Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

luận văn đại học sư phạm chuyên ngành văn học cơ chế hình thành cái “tôi” chấn thương trong tiểu thuyết “Khởi sinh của cô độc” (Paul Auster)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.05 KB, 81 trang )

A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phạm trù cái “tôi” vốn luôn được xem xét trong không gian của thế giới riêng
tư, một thế giới ẩn sâu chất chứa những nỗi niềm và cá tính khu biệt. Trong văn chương,
cái “tôi”chính là cốt lõi của sự sáng tạo, là đáp số mà kẻ viết và người đọc đều muốn đi
tìm. Tuy nhiên, nhà văn trên con đường tìm kiếm và xác lập chính mình cũng cần chấp
nhận sự tạm lãng quên bản thân để đại diện cho những giá trị phổ quát và vững bền. Bởi
thế, mặc dù thuộc sở hữu của riêng mỗi cá nhân, cái “tôi” vẫn luôn cất tiếng nói đại diện
cho thời đại, cho nhân loại. Và đằng sau sự thể hiện, sự phô diễn cái “tôi” luôn là cả một
thế giới bị bỏ ngỏ. Thế giới ấy bao gồm những yếu tố đã trở thành động lực, thành cơ sở
để con người tự ý thức về mình trong mối dây liên hệ vô tận. Nghiên cứu cơ chế hình
thành cái “tôi” chính là đi truy nguyên nguồn gốc, đi tìm nguyên cớ bản chất nhất để cái
“tôi” trong tác phẩm được nảy sinh, được phát triển và hoàn thiện.
1.2. Cái “tôi” chấn thương là một trong những vấn đề nổi bật của văn chương hậu
hiện đại, là đề tài đang được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm. Cũng như phạm trù cái
“tôi”, cái “tôi” chấn thương tự mang trong mình nhiều nhân tố thúc đẩy, hình thành phức
tạp. Cốt lõi của nó là sự tổng hòa nhiều phương diện liên quan như tâm lý, văn hóa, xã
hội, văn chương. Đặc biệt, cái “tôi” chấn thương tìm thấy mình trong các hình thức văn
chương của ký ức và tự thuật. Việc nghiên cứu cái “tôi” chấn thương trong các tác phẩm
tự truyện vì thế cũng chính là con đường nhìn ra các giá trị lịch sử, văn hóa, văn chương
cũng như các vấn đề của nhân loại, của thời đại.
1.3. Paul Auster ( 1947) là một đại diện nổi bật của văn chương hậu hiện đại Mỹ.
Đồng thời, ông cũng thuộc thế hệ tiếp nối của dòng văn chương Do Thái – Mỹ (Jewish
American literature). Sau nhiều năm làm công việc phê bình và dịch thuật, ông bắt đầu sự
nghiệp viết văn bằng tiểu thuyết tự truyện đầu tay “Sự phát minh của cô độc” (The
invention of solitude). Tác phẩm đã giúp Auster để lại một ấn tượng về một nhà văn pha
trộn nhiều đặc điểm văn hóa thú vị. Đặc biệt, các yếu tố đời thường của ông được đưa
vào làm chất liệu sáng tạo tác phẩm đã tạo nên một hướng tiếp cận tiểu thuyết đầy thú vị
xuất phát từ những ảnh hưởng tâm lý, văn hóa, xã hội, xung quanh nhà văn. Nghiên cứu
1
tìm hiểu các yếu tố trong tác phẩm, trong đó có cái “tôi” - phạm trù tổng hợp những


phẩm chất văn hóa, tính cách con người Paul Auster chính là một con đường khai thác,
tìm hiểu tác phẩm một cách khá toàn diện.
