Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Luận văn thạc sĩ sư phạm SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ÐỊA LÍ LỚP 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.58 MB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ NHÂM
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY HỌC ÐỊA LÍ LỚP 10 THPT
Chuyên ngành: Lí luận và PP dạy học Địa lí
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đặng Văn Đức
HÀ NỘI, NĂM 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS
Đặng Văn Đức, người đã hướng dẫn, giúp đỡ tận tình trong suốt thời gian tôi tiến
hành nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Địa lí trường ĐH Sư
phạm Hà Nội, phòng thư viện khoa Địa lí, thư viện trường ĐHSP Hà Nội đã tạo
điều kiện giúp đỡ để khóa luận của tôi đạt kết quả tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và HS trường THPT Thái Nguyên –
TP Thái Nguyên – Tỉnh Thái Nguyên, và trường THPT Phú Bình – huyện Phú Bình
– Tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ và phối hợp thực hiện trong quá trình
nghiên cứu và tiến hành thực nghiệm sư phạm, điều tra thực tế để đạt kết quả khách
quan tốt nhất.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn không tránh khỏi những
sai sót, nhầm lẫn, rất mong được sự góp ý chân tình của thầy cô giáo, các đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện và có tính khả thi cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2014
Học viên
Nguyễn Thị Nhâm
2


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
THPT : Trung học phổ thông
SGK : SGK
GV : GV
HS : HS
BĐTD : BĐTD
MM : Imindmap
3
MỤC LỤC
HÀ NỘI, NĂM 2014 1
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích, nhiệm vụ 4
3.1. Mục đích nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 5
5.1. Quan điểm nghiên cứu 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Giả thuyết khoa học 6
7. Cấu trúc luận văn 6
PHẦN NỘI DUNG 7
Chương 1 8
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC 8
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 10 THPT 8
1.1. Cơ sở lí luận 8
1.1.1. Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học Địa lí 8
1.1.2. BĐTD với dạy học dịa lí 21

1.2. Cơ sở thực tiễn 34
1.2.1. Nội dung, chương trình SGK Địa lí lớp 10 34
1.2.2. Thực trạng việc dạy học Địa lí lớp 10 38
1.2.3. Đặc điểm tâm sinh lí và trình độ nhận thức của HS lớp 10 40
Chương 2 41
TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỊA LÍ 10 BẰNG BẢN ĐỒ TƯ DUY 41
2.1. Những nguyên tắc sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí 10 41
2.2. Giới thiệu và hướng dẫn sử dụng phần mềm Imindmap 43
2.2.1. Giới thiệu phần mềm Imindmap 43
4
2.2.2. Hướng dẫn cách sử dụng phần mềm Imindmap 47
2.3. Sử dụng BĐTD trong các khâu của dạy học Địa lí 10 67
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong soạn giáo án 67
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong thực hiện bài dạy trên lớp 72
2.3.3. Sử dụng BĐTD trong kiểm tra, đánh giá 75
2.3.4. Hướng dẫn HS sử dụng BĐTD trong khâu học tập Địa lí 77
2.3.5. Sử dụng kết hợp BĐTD với một số phương pháp khác trong dạy học Địa lí lớp
10 79
2.4. Tổ chức dạy học Địa lí 10 bằng bản đồ tư duy 85
2.4.1. Bài 33 : Một số hình thức chủ yếu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp 85
2.4.2. Bài 17: Thổ nhưỡng quyển. Các nhân tố hình thành thổ nhưỡng 89
Chương 3 92
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 92
3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm 92
3.1.1. Mục đích 92
3.1.2. Nhiệm vụ 92
3.2. Đối tượng thực nghiệm 92
3.3. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm 93
3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm 93
3.5. Tổ chức thực nghiệm 93

3.5.1. Bài thực nghiệm 93
3.5.2. Các lớp tiến hành thực nghiệm 93
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm: 94
3.6.1. Trong giờ học 95
3.6.2. Thái độ của HS 95
3.6.3. Kết quả kiểm tra kiến thức 96
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 99
1. Kết luận 99
2. Kiến nghị 101
3. Hướng phát triển của đề tài 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 1
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ, đó vừa là một quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình cạnh tranh
kinh tế quyết liệt giữa các quốc gia tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng
của thế giới. Sự tác động của quá trình này đến nước ta ngày càng mạnh mẽ, điều
này đã và đang tạo ra những cơ hội phát triển chưa từng có cho đất nước, đồng thời
cũng đặt ra những thách thức to lớn về mặt chất lượng và hiệu quả giáo dục để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Cũng với sự phát triển của thời đại, thước đo quan trọng cho năng lực sáng
tạo của mỗi người trong nền kinh tế tri thức chính là tốc độ tư duy, khả năng chuyển
hóa thông tin thành kiến thức và từ kiến thức tạo ra giá trị, tạo ra sản phẩm dịch vụ.
Thế hệ trẻ Việt Nam, những “công dân thời WTO”, đang có cơ hội sử dụng dịch vụ,
kỳ diệu là máy tính và Internet để hội nhập và phát triển cùng một thế giới đang vận
động và phát triển đến từng giây.
Tuy nhiên, trong một thế giới bùng nổ thông tin như hiện nay thì học tập
chăm chỉ cũng chưa phải là một giải pháp tối ưu, bởi khi có nhiều sự lựa chọn thì

