Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Nghiên cứu khoa học Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.99 KB, 106 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan: Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng.
Các trích dẫn và số liệu được sử dụng trong khóa luận đều được dẫn
nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Hà Nội, ngày…tháng 5 năm 2014.
Sinh viên
Nguyễn Thanh Thư

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC – Báo cáo tài chính
BIDV – Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV - Bank for Investment and Development of Vietnam)
CIC – Trung tâm thông tin tín dụng Nhà nước (thuộc NHNN Việt Nam)
(CIC – Credit Information Center)
CBTD – Cán bộ tín dụng
DN – Doanh nghiệp
DNVVN – Doanh nghiệp vừa và nhỏ
GDĐB – giao dịch đảm bảo
KTNB – Kiểm tra nội bộ
KHV – Khách hàng vay
NHNN – Ngân hàng Nhà nước
NHBL – Ngân hàng bảo lãnh
ODA – Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA – Official Development Assistance )
QHKH – Quan hệ khách hàng
RRTD – Rủi ro tín dụng
SXKD – Sản xuất kinh doanh
TSĐB- tài sản đảm bảo


TCTD – Tổ chức tín dụng
TSBD – Tài sản bảo đảm
XHTD – Xếp hạng tín dụng

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
A – Danh mục Bảng biểu

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã phong phú và đa
dạng hơn rất nhiều nhưng hoạt động tín dụng vẫn là một trong những hoạt
động kinh doanh chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng thương
mại Việt Nam. Kinh doanh tín dụng mang lại nguồn lợi nhuận lớn nhất nhưng
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho các ngân hàng. Hậu quả của rủi ro tín dụng
rất nặng nề, làm tăng thêm chi phí vốn của ngân hàng, thu nhập lãi bị chậm
hoặc bị mất đi cùng với sự thất thoát vốn vay, không những trực tiếp gây ra
các khoản thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mà còn ảnh
hưởng xấu đến uy tín và vị thế của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng tồn tại tất yếu và song hành với hoạt động tín dụng của
các ngân hàng thương mại và không có biện pháp hữu hiệu nào để các NHTM
loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp phòng
ngừa hoặc giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Đứng trên quan điểm của các
nhà quản trị ngân hàng, một tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động phải luôn
được xác định trong chiến lược hoạt động chung. Khi ngân hàng có mức tổn
thất thấp hơn hoặc bằng tỷ lệ tổn thất dự kiến thì đó là thành công trong lĩnh
vực quản trị rủi ro góp phần đạt được mục tiêu hướng tới của các ngân hàng
là hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và tăng trưởng. Đây là điều vô cùng
quan trọng giúp ngân hàng đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền
vững cũng như thực hiện thành công các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên
kết trong xu thế hội nhập.

Xét trong bối cảnh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam Chi nhánh Tây Đô, trải qua nhiều năm tăng trưởng mạnh mẽ, liên tục
với những cải cách toàn diện, sâu sắc về thực hành tổ chức, quản lý, công
nghệ cũng như nhân lực, Ngân hàng đã đạt được kết quả vượt bậc trong mọi
mặt kinh doanh. Tuy nhiên, những bài học lịch sử trong quá khứ và những
biến động bất lợi lớn lao về kinh tế vĩ mô nói chung và ngành ngân hàng nói
riêng trong những năm qua và có thể cả những năm sắp tới luôn nhắc nhở
rằng, nguy cơ sụt giảm tín dụng luôn luôn hiện hữu và có khả năng đe dọa lớn
tới sự phát triển bền vững của ngân hàng. Để tồn tại và phát triển qua giai
đoạn này, và cao hơn nữa, để nâng cao toàn diện chất lượng công tác quản lý

rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế, nhanh chóng đạt được mục tiêu hòa
nhập vào nền tài chính khu vực và quốc tế thì việc nâng cao chất lượng quản
lý rủi ro tín dụng là một vấn đề mang tính cốt yếu trong chiến lược hoạt động
của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ.
Xuất phát từ thực tế trên, em xin chọn đề tài: “Giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chi nhánh Tây Hồ” làm đề tài khóa luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng của hệ thống NHTM nói chung và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ nói riêng trong quá
trình cấp tín dụng. Cụ thể, đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu:
- Những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
- Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng đối tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ trong những năm vừa qua.
- Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ trong những
năm vừa qua.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
- Những lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
- Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ.
- Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu rủi ro tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ trong khoảng thời gian từ 2011-
2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, các phương pháp được sử dụng
chủ yếu để nghiên cứu bao gồm:
- Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp điều tra – Tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, phân tích, lập biểu đồ so sánh.
5. Kết cấu của khóa luận
Về cấu trúc, ngoài phần mở đầu, kết luận và các biểu đồ kèm theo,
khóa luận được chia thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Tây Hồ.