1.4. Paul Auster là một tác giả hậu hiện đại dành được khá nhiều thị phần độc giả.
Tại Việt Nam, các tác phẩm mang xu hướng trinh thám của ông được chuyển ngữ và
nhận được nhiều sự quan tâm. “Sự phát minh của cô độc” (The invention of solitude) là
tác phẩm đầu tay của ông song lại đến với bạn đọc Việt muộn hơn hẳn. Tác phẩm lần đầu
được Phương Huyên chuyển ngữ với nhan đề “Khởi sinh của cô độc” nằm trong tủ sách
“Cánh cửa mở rộng” do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2013. Cuốn sách tập hợp
nhiều vấn đề về quan điểm, phong cách văn chương của Auster trong suốt sự nghiệp của
mình. Vì vậy, lựa chọn đi sâu nghiên cứu tác phẩm là một cách tiếp cận văn chương Paul
Auster, xét xem nhà văn đã bắt đầu con đường viết của mình từ đâu.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn cơ chế kiến tạo cái “tôi” chấn thương trong
tiểu thuyết tự truyện “Khởi sinh của cô độc” (Paul Auster) làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là tiểu thuyết tự truyện “Sự phát minh của
cô độc” (The invention of solitude). Chúng tôi lấy bản dịch tiếng Việt của Phương Huyên
với nhan đề “Khởi sinh của cô độc” [4] làm nguồn phân tích, khai thác chủ yếu.
Khi dịch bản của Phương Huyên được ấn hành, đã có những tranh cãi về tên nhan đề
của tác phẩm. Các tranh cãi chủ yếu xoay xung quanh việc chuyển nghĩa từ “invention”.
Theo đó, các ý kiến phản bác cách dịch của Phương Huyên chỉ ra rằng: cách dịch
“invention” thành “khởi sinh” được xem là chưa sát nghĩa về cả nghĩa gốc của từ lẫn ý
nghĩa trong tác phẩm. “Invention” trong tiếng Anh là danh từ, mang nghĩa là phát minh,
chỉ sự sáng chế, phát hiện ra một điều mới. Trong khi đó “khởi sinh” mang nghĩa sự bắt
nguồn, chỉ cội nguồn xuất phát. Mặt khác, trong tác phẩm, Paul Auster cũng luôn hàm ý cô
độc được phát minh ra trong mối dây liên kết thế giới chứ không đi truy tìm nguồn gốc của
nó. Như vậy, tên nhan đề khi dịch sang tiếng Việt nên được để là “Sự phát minh/Sáng chế
của cô độc”.
2
Ở đây, chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến rằng nhan đề theo cách dịch của Phương
Huyên là chưa thỏa đáng. Tuy nhiên, vì khóa luận này chủ yếu lấy dịch bản của Phương

Huyên làm đối tượng nghiên cứu cũng như để đảm bảo tính thống nhất và tôn trọng dịch
giả nên kể từ đây về sau, chúng tôi xin phép được giữ nguyên nhan đề “Khởi sinh của cô
độc” trong mọi trích dẫn có tên tác phẩm.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung khảo sát, phân tích, làm rõ cơ chế hình
thành cái “tôi” chấn thương trong tiểu thuyết “Khởi sinh của cô độc” (Paul Auster).
4. Lịch sử vấn đề
4.1. Nghiên cứu về cái “tôi” chấn thương trong tự truyện
Tự truyện là thể loại thu hút được khá nhiều mối quan tâm nghiên cứu. Nhất là trong
bối cảnh hậu hiện đại với sự bùng nổ của các tác phẩm có yếu tố tự thuật, ngày càng có
nhiều công trình nghiên cứu, khai thác thể loại này. Trong các mảng nghiên cứu xoay
quanh tự truyện, cái “tôi” là một phạm trù rất được quan tâm. Cùng với những chuyển biến
trong quan niệm về thể loại tự truyện, cái “tôi” tự truyện cũng mang theo một lịch sử
nghiên cứu của mình.