vấn đề không chỉ là học cái gì mà còn là học như thế nào và sử dụng công nghệ gì.
Các phương pháp luận học tập đã đem lại thành công cho chúng ta trong quá khứ
đang gặp nhiều thách thức. Thông tin đa chiều và thực tế yêu cầu chúng ta không
chỉ có kiến thức mà còn có khả năng tạo giá trị gia tăng từ kiến thức. Nếu ví thông
tin như các yếu tố đầu vào, còn kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc là yếu tố đầu ra
thì “hộp đen” hay “bộ vi xử lý” chính là bộ não của chúng ta. Thực tế, chúng ta có
thể dành nhiều thời gian để học cách sử dụng tốt một chiếc máy tính, nhưng lại ít
quan tâm đến cơ chế hoạt động, xử lý thông tin, phân tích, tổng hợp, sáng tạo của
cỗ máy kỳ diệu là bộ não.
Tony Buzan là một trong số ít những người dành nhiều thời gian nghiên cứu,
tìm ra quy luật hoạt động của bộ não và làm việc theo quy luật đó để đạt được
những sự thành công đáng kinh ngạc. Ông đã xây dựng tên tuổi mình từ một ý
1
tưởng về cơ bản rất đơn giản mà ông gọi là BĐTD (Mindmap) – công cụ hỗ trợ tư
duy được mô tả là “Công cụ của bộ não” với hơn 250 triệu người đã sử dụng trên
thế giới. BĐTD công cụ giúp bạn làm chủ cuộc sống: ghi nhớ, quản lý, sáng tạo, lập
kế hoạch và thành công. Tony Buzan tin rằng chúng ta đang sống trong một vũ trụ
bao la rộng lớn, nhưng trong mỗi chúng ta cũng có một vũ trụ khác chưa được khai
phá – bộ não. Đi sâu khám phá “tiểu vũ trụ” này, chúng ta cũng sẽ thu được những
điều vô cùng kỳ diệu về tiềm năng vô hạn của chúng ta như sự kỳ diệu của vũ trụ
vậy.
Tại Việt Nam, vào tháng 3 năm 2006, chương trình Thời sự Đài Truyền hình
Việt Nam đã thực hiện phóng sự về hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phổ biến
BĐTD của nhóm Tư duy mới (New Thinhking Group - NTG) khi nhóm đang thực
hiện dự án “Ứng dụng công cụ hỗ trợ tư duy - BĐTD” cho sinh viên Đại học quốc
gia Hà Nội. Dự án đã nhận được sự ủng hộ sâu rộng từ lãnh đạo Đại học Quốc gia
Hà Nội, lãnh đạo Viện Nghiên cứu Con người, các thầy cô giáo và đông đảo HS,
sinh viên.
Các bạn SV ứng dụng BĐTD trong học tập đã đạt được những thành tích học
tập rất cao. Những đề tài nghiên cứu khoa học về ứng dụng BĐTD trong làm việc

theo nhóm, trong học ngoại ngữ, học các môn xã hội khác đã đạt giải cao tại các
trường thành viên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, BĐTD được ứng dụng
đặc biệt hiệu quả trong việc nâng cao khả năng khởi tạo ý tưởng và “Teamwork”
(làm việc theo nhóm) của sinh viên. Việc ứng dụng BĐTD trong khởi tạo và hiện
thực hóa ý tưởng cũng được minh chứng tại các cuộc thi về ý tưởng kinh doanh và
đặc biệt đã có những sinh viên thành lập được doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả
với sự góp phần không nhỏ của BĐTD. Tuy nhiên việc ứng dụng BĐTD chưa bao
giờ được hệ thống hóa và nghiên cứu kĩ lưỡng để phổ biến chính thức trong nước
mà chỉ được dùng tản mạn trong giới sinh viên, HS trước các mùa thi. Gần đây Dự
án phát triển Trung học cơ sở IT. Dự án trường học sáng tạo và một vài tổ chức
khác đang triển khai tập huấn và hướng dẫn sử dụng MM trong giảng dạy và học
tập. Phong trào đang được sự quan tâm và hưởng tích cực từ cả phía thầy lẫn trò.
2
Bác Hồ đã từng nói rằng “Còn sống thì còn phải học. Học hỏi là một việc phải
học suốt đời không ai có thể cho mình biết đủ rồi”. Do đó, một trong những nội
dung của đổi mới phương pháp dạy và học chính là việc hướng dẫn HS tự học, tự
nghiên cứu để có thể tự học suốt đời. Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đó, luận văn
xin phép được đề cập đến nội dung : “Sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí lớp 10
THPT”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Dựa trên những nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cũng như
những nghiên cứu của bản thân về bộ não người, đồng thời với vai trò là một người
GV thấy được những khó khăn của HS trong việc giải quyết vấn đề, ghi nhớ, suy
nghĩ, sáng tạo… Tony Buzan đã tạo ra Mind map vào năm đầu của thập niên 60.
Mục đích của BĐTD chỉ là giúp HS ghi lại bài giảng mà chỉ dung từ then chốt và
các hình ảnh dựa trên cách thức ghi nhớ tự nhiên của bộ não.
Lần đầu tiên những lí thuyết ban đầu của BĐTD như lý thuyết bán cầu não
trái, phải, bản chất của việc ghi nhớ của não dựa trên sự tưởng tượng và liên tưởng
cũng như việc vận dụng các lí thuyết đó để tạo ra các kĩ thuật ghi nhớ đã được Tony
in thành sách: “Use both sides of your brain”. Sau đó, một loạt sách do chính tác giả

