẽ BĐTD khai thác đơn vị kiến thức mới. Khi dạy văn bản: Làng-Kim
Lân, giáo viên thay cho hình thức ghi bảng bằng một bản đồ tư duy như sau:
GV đưa ra từ khóa: Diễn biến tâm trạng ơng Hai
Đưa ra một số câu hỏi và học sinh hình thành bản đồ tư duy ( BĐTD)
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 14
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
1. Diễn biến tâm trạng ơng Hai trước khi nghe tin xấu về làng ?
2. Diễn biến tâm trạng ơng Hai khi nghe tin làng mình theo giặc?
3. Tâm trạng ơng Hai khi nghe tin cải chính (làng mình khơng theo Tây)?
(Ứng với mỗi câu hỏi là một nhánh trên BĐTD)
4. Nhận xét về nhân vật?
Sơ đồ minh họa
Sau khi HS vẽ xong BĐTD vào vở, GV cho một số em ( nên gọi HS trung bình, yếu)
nhìn BĐTD trình bày nội dung bài học trước lớp và các em HS khác bổ sung. GV nhận
xét, sửa chữa, kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng,
tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của HS.
Ví dụ: Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau tiết học
Tiết 36 : Truyện Kiều của Nguyễn Du
( NV9-Tập 1)
Khi dạy xong bài học, GV cho cá nhân HS ( hoặc nhóm HS) vẽ BĐTD để tổng kết nội
dung kiến thức. Sau khi HS vẽ xong sẽ cho một HS khác, nhóm khác nhận xét, bổ sung
….Có thể cho HS vẽ thêm các đường nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo
luận chung trước lớp để hồn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 15
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Tuy nhiên trong q trình áp dụng phương pháp dạy học mới này người giáo viên gặp
phải khơng ít khó khăn:
-Khi vẽ BĐTD gồm nhiều nhánh trên bảng đơi lúc chữ viết nhỏ, rẽ theo nhiều hướng
học sinh sẽ khó quan sát .
-Chỉ tập trung vẽ BĐTD để khai thác một đơn vị kiến thức mới về nội dung, chưa chú
trọng khai thác một đơn vị kiến thức mới về nghệ thuật.
-Đối với học sinh yếu, kém các em thiếu năng lực trình bày cũng như khái qt bài học,
nên khi trả lời bài cũ dựa vào BĐTD các em sẽ trình bày khơng được sn sẽ, thiếu logic,
khơng dẫn chứng, thậm chí khơng trả lời được.
Vậy để sử dụng thành cơng phương pháp này , giáo viên cần chú trọng đến các nội dung
sau:
-GV khơng nên coi BĐTD là một cơng cụ vạn năng, cẩn trọng khi áp dụng BĐTD vào
dạy bài mới, bởi những bài có nội dung dài và khó, nếu u cầu HS vẽ BĐTD tại lớp thì
sẽ khơng phù hợp.
-Giáo viên phải biết lựa chọn hình ảnh, màu sắc thích hợp với chủ đề.
- Chữ viết của giáo viên phải sạch đẹp.
-Cách trình bày BĐTD phải khoa học, có tính thẩm mỹ, tính nghệ thuật cao.
-Dùng từ khóa, kí hiệu, phải gợi ấn tượng sâu sắc về chủ đề.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 16
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
- Khi sử dụng hình ảnh, từ ngữ phải tốt lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
-Bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng diễn đạt; cách dùng từ và sự tự tin mạnh dạn trước
tập thể.
1.2.3. Sử dụng một số phương tiện, hình thức tổ chức hoạt động dạy- học để gây
hứng thú cho học sinh:
-Tăng cường sử dụng các thiết bị, đồ dùng và phương tiện dạy học theo phương châm
phục vụ thiết thực nhất, hiệu quả nhất cho mỗi giờ học với tư cách là phương tiện nhận
thức chứ khơng đơn thuần chỉ là sự minh họa.
- Ngồi ra giáo viên cần chú trọng đến chữ viết của học sinh, ngồi việc rèn chữ và
sửa lỗi chính tả giáo viên cần giáo dục tư tưởng cho học sinh sau các tiết học.
- Tăng cường cải tiến kiểm tra, đánh giá bằng nhiều hình thức khác nhau theo chuẩn
kiến thức kĩ năng, coi kiểm tra đánh giá như là một biện pháp kích thích hứng thú học tập
Ngữ văn, giúp học sinh tìm ra ngun nhân và cách khắc phục những sai sót, hạn chế (nếu
có) trong q trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản cũng như trong q trình hình
thành các kiến thức ngơn ngữ, văn học, các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết…
- Phải đặc biệt chú trọng biện pháp tun dương, khen ngợi học sinh một cách thỏa
đáng. Đối với học sinh khá-giỏi giáo viên dành những câu hỏi khó, những bài tập nâng
cao cho các em trả lời; đối với học sinh từ trung bình trở xuống giáo viên dành những câu
hỏi phù hợp với đối tượng này. Và phải tun dương khen ngợi cho điểm để khuyến khích
tinh thần học tập của các em. Đối với học sinh phát biểu nhiều lần giáo viên ghi điểm hoặc
khuyến khích bằng cách cộng thêm điểm vào cột kiểm tra miệng.