Trước hết, đại diện cho quan niệm xem tự truyện là một thể loại nằm ngoài lĩnh vực
văn chương là Philippe Lejune. Trong “Quy ước tự truyện” (The autobiographical pact)
[25], ông cho rằng, với thể loại tự truyện, giữa tác giả và người đọc luôn có một cam kết
ngầm rằng mọi thứ kể ra đều là sự thật. Quan niệm này đồng nghĩa với việc xem cái “tôi”
đời thực và cái “tôi” trong tác phẩm là đồng nhất. Tác giả này cũng chỉ ra nếu cam kết này
được thực hiện thì vẫn chấp nhận được một tự truyện ở ngôi số ba, thay thế cho ngôi thứ
nhất thường thấy.
Quan niệm đối lập với Philippe Lejune là quan niệm coi tự truyện là một thể loại văn
học. Hiện nay, các nghiên cứu đều thiên về hướng quan niệm này. Với việc xếp tự truyện
như một thể loại văn học giáp ranh đứng giữa những đường biên phức tạp, nghiên cứu cái
“tôi” trong tự truyện cũng mở ra nhiều hướng đi đầy triển vọng. Các nhánh, các hướng
nghiên cứu cái “tôi” tự truyện trên thế giới vô cùng đa dạng: từ lý thuyết phân tâm học, phê
bình chấn thương đến diễn ngôn tự truyện hay lý thuyết tự sự học,
3
Trong các nhánh rẽ đó, lý thuyết phê bình chấn thương có liên quan trực tiếp đến việc
nghiên cứu cái “tôi” chấn thương trong tự truyện. Lý thuyết phê bình này gắn liền với tên

tuổi của Cathy Caruth với hàng loạt các bài viết, công trình như:“ Kinh nghiệm không
được khẳng định: Chấn thương và những khả năng của lịch sử” (Unclaimed Experience:
Trauma and The Possibility of Histor), ), “Bạo lực và thời gian: những di chứng chấn
thương” (Violence and time: : Traumatic Survivals) và bài dẫn luận “Vết thương và giọng
nói (The Wound and the Voice) được in trong “Kinh nghiệm không được thừa nhận: chấn
thương, truyện kể và lịch sử” (Unclaimed Experience: Trauma, Narrative, and History)
Violence and Time,…đã nêu lên những vấn đề cốt lõi của chấn thương và văn học. Từ đó
mở đầu cho hàng loạt các nghiên cứu về cái “tôi” chấn thương trong tự truyện như:
“Những giới hạn của tự truyện: chấn thương và sự làm chứng” (The limits of
autobiography: trauma and testimony) [22] của Leigh Gilmore. Trong đó, tác giả chỉ ra
mối quan hệ giữa cái “tôi” chấn thương và hình thức tự truyện có liên quan đến việc làm
chứng. Theo đó, quá trình cái “tôi” kể lại câu chuyện của mình nhằm mục đích làm chứng
cho mình và làm chứng cho cả kẻ khác nữa.
Hay dưới góc độ của tự sự học, Amos Golberg trong “Chấn thương, tự sự và hai hình
thức của cái chết” [9] cho rằng tự sự chấn thương nhằm giúp cho chủ thể, cái “tôi” đi sâu
vào trạng thái “bị đóng khung” của vùng ký ức chấn thương, để tránh rơi vào cái chết bởi
sự biểu đạt.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu tự truyện và các vấn đề liên quan, bao gồm cả cái
“tôi” chấn thương là một hướng đi không mới. Tuy nhiên các giá trị nghiên cứu còn rất
hạn chế. Có một số bài viết, công trình đáng lưu ý như: “Tự truyện như một thể loại văn
học” của Lê Tú Anh; “Tiếng nói của “cái tôi bị chấn thương” và tính khả dụng của yếu
tố nhật ký, trinh thám trong tiểu thuyết (nhân đọc “Những ngã tư và những cột đèn của
Trần Dần) của Nguyễn Thành Thi, luận án tiến sĩ Viện văn học Việt Nam của Đỗ Hải
Ninh “Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại”
(2012),… Các lý thuyết cũng đang được tiếp nhận một cách linh hoạt. Và việc đi sâu
nghiên cứu các vấn đề xoay quanh chấn thương trong những tác phẩm mang tính tự
truyện của thế giới thì vẫn chưa có một công trình nào đáng kể.