viết đã ra đời tạo nên một bách khoa toàn thư về não bộ và cách sử dụng não bộ (An
Enyclopedia of the Brain and Its Use). Trong đó, tác phẩm “Use Your Head” được
giới thiệu vào đầu mùa xuân năm 1974 đã đưa đến cho độc giả BĐTD chính thức
đầu tiên.
Nếu như trong giai đoạn đầu BĐTD chỉ được Tony dùng cho việc ghi nhớ
thì sau này với những tính năng ưu việt của mình, BĐTD đã được dùng cho nhiều
lĩnh vực khác nhau. Do đó, Tony Buzan đã cùng em trai mình là Barry Buzan đã
viết tác phẩm: “The Mind Map Book” – một tác phẩm khá hoàn chỉnh về BĐTD
cũng như việc áp dụng nó vào các lĩnh vực khác nhau. Cuốn sách này đã trình bày
các lí thuyết về não bộ, quan hệ giữa sáng tạo và trí nhớ, các quy luật, kĩ thuật lập
BĐTD cũng như sự khái quát hóa các ứng dụng của BĐTD trong từng lĩnh vực của
cá nhân, gia đình, giáo dục, kinh doanh và các lĩnh vực chuyên môn khác.
3
Dựa trên những lí thuyết BĐTD của Tony Buzan nhiều tác giả khác cũng đã
nghiên cứu để phát triển kĩ thuật này cho từng lĩnh vực cụ thể như:
- Cuốn sách “Writing the natural way” của tác giả Gabereiele Rico là tác
phẩm tiên phong trong việc ứng dụng BĐTD cho lĩnh vực ghi chép.
- Để dành riêng cho những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, cố vấn Joyco Wycoff của Tony Buzan đã viết cuốn sách hoàn chỉnh để
áp dụng BĐTD trong kinh doanh “Mind Map: Your Personal Guide To Exploring
Crecitivity And Prole Sloving” do nhà xuất bản Berkey NewYork (1991). Trong
cuốn sách này tác giả đã gợi ý sử dụng công thức chung của BĐTD với chủ thể đặt
ở giữa và vây quanh là các nhánh phát sinh với chủ để WWWWH$ (Who?When?
What?Where?Why?How?Money?) khi tạo ra một BĐTD trong quản lí một dự án.
- …………
Ở Việt Nam, BĐTD mới xuất hiện ở nước ta khoảng 5, 6 năm trở lại đây
thông qua một số tác phẩm được biên dịch lại như: Use your head, Mind Map at
wrok, Mind Map Book… Tuy nhiên, thời gian đầu BĐTD ít được mọi người chú ý
đến, đặc biệt là giới HS, sinh viên, các nhà sư phạm. Hiện nay, việc sử dụng công
cụ trên đang dần phổ biến trong giới trẻ. Điển hình đó là hoạt động nghiên cứu ứng

dụng và phổ biến BĐTD của nhóm Tư duy mới (New Think Group - NTG). Nhóm
này đã có công rất lớn trong việc biên dịch tác phẩm “Mind Map at work”, ra tiếng
Việt. Những dự án mà NTG thực hiện như: ứng dụng BĐTD trong việc học nhóm,
trong học ngoại ngữ và học các môn xã hội khác đã rất thành công.
BĐTD cũng được nhiều nhà giáo áp dụng trong việc giảng dạy trên lớp. Cụ
thể như thầy Hoàng Đức Huy, thầy đã hướng dẫn HS của mình sử dụng BĐTD
trong học văn và đạt hiệu quả rất cao.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu BĐTD để áp dụng cụ thể cho các môn
học trên giờ lên lớp rất ít, có chăng đó chỉ là những bài viết còn rất sơ sài, mang tính
chung chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ
4
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài: “Sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí lớp 10 THPT”
nhằm:
Trang bị cho HS những kiến thức cơ bản nhất về BĐTD, hình thành kĩ năng
lập BĐTD để họ có thể sử dụng BĐTD trong học tập môn Địa lí một cách hiệu quả.
Từ đó, khơi dậy niềm đam mê, hứng thú, sáng tạo của HS, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học Địa lí ở trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu các cơ sở lí luận của việc sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí
10.
- Sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học Địa lí 10 (ban cơ bản).
- Thực nghiệm dạy học Địa lí 10 bằng BĐTD để kiểm chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về BĐTD là một đề tài tương đối rộng và đòi hỏi phải dày công
tìm tòi nghiên cứu. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và vốn kiến thức chưa
nhiều, đề tài xin phép đề cập chủ yếu đến những nội dung như sau:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
BĐTD và thiết kế, sử dụng BĐTD trong dạy học Địa lí 10 THPT.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Thiết kế và sử dụng BĐTD trong dạy học.
- Tại một số trường THPT Thái Nguyên.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, kế thừa và phát triển kết quả của
những công trình nghiên cứu trước đây về thiết kế và sử dụng BĐTD.
Tổ chức dạy học Địa lí 10 theo quan điểm “lấy HS làm trung tâm”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5
5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp tài liệu
Để thực hiện được nhiệm vụ của đề tài, đây là một trong những phương pháp
quan trọng và cần nhiều thời gian, công suất nhất. Việc thu thập thông tin được lấy
từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau như: SGK, các sách tham khảo, các khóa luận,
luận văn có nội dung liên quan, khai thác thông tin từ internet, sử dụng các phần
mềm tin học, sử dụng các phần mềm tin học có liên quan… Sau đó, tác giả đã tiến
hành công tác tổng hợp, phân tích, đối chiếu các nguồn tài liệu trên để có được
thông tin chắt lọc, súc tích nhất phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
5.2.2. Phương pháp khảo sát, điều tra thực tế.
Phương pháp này được thực hiện ở các trường phổ thông qua việc soạn giáo
án, dự giờ, đánh giá nhằm thu thập thông tin thực tế và hiện trạng dạy và học hiện
nay, về việc ứng dụng BĐTD trong dạy học nhằm hiểu được thực trạng và đưa ra
những phương hướng hợp lí, nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay.
5.2.3. Phương pháp thực nghiệm
Mục đích của việc tiến hành phương pháp này là nhằm kiểm tra tính khả thi
và hiệu quả của đề tài, thông qua việc soạn giáo án và tiến hành dạy thử nghiệm tại
các lớp của trường phổ thông nhằm so sánh, đối chiếu để tìm ra ưu nhược điểm,
cách khắc phục những hạn chế của đề tài.
6. Giả thuyết khoa học