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
 Hoạt động tín dụng của ngân hàng

 Khái niệm về hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ kinh tế về việc sử dụng vốn tạm
thời giữa ngân hàng và các cá nhân, tổ chức theo nguyên tắc hoàn trả nhằm
thỏa mãn nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp. Tín dụng ngân
hàng giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng thì
tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu. Tất cả các nghiệp vụ khác của ngân hàng đều
có tính chất bổ sung cho nghiệp vụ tín dụng và đây là nghiệp vụ quyết định sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Thông thường, tín dụng ngân hàn được phân theo thời gian khách hàng
vay vốn, bao gồm các loại sau:
Tín dụng ngắn hạn: đây là hình thức cấp tín dụng có thời hạn dưới 1
năm, thường áp dụng trong trường hợp nguồn vốn ngân hàng cho khách hàng
vay được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp,
đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu ngắn hạn của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến
5 năm, thường áp dụng trong trường hợp nguồn vốn ngân hàng cho khách
hàng vay được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có thời
gian thu hồi vốn nhanh của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Tín dụng dài hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm, chủ
yếu để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như các công trình xây dựng của Nhà
nước, các tổ chức, đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng ngân hàng có thể được thể hiện
dưới dạng: hợp đồng tín dụng ngân hàng, hợp đồng thuê mua tài chính, các
thỏa thuận chiết khấu giữa ngân hàng và khách hàng, các cam kết bảo lãnh
giữa ngân hàng và khách hàng.
 Vai trò của tín dụng ngân hàng
Hoạt động ngân hàng được coi là huyết mạch trong hoạt động tài chính
của đất nước, đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, hoạt động của
hệ thống ngân hàng cụ thể là tín dụng ngân hàng ngày càng khẳng định hơn

nữa vai trò quan trọng của mình. Đó là:

- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiền tệ,
góp phần đẩy nhanh việc tái sản xuất mở rộng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả, các
nguồn vốn và vật tư được đưa vào luân chuyển và được sử dụng hợp lý trong
sản xuất. Tín dụng ngân hàng góp phần thỏa mãn các nhu cầu vốn tiền tệ tạm
thời của doanh nghiệp, đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất cũng như
mở rộng sản xuất. Đồng thời tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong
việc tạo ra cơ cấu tối ưu trong phát triển kinh tế, là phương tiện để Nhà nước
cung ứng tiền cho nền kinh tế sao cho phù hợp với sự phát triển.
- Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Nhờ nguồn vốn vay của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể
khắc phục khó khăn trong kinh doanh, hoặc doanh nghiệp có nguồn vốn để
mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ giúp cho doanh nghiệp
ngày càng phát triển.
- Tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.Trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, vay nợ nước ngoài trở thành một nhu
cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết
đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của các nước đang phát triển và nâng cao đời sống vật chất của nhân
dân.
 Nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng có ba nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc thứ nhất: Cho vay phải có phương hướng, mục tiêu cụ thể,
kế hoạch sản xuất kinh doanh của người vay vốn phù hợp với kế hoạch sản
xuất phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước và phải có hiệu quả (phương án
sản xuất kinh doanh khả thi).
- Nguyên tắc thứ hai: cho vay có giá trị tương đương làm đảm bảo.
Nguyên tắc này đặt ra theo yêu cầu tất yếu khách quan của quy luật lưu thông

tiền tệ, đòi hỏi các ngân hàng khi cấp tín dụng phải dựa trên cơ sở tài sản thế
chấp hợp pháp và có các tài sản khác có giá trị tương đương. Các giá trị tương
đương làm bảo đảm có thể là tài sản cố định, vật tư hàng hóa trong kho hay
đang trên đương vận chuyển, các giấy tờ có giá, các quyền về tài sản.
- Nguyên tắc thứ ba: cho vay phải hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian
nhất định. Đây là nguyên tắc thể hiện tính đặc trưng của tín dụng ngân hàng,
đòi hỏi các khoản tiền ngân hàng cho vay sau khi đã sử dụng vào mục đích

của người vay phải được hoàn trả cho ngân hàng theo đúng thời hạn đã thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng cả vốn, lãi vay và các chi phí.
 Rủi ro tín dụng
 Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là toàn bộ rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ
hoạt động nào của ngân hàng, đem đến cho ngân hàng những khó khăn nhất
định trong quá trình hoạt động, thậm chí làm cho ngân hàng lâm vào tình trạng
khó khăn dẫn tới phá sản.
“RRTD là rủi ro phát sinh khi ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và
lãi của khoản vay hay nói cách khác là rủi ro khi một bên (khách hàng) không
thực hiện một nghĩa vụ tài chính với một bên (ngân hàng)”.
RRTD không chỉ giới hạn trong hoạt động cho vay mà còn chịu tác động
gián tiếp của các hoạt động khác như hoạt động huy động, hoạt động bảo lãnh,
hoạt động tài trợ thương mại, cho thuê tài chính.
Hiện nay, theo quy định các khoản tín dụng được chia thành 5 nhóm để dễ
dàng phân loại RRTD (hay còn gọi là xếp hạng tín dụng):

* Nhóm I: Đạt tiêu chuẩn hoặc bình thường (Standard or Pass loans):
Đó là những khoản vay không có dấu hiệu rủi ro, tất cả các chỉ tiêu đánh giá cho
món vay được coi là tốt. Khoản vay được đảm bảo đầy đủ cả gốc và lãi bằng tiền
hoặc giá trị thay thế tiền như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu kho bạc.
* Nhóm II: Cần quan tâm hoặc cảnh giác (Specially mentioned or