- Ngồi ra giáo viên bộ mơn còn phải phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp bằng
nhiều hình thức như nhận xét trong sổ đầu bài , qua trao đổi trực tiếp với giáo viên chủ
nhiệm về tình hình học tập của học sinh , đề nghị giáo viên chủ nhiệm tun dương, khích
lệ học sinh thường xun phát biểu xây dựng bài (nhất là học sinh từ trung bình trở
xuống). Nếu học sinh có tiến bộ vượt bậc có thể u cầu giáo viên chủ nhiệm đề nghị nhà
trường tun dương trước cờ , thơng báo trong chương trình phát thanh măng non, khen
ngợi trong cuộc họp phụ huynh.
2. Khả năng áp dụng:
-Thời gian tiến hành: 03 năm
-Khả năng áp dụng:
Sau khi áp dụng kinh nghiệm nêu trên chúng tơi tiến hành phát phiếu điều tra thẩm
định, cho thấy kết quả khả quan hơn - tích cực, chủ động học tập của học sinh đã được
phát huy rõ rệt thể hiện qua bảng so sánh sau:
*Ở các lớp khơng thực nghiệm:
Thời
Gian
Lớp
Tổng
số HS
Thường xun phát biểu Thỉnh thoảng có phát biểu Hầu như khơng phát biểu
K-G TB Y-K K-G TB Y-K K-G TB Y-K
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
8A2 42 10 23.8 5 11.9 / / 9 21.4 12 28.6 / / / / 2 4.8 4 9.5
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 17
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Thời
Gian
Lớp
Tổng
số HS
Thường xun phát biểu Thỉnh thoảng có phát biểu Hầu như khơng phát biểu
K-G TB Y-K K-G TB Y-K K-G TB Y-K
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
HKI 8A3 41 10 24.4 5 12.2 / / 9 22.0 11 26.7 / / / / 2 4.9 4 9.8
* Ở các lớp thực nghiệm
Thời
Gian
Lớp
Tổng
số HS
Thường xun phát biểu Thỉnh thoảng có phát biểu Hầu như khơng phát biểu
K-G TB Y-K K-G TB Y-K K-G TB Y-K
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
HK I
9A3 32 8 15.6 5 6.2 / / 5 12.6 8 21.9 2 6.2 / / 2 15.6 2 21.9
9A4 33 7 21.1 5 15.2 / / 5 15.2 9 27.2 2 6.1 / / 2 6.1 3 9.1
3. Lợi ích kinh tế-xã hội:
Mơn Ngữ văn là mơn học thuộc nhóm KHXH , điều đó nói lên tầm quan trọng của nó
trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nó có một vị trí đặc biệt
trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS trang bị cho HS hành trang để tiếp
tục học lên ở bậc cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương u
q trọng gia đình, bè bạn, có lòng u nước, u CNXH, biết hướng tới những tình cảm
cao đẹp như lòng nhân ái , tinh thần tơn trọng lẽ phải , sự cơng bằng, u các đẹp, gét cái
xấu cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập , có tư duy sáng tạo,
bước đầu cosnawng lực cảm thụ các giá trị chân-thiện-mỹ trong nghệ thuật trước hết là
trong văn học. Có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một cơng cụ để
tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Với những kinh nghiệm cơ bản trên chúng tơi tiến hành áp dụng đồng loạt ở các khối lớp
trong nhà trường, kết quả mang lại có khả quan cả về chất lượng học lực và hạnh kiểm.Về
hạnh kiểm học kì I khơng có HS xếp loại hạnh kiểm yếu, HS xếp loại hạnh kiểm Tb rất
hạn chế . Chất lượng bộ mơn Ngữ Văn học kì I năm học 2011-2012 cao hơn so với cùng
kì năm trước. Cụ thể: Khối 6 tăng 7,8% Tb↑ ; Khối 7 tăng 8,0% Tb↑ : Khối 8 tăng 9,2%
Tb↑ : Khối 9 tăng 6,1% Tb↑. Có 32 học sinh đạt học sinh giỏi cấp trường (HKI) và 02
học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện lớp 9 ( 01 giải 3 và 01 giải khuyến khích).
Đồng thời, một số kĩ năng như nghe, nói, đọc, viết ở học sinh trung bình, yếu có sự
chuyển biến rõ rệt: HS biết lắng nghe tiếp thu kiến thức; nhìn BĐTD có thể diễn đạt được
nội dung bài học; đọc trơi chảy hơn và chữ viết cũng rõ ràng hơn.