Hiện nay việc sử dụng BĐTD còn đang là vấn đề khá mới mẻ trong dạy và
học ở trường phổ thông nói riêng, mà nguyên nhân chủ yếu do nhận thức và hiểu
biết về BĐTD của GV còn hạn chế, đa phần vẫn còn sử dụng các phương pháp
truyền thống. Nếu thực hiện được mục đích và nhiệm vụ đề tài đưa ra, từ đó áp
dụng và dạy và học Địa lí ở nhà trường phổ thông sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học, nâng cao hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường
hiện nay.
7. Cấu trúc luận văn
6
- Phần mở đầu
- Phần nội dung gồm:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng BĐTD trong dạy
học Địa lí lớp 10 THPT.
+ Chương 2: Tổ chức dạy học Địa lí 10 bằng BĐTD.
+ Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
- Phần kết luận và kiến nghị.
- Ngoài ra còn có: Phần phụ lục, mục lục, danh mục các tài liệu tham khảo
chính.
PHẦN NỘI DUNG
7
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 10 THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học Địa lí
1.1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
a. Nhà trường trước yêu cầu của xã hội
* Những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
Thời đại của chúng ta đang sống là thời đại của hai cuộc cách mạng: Cách
mạng khoa học kĩ thuật và cách mạng xã hội. Tốc độ phát triển như vũ bão của hai

cuộc cách mạng này thúc đẩy nhiều lĩnh vực có bước tiến mạnh mẽ và mở ra những
triển vọng hết sức lớn lao cho con người mới trong hành trang vào thế kỉ XXI.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đòi hỏi nhà trường phải đào
tạo ra những con người mới thông minh sáng tạo, thích ứng được với yêu cầu của
thời đại, có tri thức khoa học tiên tiến, có kĩ năng kĩ xảo vững chắc và có ý thức
nghề nghiệp để giải quyết tốt các nhiệm vụ đặt ra của thực tiễn.
* Những yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu cực hóa đang diễn ra mạnh mẽ,
các nước phải cùng nhau hợp tác đa phương để giải quyết những vấn đề toàn cầu có
tính sống còn đối với toàn thể nhân loại như vấn đề an ninh, môi trường, kinh tế…
Các dân tộc trên thế giới phải tăng cường hòa bình, ổn định để cùng nhau phát triển
lâu dài, bền vững. Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa
cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập
tự chủ, phát huy bản sắc và truyền thống dân tộc.
Chính vì những lí do trên đòi hỏi con người phải đáp ứng được:
8
- Có những đầu óc khoa học, có trình độ học vấn cao, biết sử dụng các quy
luật tự nhiên và xã hội để xây dựng cuộc sống.
- Có tính nhân văn sâu sắc, có ý thức chấp hành pháp luật, có tinh thần dân tộc,
biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
- Có cá tính và bản sắc có ý chí, hoài bão, tự chủ, tự cường…
* Những yêu cầu đặt ra từ tình hình kinh tế chính trị của đất nước
Công cuộc đổi mới toàn diện của nước ta đã tiến hành được 25 năm trên tất
cả các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, thu được nhiều thành tựu nổi bật đưa nước ta
chuyển dần từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với
các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đang ở thời kì mở cửa mạnh mẽ
nền kinh tế, tự lập nghiệp và thăng tiến, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng dân chủ, văn minh.
* Đổi mới nền giáo dục theo yêu cầu thời đại
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai đất nước. Những biến đổi của xã