Watch loans): Đó là những khoản vay có dấu hiệu rủi ro tiềm ẩn, tuy nhiên
chưa có nguy cơ rủi ro nhiều. Đối với những khoản vay này ngân hàng phải có
những biện pháp phòng ngừa kịp thời vì nếu không có biện pháp đốc thúc hợp lý
thì món vay thuộc nhóm này sẽ là nợ xấu cho ngân hàng.
* Nhóm III: Dưới chuẩn (Substandard loans) : Các nhóm vay thuộc
nhóm này là nợ xấu, khách hàng có biểu hiện là không có khả năng trả nợ. Việc
trả nợ không theo đúng cam kết mà ngân hàng đã phải tìm đến biện pháp là thực
hiện phát mại tài sản để thu hồi nợ.
* Nhóm IV: Khó đòi (Doubtful loans): Đây là những khoản vay mà có
khả năng mang lại tổn thất rất lớn đối với ngân hàng.
* Nhóm V: Tổn thất tín dụng (Loss loans): Bao gồm các khoản tín dụng
không thu hồi được cả gốc lẫn lãi. TSBĐ thuộc nhóm này là không thể thu hồi
hay có thì rất thấp.
Ở Việt Nam, theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định về việc
phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng
của TCTD có quy định ít nhất mỗi quý một lần, trong thời hạn 15 ngày làm việc
đầu tiên của tháng tiếp theo, TCTD phải tiến hành phân loại nợ gốc, riêng đối
với quý IV, việc này sẽ được thực hiện trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên
của tháng 12. Quyết định cũng nêu rõ, trong thời gian tối đa 3 năm, kể từ ngày
quy định có hiệu lực, TCTD phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
để hỗ trợ cho việc phân loại nợ. Nợ được phân loại thành 5 nhóm như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); Nhóm 2 (Nợ cần chú ý); Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu
chuẩn); Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ); Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).
 Quan hệ giữa RRTD với các rủi ro trong kinh doanh NHTM
Hoạt động ngân hàng là hoạt động trên lĩnh vực rủi ro, vì vậy hoạt động
ngân hàng vỗn dĩ đã hàm chứa nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro tín dụng là rủi ro
lớn nhất. Xét về quan hệ rủi ro tín dụng với các rủi ro khác trong hoạt động ngân
hàng, thì bản thân rủi ro tín dụng lại không hoàn toàn độc lập mà nó tác động

qua lại với các rủi ro khác như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản,…

có thể rủi ro này là tiền đề của rủi ro khác, nguyên nhân của nguyên nhân. Do
vậy, khi đề cập đến rủi ro tín dụng mà không đề cập đến các rủi ro khác sẽ là thiếu
toàn diện, khuyết thiếu trong nhận thức, thiếu đi tầm nhìn tổng thể và sẽ làm các
biện pháp quản lý rủi ro trong thực tế kém đi hiệu quả.
Sơ đồ 1.1. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng
(chèn lại sơ đồ này trong phụ lục đính kèm)
Nguồn: Greuning, H. và S.B Bratanovic (2003)

 Đặc điểm rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc
điểm của rủi ro tín dụng là cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc
điểm cơ bản sau:
Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi
khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; Hay
nói cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là
nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu
hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín
dụng, do đặc trưng của ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ.
Do đó, khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu
rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem
lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Rủi ro tín dụng có tính tất yếu, tức luôn tồn tại và gằn liền với hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại: Tình trạng thông tin không cân
xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một
cách toàn diện, đầy đủ. Điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn
rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro
ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
 Phân loại rủi ro tín dụng

Có nhiều cách phân loại RRTD, việc phân loại RRTD tùy thuộc vào
mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại
RRTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, quy
trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận
biết đầy đủ các yếu tổ gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các
bộ phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp tín
dụng giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình
thường. Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể
sẽ giúp cho quá trình quản lý RRTD có hiệu quả.
 Căn cứ theo mức độ tổn thất chia làm hai nhóm:
Rủi ro đọng vốn: là rủi ro xảy ra trong trường hợp đến thời hạn mà
ngân hàng vẫn chưa thu hồi vốn vay, dẫn đến các khoản vốn bị đông cứng,
kém lỏng và ảnh hưởng đến ngân hàng trên hai phương diện: (i) ảnh hưởng

đến kế hoách sử dụng vốn của ngân hàng; (ii) gặp khó khăn trong việc thanh
toán cho khách hàng.
Rủi ro mất vốn: là rủi ro khi người vay không có khả năng trả được
theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, ngân hàng chỉ trông chờ vào
giá trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro mất vốn sẽ làm: (i) tăng chi
phí quản lý và chi phí giám sát do nợ khó đòi tăng; (ii) làm giảm lợi nhuận do
các khoản dự phòng gia tăng cho những khoản vốn mất đi.
 Căn cứ theo đối tượng sử dụng, có thể chia làm ba nhóm:
Rủi ro khách hàng cá thể: là RRTD xảy ra đối với đối tượng khách
hàng là cá nhân;
Rủi ro công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính: là RRTD xảy ra đối
với khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế, định chế tài chính;
Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Là RRTD xảy ra đối với từng quốc
gia đối với hoạt động vay nợ, viện trợ.
 Căn cứ theo nội dung quản lý tín dụng, RRTD được chia làm hai loại: rủi ro
giao dịch và rủi ro danh mục:

Rủi ro giao dịch: là một rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do hạn chế
trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro
giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm, rủi ro nghiệp vụ;
Rủi ro danh mục: là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn
chế trong quá trình quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân
thành rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
 Căn cứ vào giai đoạn phát sinh rủi ro, chia làm ba nhóm:
Rủi ro trước khi cho vay: Rủi ro do ngân hàng đánh giá, phân tích sai
về khách hàng dẫn đến cho vay khách hàng không đủ điều kiện bảo đảm khả
năng trả nợ trong tương lai;
Rủi ro trong khi cho vay: Rủi ro xảy ra trong quy trình cấp tín dụng.
Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro này bao gồm: (i) việc giải ngân không đúng
tiến độ; (ii) không cập nhật thông tin khách hàng thường xuyên; (iii) không
dự báo được rủi ro tiềm năng;
Rủi ro sau khi cho vay: Rủi ro này xảy ra khi mà cán bộ tín dụng không nắm
được tình hình sử dụng vốn vay, khả năng tài chính trong tương lai của khách hàng.
 Căn cứ vào phạm vi của RRTD, chia làm hai nhóm: RRTD cá biệt và RRTD
hệ thống;
 Các loại rủi ro khác:
- Rủi ro do khâu quản lý, kiểm tra của NHNN: rủi ro này xảy ra do NHNN
không kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản về an toàn vốn,

trích dự phòng rủi ro, tài sản thế chấp, quy chế hoạt động của bộ máy kiểm
tra, kiểm soát thông tin tín dụng.
- Rủi ro do cơ chế chính sách của Nhà nước: do chế độ chính sách thiếu đồng
bộ, chính trị không ổn định, chế độ, pháp luật thay đổi…
- Rủi ro do sự đánh giá thiếu khách quan, thiếu chính xác của cơ quan công
chứng đối với tài sản thế chấp, do bị sức ép của cấp trên.
 Các nguyên nhân và tác động của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng thường bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan và

nguyên nhân chủ quan.
A/ Các nguyên nhân khách quan
 Nguyên nhân từ môi trường chính trị và pháp lý
Môi trường chính trị có tác động nhiều đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Tình hình chính trị xã hội không ổn định thì không chỉ riêng các
khách hàng sản xuất mà cả các ngân hàng cũng khó có thể yên tâm tập trung
vào đầu tư, mở rộng kinh doanh, đặc biệt là mở rộng tín dụng. Hơn nữa, sự
bất ổn về chính trị xã hội sẽ dẫn đến sự mất lòng tin của dân chúng cũng như
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
Môi trường pháp lý cũng có ảnh hướng quan trọng đến quá trình quản
lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Xác lập một khuôn khổ pháp lý đồng bộ,
nhất quán điều chỉnh các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường được
xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả. Do
vậy, nhân tố pháp lý có vị trí rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của
ngân hàng. Nhân tố pháp lý còn thể hiện qua các quy định của Nhà nước về
hoạt động Ngân hàng nói chung và các quy định về đảm bảo an toàn tín dụng
nói riêng. Các quy định phù hợp sẽ tạo điều kiện phát triển ngân hàng nói
chung và đảm bảo an toàn tín dụng nói riêng. Ngược lại, nếu các quy định
không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển sự phát triển của hoạt động ngân
hàng, trong đó bao gồm cả việc ảnh hưởng đến mức độ an toàn trong các hoạt
động của ngân hàng.
 Nguyên nhân từ môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế được phản ánh qua chu kỳ kinh tế, các chính sách
kinh tế vĩ mô từng thời kỳ và tác động của xu thế toàn cầu hóa, cụ thể:
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động đến hoạt động ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Khi nền kinh tế tăng trưởng và ổn định
thì hoạt động tín dụng sẽ tăng trưởng và ít rủi ro hơn. Ngược lại, khi nền kinh
tế suy thoái và khủng hoảng thì hoạt động tín dụng gặp khó khăn và rủi ro