4
4.2. Các nghiên cứu về văn chương Paul Auster và tiểu thuyết “Khởi sinh của cô
độc”.

Trên thế giới, các tác phẩm của Paul Auster đã trở thành đối tượng quen thuộc đối với
những nghiên cứu của văn chương hậu hiện đại. Cũng tương tự như nhiều tên tuổi hậu hiện
đại khác, Paul Auster được xem xét từ nhiều các góc độ nghiên cứu, tiếp cận khác nhau.
“Khởi sinh của cô độc” là tác phẩm đầu tay của Paul Auster, đồng thời là nguồn bao
chứa những đề tài, những vấn đề nổi cộm mà ông triển khai và theo đuổi trong sự nghiệp
văn chương của mình cho tới tận bây giờ. Do vậy, hầu như khi nghiên cứu về Paul Auster,
tiểu thuyết tự truyện này luôn được lấy làm đối tượng để so sánh, trích dẫn, khái quát,…
Dưới đây, chúng tôi xin tạm điểm qua các vấn đề và thành tựu nổi bật nhất trong hai
góc nhìn khi nghiên cứu về Paul Auster và tác phẩm “Khởi sinh của cô độc”. Do rào cản
về ngôn ngữ và những hạn chế về mặt tư liệu, những thống kê và nhận định của chúng tôi
chắc chắn sẽ có những giới hạn nhất định. Bởi vậy, chúng tôi cố gắng khái quát sơ lược
nhất những nét chính trong lịch sử nghiên cứu Paul Auster và tác phẩm của ông. Đồng thời,
chúng tôi cũng sẽ đưa ra những nhận định về các nghiên cứu ở Việt Nam trong từng xu
hướng và cách tiếp cận các vấn đề.
4.2.1. Paul Auster được xem xét nghiên cứu theo dòng chảy văn chương Do Thái –
Mỹ (Jewish American literature)
Xuất phát từ nguồn gốc trong tiểu sử của Paul Auster, các nhà nghiên cứu thường đặt
ông trong một mạch phát triển của lịch sử văn chương Do Thái – Mỹ. Tương tự khi nghiên
cứu các tác phẩm của nhiều tên tuổi của dòng văn học này như Saul Bellow, Jerome David
Salinger, Bernard Malamud hay Philip Roth, những vấn đề nghiên cứu trong văn chương
Paul Auster là: ám ảnh về thân phận, cuộc đời lưu vong; hành trình đi tìm căn cước; cách
ứng xử đối với nguồn gốc của mình cũng như các vấn đề liên quan đến nhân dạng, bản
ngã; sự khác biệt của Paul Auster với tư cách là một đại diện của thế hệ thứ ba trong một
gia đình gốc Do Thái, sự pha trộn tính Mỹ và tính Do Thái,…
Thành tựu nổi bật lên trong những nghiên cứu theo xu hướng này là tiểu luận mang
tên “Khát khao phải được bảo vệ bằng mọi giá: Một cách đọc hiểu “Khởi sinh của cô
độc”” (The hunger must be preserved at all cost: A reading of The invention of solitude)
5
của Derek Rubin [23] . Tiểu luận đã chỉ ra tính nước đôi trong căn cước của Paul Auster,
trở thành một trong những chỉ dấu quan trọng trong việc nghiên cứu cũng như đọc hiểu tác

phẩm “Khởi sinh của cô độc” và các tác phẩm khác của ông.