hội đã thúc đẩy các nước trên thế giới quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục nhằm
đầu tư và xây dựng một nền giáo dục đáp ứng kịp thời các yêu cầu ngày càng tăng
lên của xã hội, đảm bảo sự hòa nhập và giao lưu quốc tế. Cũng chính vì thế, giáo
dục đã trở thành quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Nền giáo dục mới phải hướng vào những yêu cầu phục vụ cho sự phát triển
kinh tế xã hội. Theo PGS.TS Đặng Văn Đức và PGS. TS Nguyễn Thị Thu Hằng
trong cuốn “Phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực” đã nói: “Giáo dục
không những tạo ra những con người trí tuệ mà con phải nhấn mạnh nội dung nhân
văn. Hơn nữa, giáo dục không chỉ chú ý đến mặt thiết chế của xã hội về mục đích,
mục tiêu giáo dục mà còn phải quan tâm đến lợi ích của người học và nhu cầu phát
triển của chính bản thân người học. Nói cách khác, người học phải là “người đi học
chứ không phải người được dạy”. Đó là sự thống nhất giữa nhu cầu phát triển của
kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của chính bản thân người học”.
* Những yêu cầu cần đổi mới trong giáo dục đào tạo nước ta
9
Đảng và nhà nước ta luôn coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng
chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Công cuộc đổi mới với những
thành tựu bước đầu đang dần đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
kém phát triển để sánh vai cùng bạn bè khu vực và thế giới. Để thực hiện thành
công nhiệm vụ ấy, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống giáo dục là phải “xác định lại
mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch nội dung, phương pháp giáo dục và đào
tạo” nhằm thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng nền giáo dục nước ta so với
nhiều nước trên thế giới còn thua kém, có nguy cơ bị tụt hậu nếu không có thay đổi
phù hợp tình hình thực tiễn. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta cần tiếp tục thực
hiện đổi mới nền giáo dục đào tạo, tạo ra những chuyển biến sâu sắc trong đổi mới
tổ chức quy trình dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả, đào tạo ra những
con người lao động tự chủ, sáng tạo.
b. Một số quan điểm mới về mục tiêu , nội dung, phương pháp

* Về mục tiêu
Mục tiêu giáo dục là những gì HS phải có được về tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
nghề nghiệp, thái độ hành vi sau một quá trình học tập. Việc xác định mục tiêu giáo
dục có ý nghĩa lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học. Đối với
GV, căn cứ vào mục tiêu để xác định cần dạy gì, ở mức độ nào để lựa chọn phương
pháp phù hợp, đánh giá được khách quan, đúng đắn kết quả học tập của HS. Đối với
HS, xác định mục tiêu giúp người học biết cần học cái gì và làm gì sau khi học
xong.
Cần tăng cường giáo dục nhân văn, tức là tinh thần hòa bình, hữu nghĩ, hợp
tác. Theo ủy ban quốc gia về giáo dục cho thế kỉ XXI thì “giáo dục phải làm sao
nâng cao tính hài hòa trong quá trình ngày càng tăng tính toàn cầu hóa của xã hội
loài người, làm sao cho toàn bộ quá trình giáo dục phải giúp cho mọi người học
cách chung sống với nhau”.
10
Bên cạnh đó, các chính sách giáo dục phải chú ý phối hợp hài hòa cả ba mục
đích: Công bằng, thích hợp và chất lượng. Các cá nhân trở thành các thực thể xã hội
có khả năng cùng nhau hợp tác, đối thoại và thực hiện trách nhiệm công dân. Đào
tạo những con người có năng lực đóng góp vào sự phát triển của xã hội, có tri thức
và kĩ năng cụ thể.
Đối với cộng đồng, hệ thống giáo dục quốc dân phải đáp ứng được yêu cầu
xây dựng cơ cấu lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu của công nghệ, khoa học và
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mục tiêu đào tạo phải đáp ứng được năm yêu cầu:
- Thích hợp
- Thực hiện được
- Đo được
- Đánh giá được
- Mềm hóa
Theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết “Phương pháp dạy học
tích cực - một phương pháp vô cùng quý báu” đã viết: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và

nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
* Về nội dung
Nội dung dạy học là chất liệu biến đầu vào thành đầu ra. Cơ sở để xác định
nội dung bài học là bối cảnh văn hóa, trong đó có yêu cầu của người sử dụng nhân
lực được đào tạo, của phụ huynh, môi trường, các nguồn lực, các môn khoa học.
Nội dung giáo dục được hiện đại hóa phù hợp với yêu cầu của thời đại, mềm hóa
phù hợp với đặc điểm, điều kiện của HS, đảm bảo sự cân bằng hợp lí giữa các yếu
tố khác, theo 5M, 4P và 4 trụ.
Nội dung dạy học phải đảm bảo: cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam.
Ngoài ra, người GV cần cố gắng giáo dục những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và những yêu cầu mới của đất nước, của thời đại đối với con người như truyền
11
thống yêu nước, lòng nhân ái…, các yêu cầu ổn định và phát triển hòa bình, bảo vệ
môi trường, giáo dục dân số…
Như vậy có thể nói về nội dung đào tạo cần đảm bảo:
- Phản ánh những thành tựu hiện đại của nền văn hóa, khoa học kĩ thuật,
chương trình đào tạo có phần cứng và phần mềm, tạo điều kiện cho việc cá thể hóa
và phân hóa việc dạy học.
- Tính hiện đại của nội dung đào tạo thể hiện ở sự liên kết hợp lí những
thông tin khoa học vào những cấu trúc logic, tạo sự tối ưu của nội dung, thúc đẩy
HS tích cực tìm ra kiến thức mới cao và rộng hơn cái đã có.
- Đưa vào mục đích giáo dục đào tạo việc tích hợp nhiều môn khoa học cùng
các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của nó, làm tiền đề cho việc thích nghi
nhanh với thực tiễn công tác sau này của HS.
- Nội dung đào tạo được phân nhỏ để thiết lập một cấu trúc vừa mức, hướng
vào một mục tiêu hoạt động nhất định, hình thành động lực thúc đẩy quá trình tự
phấn đấu của HS.
- Đổi mới nội dung chương trình môn học sát với tình hình thực tiễn của nhà