cao. Trong thời kỳ nền kinh tế phát triển với tốc độ thấp, biểu hiện tính suy
thoái, sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thu hẹp, không hiệu quả, gặp
nhiều khó khăn, nhiều khách hàng bị thua lỗ và bị phá sản. Trong tình hình
này, nếu ngân hàng vẫn tiếp tục tăng trưởng tín dụng ở mức cao thì nguy cơ
ngân hàng không thu hồi được nợ sẽ tăng lên.
Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ thông qua những quy định như
thuế, chính sách xuất nhập khẩu… sẽ gián tiếp gây ảnh hưởng đến hoạt động
tín dụng. Bởi các chính sách này tác động trực tiếp lên hoạt động kinh doanh
của khách hàng của ngân hàng. Khi Chính phủ có những chính sách ưu đãi
như giảm thuế, bảo hộ hàng sản xuất trong nước của một ngành nào đó bằng
cách đề ra hạn ngạch xuất khẩu hoặc cấm nhập hay đánh thuế cao mặt hàng
tương tự nhập khẩu từ nước ngoài hoặc ngược lại, đưa ra chính sách giữ giá
hay phá giá đồng nội tệ thì cũng gián tiếp gây ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng. Một đất nước mà chính sách kinh tế thường xuyên thay đổi, khó dự
đoán sẽ tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của khách hàng và ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ của khách hàng đối với ngân hàng.
Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới, vì vậy sự
biến động tình hình kinh tế, chính trị xã hội nước ngoài cũng ảnh hưởng tới
đời sống kinh tế, chính trị xã hội ở trong nước, từ đó ảnh hưởng đến hoạt
động các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng. Các doanh nghiệp
cũng như ngân hàng đều phải nắm bắt xu hướng phát triển của nền kinh tế
khu vực và thế giới, cũng như những ảnh hưởng của nó đến hoạt động kinh
doanh trong nước cũng như đối với mỗi khách hàng để có những bước đi, kế
hoạch đổi mới phát triển cho phù hợp. Việc thụ động với xu hướng phát triển
toàn cầu sẽ làm cho khách hàng bị tụt hậu, không đạt được hiệu quả kinh
doanh, không cạnh tranh được trên thị trường.
 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn:
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm
này thành hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.

Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự
đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai môc
đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều
người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính

toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng
là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt
được môc đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài
chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ
đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng
và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có
những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân
hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng vay vốn
làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, như:
thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách
xuất nhập khẩu, thuế quan…) nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng và
khách hàng.
Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến
khách hàng vay vốn cũng như ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó
khăn cho người vay vốn. Nhiều khách hàng vay vốn với bản lĩnh của mình có
khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục khó khăn. Có những trường hợp
khách hàng vay vốn bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng
đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết khách hàng bị tổn thất bởi những
nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả năng trả nợ suy giảm, thậm chí

không có khả năng trả nợ.
B/ Các nguyên nhân chủ quan
 Do chính sách tín dụng của ngân hàng
Rủi ro do chính sách cho vay: chính sách tín dụng không minh bạch
làm cho hoạt động tín dụng lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng
đối tượng, tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn có những hành vi vi phạm
hợp đồng và pháp luật của Nhà nước.
 Do những yếu kém của cán bộ tín dụng
Rủi ro do cán bộ tín dụng tính toán không chính xác hiệu quả đầu tư dự
án xin vay. Cán bộ tín dụng không nắm rõ đặc điểm của ngành mà mình đang
cho vay, hoặc do chính cán bộ cố ý cho vay, dù đã tính toán toán được dự án

xin vay không có hiệu quả, tính khả thi thấp, điều này sẽ gây ra rủi ro lớn cho
ngân hàng.
Rủi ro do ngân hàng đánh giá chưa đúng mức khoản về khoản vay, về
người vay, chủ quan tin tưởng vào khách hàng thân thiết, coi nhẹ khâu kiểm
tra tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ.
Một số vụ án kinh tế trong thời gian qua có liên quan đến cán bộ tín
dụng đều có sự tiếp tay của một số cán bộ tín dụng cùng với khách hàng làm
giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản đảm bảo, cầm cố quá cao so với thực tế để
rút tiền ngân hàng.
Đạo đức cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn
đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng
được nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghề nghiệp
chuyên môn là vô cùng nguy hiểm khi được bố trị trong công tác tín dụng.
 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung quá nhiều công sức cho
việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát
đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản vay cần phải
được quản lý một cách chủ động để bảo đảm sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là

một trong những trách nhiệm quan trọng nhất cuat cán bộ tín dụng nói riêng
và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động kinh doanh của khách
hàng vay nhằm tuân thủ các điều kiện cho vay trong hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng và khách hàng; mặt khách nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh
mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM
chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do tâm lý ngại làm phiền
hà đến khách hàng của cán bộ tín dụng, một phần do hệ thống thông tin quản
lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được
kịp thời, đầy đủ được các thông tin mà NHTM yêu cầu.
 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn tranh tra của NHNN ở tính thời gian
vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của
người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với
công việc kinh doanh. Nhưng thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ
của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải
được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao nhanh đi
với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho

cỗ xe này đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn tồn tại thường trực trên con
đường trước mắt.
 Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu
quả.
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt, đi huy động vốn để cho
vay, hay nói cách khác là đi vay để cho vay nên vấn đề rủi ro trong hoạt động
tín dụng là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, các ngân hàng cần phải hợp
tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu
quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng, khi khách hàng vay này vay tiền
tại nhiều ngân hàng khác nhau. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của
khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự trao đổi
thiếu thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng

đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không
chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM gay gắt như hiện nay, vai
trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
để các NHTM có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân
hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được
cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân khác nhau:
khách quan và chủ quan. Phụ thuộc phần lớn vào năng lực của các bộ phận tín
dụng, chức năng quản lý của ngân hàng, khách hàng, các cơ chế chính sách
của ngân hàng và nhà nước. Các biện pháp phòng chống và hạn chế rủi ro đều
đang nằm trong tầm tay của các NHTM, nhưng cũng có những biện pháp
thuộc về bí kíp riêng của mỗi ngân hàng và các nhà quản lý.
C/ Tác động của rủi ro tín dụng
 Giảm lợi nhuận của ngân hàng
Khi RRTD xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó đòi, sự ứ đọng vốn
dẫn đến giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Mặt khác, khi có quá nhiều các
khoản nợ khó đòi hoặc không thu hồi được sẽ phát sinh các khoản chi phí
quản lý, giảm sát, thu nợ…các chi phí này cao hơn khoản thu nhập từ việc
tăng lãi suất nợ quá hạn, vì đây chính là những khoản thu nhập ảo, một trong
những biện pháp xử lý của ngân hàng, thực tế ngân hàng rất khó có thể thu
hồi đầy đủ chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền
huy động trong khi một bộ phận tài sản của ngân hàng không thu hồi được lãi

cũng như không chuyển được thành tiền cho người khác vay và thu lãi. Kết
quả là lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm sút.
 Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền
gửi; cho vay, đầu tư mới…) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc
và lãi cho vay…) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các hợp đồng vay

không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sẽ dẫn đến sự không
cân đối giữa hai dòng tiền. Một thực tế xảy ra, các khoản tiền gửi tiết kiệm
của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay
của của khách hàng lại không hoàn trả đúng hạn. Nếu ngân hàng không đi vay
hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy
yếu, gặp phải vấn đề lớn trong rủi ro thanh khoản.
 Giảm uy tín của ngân hàng
Tình trạng mắt khả năng chi trả tái diễn nhiều lần, hay những thông tin
về RRTD của ngân hàng bị rò rỉ, tiết lộ ra công chúng thì uy tín của ngân
hàng trên thị trường sẽ bị giảm sút. Đây là cơ hội tốt cho các đối thủ cạnh
tranh giành giật lấy thị trường và khách hàng.
 Phá sản ngân hàng
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn
trả, nhất là các khoản vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động
tài chính của chính các NHTM. Khi ngân hàng không chuẩn bị trước các
phương án dự phòng, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút vốn quá lớn, sẽ
nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.
 Quản lý rủi ro tín dụng
 Khái niệm Quản lý rủi ro tín dụng
Tùy theo từng quan điểm, khái niệm Quản lý rủi ro tín dụng được định
nghĩa theo nhiều cách khác nhau song đều toát lên một số điểm chung:
- Thứ nhất: Quản lý RRTD là một quá trình tổng thể gồm nhiều giai đoạn,
nhiều nội dung nhưng những nội dung đó phải thống nhất với nhau và đều
hướng đến mục tiêu chung.
- Thứ hai: Quá trình quản lý RRTD được bắt đầu bằng việc nhận diện (hoặc
xác định) rủi ro thông qua các dấu hiệu rủi ro.
- Thứ ba: Mục định của quá trình quản lý RRTD đều nhằm hạn chế đến mức tối
đa có thể những tác động của RRTD.
Tóm lại, tùy vào từng góc nhìn dựa trên các phương diện khác nhau mà
các chuyên gia có những quan niệm về khái niệm Quản lý RRTD khác nhau,

ta có thể diễn giải khái niệm như sau:

Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình sử dụng một hệ thống các biện
pháp như hoạch định, thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh
doanh tín dụng…nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể
chấp nhận.
 Sự cần thiết phải thực hiện công tác quản lý rủi ro tín dụng
Đối với NHTM, hoạt động tín dụng vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ các hoạt động của ngân hàng, rủi ro tín dụng là rủi ro chủ yếu mà các
ngân hàng luôn phải đối mặt. Khi rủi ro tín dụng xảy ra không những gây ra
tổn thất về tài chính mà còn gây ra những tổn thất về uy tín, vị thế và hình
ảnh. Thêm vào đó, đôi khi rủi ro tín dụng còn gây ra những hậu quả bất lợi
đối với cả hệ thống ngân hàng, nền kinh tế trong nước, thậm chí đối với nền
kinh tế toàn cầu. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng là sự cần thiết khách quan vì:
Trong hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng vẫn đang là hoạt động
quan trọng nhất ~ 60% - 90% toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Vì thế, các
rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới ngân hàng, thông thường rủi ro tín dụng
chiếm khoảng 90% các rủi ro cơ bản. Hạn chế rủi ro tín dụng sẽ giúp ngân
hàng tránh hoặc giảm thiểu mức độ ảnh hưởng do hậu quả của rủi ro tín dụng:
mất cân đối thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, chi phí tăng do phải tìm
nguồn thanh toán cho khách hàng tiền gửi và đôi khi phải đối mặt với rủi ro
thanh khoản, nếu không thu hồi được nợ thì nguồn vốn ngân hàng khi đó sẽ bị
thất thoát, lợi nhuận bị suy giảm và nghiêm trọng hơn là sẽ bị phá sản.
Với các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng hợp lý, ngân hàng cho vay
không chỉ đảm bảo an toàn hoạt động cho bản thân mà còn góp phần đảm bảo
an toàn hoạt động cho toàn hệ thống ngân hàng. Bởi khi có một ngân hàng
thực hiện công tác hạn chế rủi ro tín dụng kém và gặp rủi ro tín dụng dẫn đến
mất khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ gây tâm lý sợ mất tiền đối với
khách hàng tiền gửi, họ sẽ ồ ạt đến các ngân hàng khác rút tiền, Nếu không có
biện pháp giải quyết kịp thời của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước thì các