C. KẾT LUẬN
1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 18
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Qua chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-
BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bơ trưởng BGDĐT đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ đơng, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng mơn học, đặc điểm đối tượng
học sinh, điều kiện của lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng
hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm của học sinh” , được sự chỉ đạo trực tiếp của BGH
nhà trường, Phòng GD, tập thể GV Ngữ văn Trường THCS Mỹ Lợi đã đầu tư nghiên cứu
phương pháp dạy học mới nhằm phục vụ tốt hơn nữa cho việc tổ chức dạy và học.
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp
Qua thực nghiệm chúng tơi nhận thấy ý thức tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của
học sinh đã được phát huy, có hiệu quả. Học sinh có hứng thú trong học bộ mơn Ngữ văn
mà cụ thể là giờ giảng văn. Việc chuẩn bị bài cũ cũng như bài mới được tiến hành thường
xun, liên tục, thể hiện qua việc kiểm tra bài cũ; qua khơng khí lớp học ở tiết thao giảng
cũng như các tiết học khác và đặc biêt là qua các tiết thao giảng, hội giảng.
Cách tổ chức phương pháp dạy học mới của giáo viên linh hoạt, phù hợp hơn. Học sinh
thích thú hơn khi học phân mơn này. Các em thảo luận nhóm tích cực, hạn chế ồn ào, học
sinh yếu cũng trả lời đảm bảo nội dung, u cầu của vấn đề. Các em tích cực giơ tay phát
biểu xây dựng bài, giờ học sơi nổi hơn, giáo viên phấn khởi và tích cực hơn.
Đặc biệt học sinh rất thích thú khi vận dụng phương pháp vẽ BĐTD vào bài học, các
em biết cách sử dụng từ khóa khái qt nội dung vấn đề. Học sinh trung bình, yếu hầu như
đều thuộc bài cũ vì thơng qua BĐTD các em cảm thấy nội dung bài ngắn, hình ảnh, màu
sắc phong phú tạo sự hưng phấn và như thế là các em rất dễ thuộc, dễ tiếp thu.
Thơng qua cách phân tích giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn học; cũng như cách
sử dụng từ ngữ, phong cách nghệ thuật của người giáo viên đứng lớp, học sinh đã dần cảm
nhận được giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn chương thơng qua giá trị nội dung. Vì
thế chất lượng học sinh khá, giỏi bộ mơn Ngữ văn ngày được nâng cao.
3. Đề xuất, kiến nghị:
Qua một số kết quả mang lại như trên đã giúp bản thân tơi có thêm một số kinh nghiệm
trong dạy học văn; bản thân ln khơng ngừng học tập, rèn luyện, bồi dưỡng để nâng cao
năng lực và hiệu quả giáo dục. Song thực tế cho thấy việc áp dụng một số phương pháp
dạy học mới trong một giờ giảng văn còn gặp nhiều khó khăn: như hoạt động nhóm, Vẽ
BĐTD, đơi lúc một số ít GV chưa khéo léo, chủ động dẫn đến hiệu quả mang lại chưa cao.
Đăc biệt trong một giờ giảng văn, việc khai thác giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn
học để học sinh nắm bắt vấn đề đơi khi còn cứng nhắc.
Trên đây là những kinh nghiệm được rút ra từ thực tế dạy và học của trường THCS
Mỹ Lợi. Trong q trình nghiên cứu tơi đã rút ra được một số kinh nghiệm và bước đầu áp
dụng thấy được hiệu quả. Mặc dù những nội dung giải pháp mà bản thân tơi đưa ra vẫn
còn q ít và mang tính chủ quan nhưng tơi hy vọng có thể trở thành một tài liệu tham
khảo có ích cũng như ý kiến phản hồi từ phía các bạn đồng nghiệp.
Mỹ Lợi, ngày 10 tháng 3 năm 2012
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 19
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
Chủ đề tài
Trần Thị Cẩm
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 20
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUN MƠN
…………………………………………
…………………………………………
………………………………………….
…………………………………………
THẨM ĐỊNH CỦA NHÀ TRƯỜNG
……… ………………………………………
… ……………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………
\
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 21
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
A.MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1.Mơ tả thực trạng vấn đề
2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
3.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
II.Phương pháp tiên hành
1.Cơ sở lí luận và thực tiễn
2.Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
1
6
6
6
7
B.NỘI DUNG
I.Mục tiêu
II.Mơ tả giải pháp của đề tài
1.Thuyết minh tính mới
2.Khả năng áp dụng
3.Lợi ích kinh tế-xã hội
8
15
16
C.KẾT LUẬN
1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
2.Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.
3.Đề xuất, kiến nghị
16
16
17
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 22
Trường THCS Mỹ Lợi Sáng kiến kinh nghiệm
GVTH: Trần Thò Cẩm Trang 23