trường, của đất nước cũng như khu vực và thế giới.
* Về phương pháp
Phương pháp dạy là cách thức GV trình bày tri thức, tổ chức và kiểm tra hoạt
động nhận thức và thực tiễn của HS nhằm đạt được các nhiệm vụ dạy học. Nói cách
khác, đó là phương pháp thiết kế và góp phần thi công của người GV.
Phương pháp học là cách thức tiếp thu, tự tổ chức và kiểm tra hoạt động nhận
thức và thực tiễn của HS nhằm đạt các nhiệm vụ dạy học. Nói cách khác, đó là cách
thức tự thiết kế và thi công quá trình học tập của người HS.
Mỗi phương pháp thường bao gồm các yếu tố như:
- Mục đích định trước.
- Hệ thống những hành động liên tiếp tương ứng.
- Phương pháp hành động.
- Quá trình biến đổi của đối tượng bị tác động.
12
- Kết quả thực tế đạt được.
* Mối quan hệ giữa mục tiêu – nội dung – phương pháp
Đây có thể coi là ba thành tố có quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau theo sơ
đồ tam giác MNP. Người thầy chọn phương pháp không chỉ từ nội dung mà còn
trực tiếp từ mục tiêu. Nói cách khác, phương pháp dạy học là cách thức hoạt động
của GV trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của HS nhằm đạt mục tiêu dạy học.
* Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy học
Quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của HS dưới sự chỉ đạo
của GV, là một quá trình hai mặt, đạt được chất lượng và hiệu quả dạy học.
- Dạy là quá trình tổ chức nhận thức cho HS của GV bằng cách tổ chức nên
các tình huống học tập, các tình huống gia cố, HS hoạt động tích cực dưới sự hướng
dẫn ít nhiều của GV nhằm đạt chất lượng và hiệu quả dạy học.
- Học là quá trình hoạt động tự giác, tích cực của HS nhằm lĩnh hội tri thức,
kĩ năng kĩ xảo, phát triển trí tuệ, thể chất và hình thành nhân cách bản thân cho phù
hợp với yêu cầu của xã hội.
Quá trình dạy học là một hệ thống cân bằng động, gồm nhiều nhân tố tác

động qua lại lẫn nhau theo quy luật và nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện các
nhiệm vụ dạy học, đạt chất lượng và hiệu quả. Dạy học về bản chất là quá trình thiết
kế và góp phần thi công của người GV và học tập về bản chất là quá trình tự thiết kế
và trực tiếp thi công của HS có sự hướng dẫn, hỗ trợ ít nhiều của GV nhằm đạt chất
lượng và hiệu quả dạy học.
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động chính:
- Hoạt động học gồm hai chức năng thống nhất với nhau là lĩnh hội và tự
điều khiển.
- Hoạt dộng dạy gồm hai chức năng: Truyền đạt và điều khiển.
Hai quá trình này có mối quan hệ qua lại với nhau theo sơ đồ sau:
13
Tế bào của quá trình dạy học là sự tác động qua lại giữa thầy và trò để chiếm
lĩnh một đối tượng.
c. Các phương hướng đổi mới phướng pháp dạy học trên thế giới
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy và học cho phù hợp với tình hình
mới, hiện nay trên thế giới có một số phương hướng cải tiến phương pháp như sau:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS.
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập các thể phối hợp học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với đánh giá gì của trò.
* Cá thể hóa việc dạy học
- Mục tiêu dạy học phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng HS.
- Nội dung dạy học phù hợp với nhau cầu hứng thú của từng HS.
* Công nghệ đào tạo
- Thường xuyên áp dụng vào giáo dục những đổi mới về giáo dục có căn cứ
khoa học và được kiểm tra bằng thực nghiệm.
- Chi phí ít nhất về thời gian, sức lực, tiền của nhưng đạt kết quả cao nhất
trong đào tạo
- Giáo dục hiện đại phải đưa vào những thành tựu hiện đại của các khoa học
khác.

Khái niệm khoa học
Dạy
Truyền đạt
Điều khiển
Học
Lĩnh hội
Tự điều khiển
14
- Tính khoa học.
- Tính lập lại kết quả.
- Chương trình hóa hành động.
- Sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học.
- Đánh giá kết quả đào tạo khách quan, kịp thời.
d. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Những định hướng đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện trong nhiều
nghị quyết, văn kiện của Đảng và nhà nước ta như: Nghị quyết TW 4 khóa VII,
nghị quyết TW2 khóa VIII, luật giáo dục, thể hiện: “ Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Nghị
quyết trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác
định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”, “ Tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và
bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại
ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát
triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Có thể xem dạy học lấy HS làm trung tâm là một tư tưởng, quan điểm,
một cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học, khác với tư tưởng, quan điểm, cách

tiếp cận truyền thống là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của người dạy.
Chuyển từ dạy học lấy HS làm trung tâm là một tư tưởng, quan điểm, một
cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học, khác với tư tưởng, quan điểm, cách tiếp
cận truyền thống là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của người dạy.
Chuyển từ dạy học lấy GV làm trung tâm sang dạy học lấy HS làm trung tâm
là một xu thế tất yếu, theo lịch sử phát triển của phương pháp giáo dục và dạy học
trong nhà trường.
15
1.1.1.2. Áp dụng dạy học tích cực trong môn Địa lí
a. Quan niệm chung về phương pháp dạy học tích cực
Chúng ta biết rằng, phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến các hoạt
động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo
của người học. Ở đó, các hoạt động học tập được tổ chức, định hướng bởi GV,
người học không thụ động chờ đợi mà chủ động, tích cực tham gia vào quá trình tìm
kiếm, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong thực
tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo. Trong dạy và
học tích cực, hoạt động học tập được thể hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức
độ cao. Dạy và học tập tích cực nhấn mạnh đến tính tích cực của người học và tính
nhân văn của giáo dục.
Theo PGS.TS Đặng Văn Đức trong cuốn Dạy và học tích cực (Bộ Giáo dục
đào tạo – Dự án Việt – Bỉ) thì bản chất của dạy và học tích cực là:
- Khai thác động lực học tập ở người học để phát triển chính họ.
- Coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho họ thích ứng
với đời sống xã hội.
b. Những dấu hiệu đặc trưng của dạy và học tích cực
* Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của HS
Tâm lí học cho rằng nhân cách của trẻ được hình thành thông qua các hoạt
động chủ động, qua các hành động có ý thức, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “
Học để hành. Học và hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà
không học thì hành không trôi chảy”.