ngân hàng khác không thể tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng là kênh dẫn vốn thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Nếu ngân hàng gặp rủi ro và bị phá sản thì sẽ ảnh hưởng xấu đến
toàn hệ thống ngân hàng và tất yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp: doanh nghiệp không có tiền thanh toán nguyên vật
liệu, nhân công; sản xuất bị đình trệ, thất nghiệp gia tăng, giá cả tăng, an ninh
– xã hội mất ổn định… Vì thế, hạn chế rủi ro tín dụng hiệu quả không chỉ có
ý nghĩa đối với ngân hàng cho vay, hệ thống ngân hàng mà còn ý nghĩa đối

với cả nền kinh tế trong nước: góp phần vào sự phát triển ổn định của nền
kinh tế.
 Quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Quá trình quản lý rủi ro tín dụng gồm rất nhiều công việc khác nhau,
song có thể chia thành 4 nội dung chính sau: Nhận biết rủi ro tín dụng
(Identify); Đo lường và đánh giá rủi ro (Measure and Evalute ); Ứng phó
rủi ro; Kiểm soát rủi ro (Control). Mặc dù có sự phân đoạn trong quy trình
quản lý rủi ro song có một nguyên tắc mang tính xuyên suốt là các khâu được
phân ra trong quy trình phải luôn có sự liên kết gắn bó với nhau, tạo thành
một chu trình liên tục, có vậy mới bảo đảm kiểm soát được rủi ro theo mục
tiêu đã định.
 Nhận biết rủi ro
Đây là việc làm của bản thân ngân hàng thương mại, tuy nhiên công
việc quản lý rủi ro tín dụng sẽ được xét trên hai góc độ từ phía ngân hàng và
phía khách hàng:
a. Về phía Ngân hàng
Rủi ro tín dụng được thể hiện qua quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, nợ
quá hạn, nợ xấu, và dự phòng rủi ro. Do đó, khi các yếu tố này có xu hướng
thiên lệch như: quy mô tín dụng tăng quá nhanh vượt quá khả năng quản lý
của ngân hàng, hay cơ cấu tín dụng tập trung quá mức vào một ngành, một
lĩnh vực rủi ro, hoặc các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu có dấu hiệu vượt qua

ngưỡng cho phép, dự phòng rủi ro sử dụng hết, ngân hàng đứng trước nguy cơ
rủi ro.
b. Về phía khách hàng
Khi khách hàng có những dấu hiệu rủi ro khó có khả năng trả được nợ,
tình hình tài chính xấu, nguy cơ rủi ro sẽ xảy ra. Lúc đó, ngân hàng cần nhận
biết được khả năng xảy ra để ra quyết định kịp thời.
Do đó, để nhận biết được rủi ro, những công việc mà ngân hàng cần
phải làm là:
• Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: để nhận biết những rủi ro về quy mô
tín dụng, cơ cấu tín dụng về ngành, về loại tiền. Cần kết hợp với dự báo về kinh tế
vĩ mô để đánh giá rủi roc hung của toàn bộ danh mục tín dụng.
• Phân tích, đánh giá khách hàng:
Phân tích, đánh giá khách hàng nhằm phát hiện các nguy cơ rủi ro trong
từng khách hàng, từng khoản nợ cụ thể.

Phân tích, đánh giá khách hàng được thể hiện từ khi bắt đầu tiếp xúc
khách hàng, phân tích trong quá trình cho vay và phân tích sau khi cho vay.
 Đo lường và đánh giá rủi ro
Đo lường rủi ro là bước tiếp theo sau khi phát hiện được có nguy cơ rủi
ro. Phương pháp được các ngân hàng sử dụng để đo lường và đánh giá RRTD
có thể là phương pháp định tính hoặc phương pháp định lượng hoặc kết hợp
cả định tính và định lượng.
 Phương pháp định tính
Các phương pháp đo lường, đánh giá định tính phổ biến là phân tích tín
dụng cổ điển và phương pháp sử dụng ý kiến chuyên gia.
Trong phương pháp phân tích tín dụng cổ điển, ngân hàng phải thực
hiện việc phân tích, đánh giá năng lực của khách hàng thông qua các chỉ tiêu
tài chính (cơ cấu vốn và tài khoản; khả năng thanh toán; khả năng sinh lời;
hiệu suất sử dụng vốn ) và chỉ tiêu phi tài chính (môi trường hoạt động; năng
lực sản xuất; năng lực quản lý của doanh nghiệp). Việc đánh giá các chỉ tiêu

này có thể được thực hiện thông qua một số mô hình đánh giá RRTD thông
dụng, chẳng hạn :
 Mô hình 6C.
Mô hình 6 Cdùng để đánh giá tư cách người vay (Character), năng lực
tài chính (Capacity), khả năng tạo ra thu nhập (Cash), tài sản đảm bảo
(Collateral), điều kiện (Conditions) và kiểm soát (Control).
Sơ đồ1.2. Mô hình 6C trong đo lường rủi ro tín dụng

Cán bộ tín dụng phân tích tín dụng để quyết định có cấp tín dụng hay
không dựa vào 6 tiêu về khách hàng (gọi là quy tắc 6C)
- Tư cách người vay (character): Đánh giá chất lượng tín dụng dựa vào
tư cách đạo đức, tiếng tăm, tư cách pháp nhân, thiện chí của người vay trong
việc vay vốn đầu tư vào dự án. Ở mục này các cán bộ tín dụng phải làm rõ
mục đích vay vốn của khách hàng. Mục đích vay vốn có hợp với chính sách
tín dụng mà ngân hàng đang áp dụng hiện nay hay không. Đồng thời xem xét
tư cách khách hàng: lịch sử quan hệ tín dụng, trả nợ của khách hàng, nếu
khách hàng có các khoản nợ xấu, trốn nợ tại các tổ chức tín dụng khác, cán bộ
tín dụng phải xem xét kỹ và có thể từ chối cho vay.
- Dòng tiền (Cashflow): Trước tiên phải xem xét tình hình tài chính đã
qua của doanh nghiệp: thu nhập, tình hình phân chia cổ tức, doanh thu, chi
phí, tình thanh khoản… Tiếp theo cần xác định dòng tiền vào của dự án vay
vốn, tỉ lệ đóng góp giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay, nguồn trả nợ: từ doanh
thu thu được hay từ bán hàng thanh lý hay từ đầu tư vào công ty con, công ty
liên kết. Sau đó phân tích các chỉ tiêu tài chính của dự án đầu tư. Khi xem xét
khả năng trả nợ của dự án đầu tư nên xem xét về nguồn vốn thu được từ
doanh thu bán hàng vì đây là nguồn vốn thường xuyên, ổn định để đảm bảo
khả năng trả nợ.

- Năng lực của người vay (Capacity): Tùy thuộc vào quy định pháp
luật của mỗi quốc gia, đối với cá nhân phải có đủ năng lực hành vi dân sự: cá

nhân phải đủ 18 tuổi, doanh nghiệp phải có đầy đủ hồ sơ pháp lý như giấy
phép kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp mới được phép ký kết
hợp đồng. Ngoài ra cán bộ tín dụng cần xem xét quá trình hoạt động của
doanh nghiệp tới thời điểm hiện tại, cơ cấu sở hữu, khách hàng chính, người
cung cấp chính của doanh nghiệp.
- Tài sản đảm bảo (Collateral): Đây là nguồn thu nợ thứ hai của ngân
hàng khi nguồn thu nợ thứ nhất không có, tức là khi khách hàng không tạo ra
nguồn tiền để trả nợ cho ngân hàng. Tài sản đảm bảo có thể là tài sản tự có
của khách hàng vay vốn hoặc tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay. Ngân
hàng cần xem xét tài sản bảo đảm về mặt giá trị; khả năng bị lỗi thời, mất giá;
mức độ chuyên biệt của tài sản; tình trạng đã cầm cố, thế chấp của tài sản;
tình trạng bảo hiểm; khả năng của ngân hàng trong việc đòi cầm cố, thế chấp,
phát mại tái sản…Trong trường hợp vay tín chấp, bảo lãnh, cần xem xét tư
cách, khả năng tài chính, uy tín của người bảo lãnh,…
- Các điều kiện (Condition): Ngân hàng quy định các điều kiện vay vốn
tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ; chu kì kinh tế; các chính sách
của NHTW và Chính phủ; địa vị cạnh tranh hiện tại của khách hàng, mức độ
nhạy cảm của khách hàng đối với chu kì kinh tế, tương lai của ngành; các yếu
tố công nghệ, môi trường tác động tới ngành kinh doanh của khách hàng;….
- Kiểm soát (Control): Ngân hàng cần tập trung vào những vấn đề như
các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay. Yêu
cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay
không từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý để hạn chế rủi ro tín dụng.
 Mô hình CAMPARI
Mô hình CAMPARI dùng để đánh giá tư cách người vay (Character),
khả năng (Ability), lãi cho vay (Margin), mục đích vay vốn (Purpose), số tiền
vay (Amount), khả năng trả nợ (Repayment), bảo đảm đối với khoản vay
(Insurance )
 Phương phương sử dụng ý kiến chuyên gia
Trong phương pháp sử dụng ý kiến chuyên gia, ngân hàng phải thực

hiện việc thu thập ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm thông qua một
bảng câu hỏi để đánh giá về tình hình của khách hàng.


×