Trong phương pháp tích cực, người học và hoạt động học được cuốn hút vào
những hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, qua đó được tự lực khám phá
chứ không thụ động tiếp thu tri thức đã sắp đặt sẵn. Người học trực tiếp quan sát
những tình huống thực tế, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra, vừa nắm được
kiến thức kĩ năng kĩ xảo, vừa biết được con đường tìm ra kiến thức đó, bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo của mình. Dạy học không chỉ đơn giản là cung cấp tri
thức mà còn hướng dẫn hành động “từ học làm đến biết làm, muốn làm và cuối
16
cùng là muốn tồn tại và phát triển như nhân cách một con người lao động tự chủ,
năng động và sáng tạo”.
* Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Ngày nay, trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin thì đòi hỏi kiến thức và hiểu biết của con người phải không
ngừng tăng lên, những kiến thức thu nhận được trong nhà trường phải kết hợp với
những kiến thức thường xuyên cập nhật. Do vậy, quan trọng là phải hướng dẫn cho
người học một phương pháp tự học có hiệu quả, là cầu nối giữa học tập và nghiên
cứu khoa học, khiến họ biết linh hoạt ứng dụng những điều đã học vào tình huống
mới, tự phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra, khơi dậy tiềm năng vốn có
trong mỗi người.
* Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Phương pháp dạy và học tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nghị lực cũa mỗi HS
trong việc tự lực giành lấy kiến thức. Khả năng nhận thức và trình độ của các HS
không đồng đều, áp dụng phương pháp dạy học tích cực ở trình độ càng cao thì sự
phân hóa càng lớn. Việc ứng dụng các phương tiện dạy học hiện đại sẽ đáp ứng nhu
cầu học tập cá thể của mỗi HS. Tuy nhiên, lớp học có môi trường giao tiếp thầy - trò,
trò - trò. Thông qua thảo luận trong tập thể, ý kiến của cá nhân được điều chỉnh, người
học nâng mình lên trình độ mới, hiệu quả học tập sẽ tăng lên, tích cách năng lực của
mỗi cá nhân được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật, tình thần
tương trợ trong cộng đồng.
Trong học tập hợp tác, mục tiêu hoạt động là chung của toàn nhóm nhưng

mỗi cá nhân được phân công nhiệm vụ cụ thể, phối hợp với nhau để đạt mục tiêu
cuối cùng, chuẩn bị cho HS thích ứng với đời sống xã hội, với môi trường làm việc
cộng đồng sau này.
* Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trong dạy và học tích cực, GV không còn là người giữ vai trò độc quyền đánh
giá năng lực, kết quả học tập của HS mà người học được tích cực, chủ động tham gia
đánh giá và tự đánh giá. Từ đó, GV điều chỉnh được phương pháp dạy và HS điều
chỉnh phương pháp dạy và HS điều chỉnh phương pháp học để đạt hiệu quả.
17
Việc kiểm tra đánh giá không chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp
lại kĩ năng mà phải khuyến khích óc sáng tạo, rèn luyện khả năng phát hiện và giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tế.
* Vai trò chỉ đạo của GV
Trong dạy và học tích cực, GV trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn
các hoạt động để HS tự lực chiếm lĩnh kiến thức mới, hình thành kĩ năng, thái độ
phù hợp. GV là người gợi mở, là cố vấn, trọng tài của HS. GV phải có trình độ
chuyên môn sâu rộng, năng lực sư phạm, đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể
giúp HS giải quyết nhiều vấn đề nằm ngoài tầm của HS.
c. Thực hiện dạy và học tích cực trong môn Địa lí
Địa lí là môn tổng quan nhiều lĩnh vực, cả tự nhiên và kinh tế xã hội. Thực hiện
dạy và học tích cực trong môn Địa lí không phải là loại bỏ hết các phương pháp truyền
thống, các phương tiện thiết bị truyền thống mà cần biết kết hợp chúng với các phương
pháp và phương tiện dạy học hiện đạt nhằm đạt kết quả dạy và học cao nhất.
Để thực hiện dạy và học tích cực cần phát triển các phương pháp thực hành,
các phương pháp trực quan theo kiểu tìm tòi từng phần hoặc nghiên cứu phát hiện.
Trong đổi mới phương pháp cần kế thừa, phát huy những mặt tích cực của các
phương pháp dạy học đã quen thuộc đồng thời vận dụng các phương pháp mới phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.1.3. Ứng dụng ICT trong dạy học Địa lí

Chúng ta đang sống trong thế kỉ của nền văn minh tri thức. Sự “bùng nổ”
của khoa học công nghệ tạo điều kiện cho con người có thể tiếp nhận nguồn tri thức
của nhân loại một cách dễ dàng. Bối cảnh đó đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới
về nội dung và phương pháp giảng dạy. Những năm gần đây, sự tích hợp của công
nghệ thông tin và truyền thông trong giảng dạy đã mở ra nhiều khả năng ứng dụng,
tạo bước phát triển mới làm thay đổi xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng.
* Công nghệ thông tin gây hứng thú và phát huy tính tích cực học tập Địa lí
của HS.
18
Với ưu thế của công nghệ thông tin - một nguồn thông tin - dữ liệu rất khổng
lồ dưới các dạng khác nhau như kí hiệu, hình ảnh, đồ thị, biểu đồ với những màu
sắc hấp dẫn, âm thanh sống động kích thích sự hứng thú, tò mò và ham muốn tìm
tò, nghiên cứu, trải nghiệm của HS. Trong quá trình học tập công nghệ thông tin
(máy tính, Internet ) là nguồn tài liệu khổng lồ, quý giá và có thể khai thác được
trong thời gian ngắn. Mặt khác nó còn cho phép người học có thể công bố (đánh
giá) kết quả học tập và nghiên cứu của mình. Đặc biệt việc sử dụng Internet ta có
thể tiến hành các cuộc điều tra, trao đổi ý kiến cho nhau và thông báo những thông
tin cần thiết. Chính vì vậy mà công nghệ thông tin sẽ thu hút được người học và
thúc đẩy người học tích cực làm việc độc lập.
* Công nghệ thông tin có khả năng lưu trữ và cung cấp cho việc dạy và học
Địa lí lượng thông tin lớn
Trong quá trình dạy học Địa lí, bằng những kĩ năng sử dụng các phương tiện,
thiết bị kĩ thuật hiện đại HS có thể khai thác từ Internet, Encarta, phần mềm Db –
map một khối lượng thông tin Địa lí khổng lồ dưới nhiều dạng khác nhau: văn
bản, hình ảnh, số liệu, lược đồ, bản đồ Nguồn thông tin này luôn cập nhật, chính
xác và nhanh chóng. Ta có thể khẳng định rằng không có giáo trình, SGK và thư
viện nào có thể cung cấp thông tin một cách nhanh chóng và cập nhật như Internet.
Điều này không những đối với HS mà còn có ý nghĩa đặc biệt với GV. Với
các nguồn tư liệu phong phú và cập nhật này, giúp cho GV thuận tiện hơn rất nhiều
khi chuẩn bị bài cũng như khi lên lớp.

Hơn nữa, máy tính lưu giữ thông tin và dữ liệu, nó cho phép GV có thể thành
lập ngân hàng dữ liệu thông tin giáo khoa, nội dung giảng dạy.
* Công nghệ thông tin góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học
Địa lí .
Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học chính là khắc phục lối
truyền thụ một chiều, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS.
19
Tuy nhiên muốn thay đổi định hướng đổi mới phương pháp dạy học Địa lí,
người GV phải thay đổi cách dạy, người học phải thay đổi cách học. Cần tăng
cường sử dụng các phương pháp tích cực như hợp tác theo nhóm, khai thác tri thức
từ bản đồ, nêu và giải quyết tình huống, phương pháp dự án, và tổ chức các giờ
học Địa lí theo quan điểm kiến tạo, sư phạm tương tác, hoạt động hoá người học
Tổ chức dạy học theo các quan điểm và phương pháp đó, đòi hỏi HS phải biết kết
hợp làm việc theo nhóm và làm việc một cách độc lập, mặt khác HS phải hoạt động
tìm kiếm, lựa chọn xử lí một cách tự giác, tích cực Tuy nhiên để thực hiện được
điều đó, phải có phương tiện, thiết bị kĩ thuật để hỗ trợ cho HS hoạt động. Có như
vậy trong một khoảng thời gian nhất định, dưới sự hỗ trợ của GV HS mới có thể
hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
* Công nghệ thông tin có khả năng đổi mới hình thức tổ chức dạy học Địa lí
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học Địa lí nói riêng chúng ta có thể
áp dụng nhiều tổ chức hình thức dạy học khác nhau. Ngoài hình thức giáo dục
truyền thống là lên lớp giảng bài, học mở rộng, học từ xa tương ứng với các hình
thức này đã xuất hiện các ứng dụng của công nghệ điện tử - viễn thông trong giáo
dục đó là: băng nghe tiếng (hệ 1); băng hình, truyền hình (hệ 2). Tuy các phương
tiện này đã thúc đẩy việc dạy - học, song các loại này vẫn còn ở thế bị động, nó chỉ
hoạt động một chiều. Người học không thể tương tác với máy, khó chọn được thời
gian học.
Hiện nay, thế hệ 3 - sử dụng công nghệ thông tin để dạy và học đã được áp

dụng và đáp ứng được yêu cầu của việc dạy học, đặc biệt là dạy học từ xa. Hai công
nghệ hiện đại và ứng dụng một cách có hiệu quả nhất cho giáo dục và đào tạo là công
nghệ truyền thông đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc
biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho dạy học thay đổi được hình
thức tổ chức. Người học không nhất thiết phải lên lớp, theo đúng thời gian, địa điểm
quy định, mà người học có thể học bất cứ ở đâu, nơi nào (thành phố hay vùng sâu,
vùng xa). Người học có thể chủ động được thời gian, bất cứ lúc nào họ muốn, họ
không phải phụ thuộc vào giờ lên lớp hay phát sóng của đài, truyền hình.
20

×