4.2.2. Paul Auster được nhìn nhận như một cây bút đại diện của các hình thức văn
chương hậu hiện đại
Nhiều năm sống tại Pháp, làm công việc dịch thuật và phê bình văn chương Pháp,
Paul Auster đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi triết học cũng như văn học hậu hiện đại Pháp. Vì
thế, các công trình nghiên cứu về ông cũng thường xoay quanh các đề tài liên quan đến các
hình thức văn chương hậu hiện đại điển hình như: tự sự mê lộ, chất trinh thám, kĩ thuật liên
văn bản, cấu trúc giải ngôn ngữ, yếu tố hư cấu trong văn bản tự thuật,…
Một số những nghiên cứu đáng kể đến là:“Những đường biên: Tự truyện và hư cấu
trong tác phẩm tự thuật hậu hiện đại” (Borderlines: Autobiography and Fiction in
Postmodern Life Writing) [21] của Gunnthórunn Gudmundsdóttir lấy tác phẩm của Paul
Auster bên cạnh những sáng tác của các tác giả hậu hiện đại khác làm đối tượng nghiên
cứu để chỉ ra mối quan hệ của kí ức, hư cấu, tiểu sử,… trong đời sống văn chương hậu hiện
đại hay bài viết“Paul Auster như là một nhà tiểu thuyết đại chúng hậu hiện đại” (Paul
Auster as a popular postmodern fiction writer) của Bent Sorensen, …
4.2.3. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các độc giả không còn xa lạ với những sáng tác của các nhà văn thuộc
dòng văn học Do Thái – Mỹ. Đặc biệt, số lượng các tác phẩm của Paul Auster được dịch
sang tiếng Việt khá nhiều và nhận được sự đón nhận khá tốt từ phía công chúng, nhất là bộ
ba tác phẩm “Bộ ba New York” (The New York Trilogy) do dịch giả Trịnh Lữ tiến hành
chuyển ngữ với tên gọi “Trần trụi với văn chương” do NXB Phụ nữ ấn hành.
Tuy vậy, các công trình nghiên cứu về dòng văn học này cũng như về Paul Auster với tư
cách như một đại diện còn rất khiêm tốn và hạn chế. Những vấn đề thường chỉ được gợi ra
hoặc điểm xuyết trong các bài giới thiệu hay phân tích tác phẩm. Có thể nói, về cách tiếp
cận Paul Auster từ góc nhìn dòng văn chương Do Thái – Mỹ chưa có bài viết hay công
trình nghiên cứu tiếng Việt nào đáng lưu ý.
6
Ngược lại với xu hướng nghiên cứu trên, hướng nghiên cứu đặt Paul Auster trong văn
chương hậu hiện đại thu hút được nhiều sự quan tâm hơn hẳn. Số lượng các bài viết, công
trình có phần nhỉnh hơn so với xu hướng thứ nhất. Có thể kể đến bài viết “Paul Auster và

Nhạc đời may rủi” của Lê Huy Bắc đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học; cuốn sách
“Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam”( Lê Huy Bắc làm chủ biên) do Nhà xuất bản Tri
thức ấn hành với hai bài viết về Paul Auster là: “Siêu hư cấu và Thành phố thủy tinh” của
Nguyễn Thị Thanh Hiếu, “Bộ ba New York của Paul Auster và tiểu thuyết phản trinh thám
trong văn học hậu hiện đại” của Đặng Thị Bích Hồng; luận văn thạc sĩ tại Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh “Tự sự mê lộ trong tiểu thuyết Paul Auster”(2011) của Võ
Thị Mỹ Lam,…
4.3. Vấn đề tiềm năng
Thông qua việc thống kê các vấn đề và thành tựu nghiên cứu trên, có thể thấy:
-Việc nghiên cứu cái “tôi” trong tự truyện mở ra nhiều hướng đi khác nhau, song
chưa có công trình nào mô tả và đi sâu nghiên cứu cơ chế thúc đẩy sự hình thành nó
trong cách nhìn tổng hợp nhiều yếu tố.
-Việc nghiên cứu Paul Auster từ nhiều góc độ mở ra nguồn khai thác đầy triển vọng
để dẫn đến sự tổng hợp thành một cơ chế kiến tạo cái “tôi” chấn thương trong tiểu
thuyết tự truyện của ông.
-Tại Việt Nam, việc tiếp nhận và nghiên cứu Paul Auster trên nhiều phương diện
còn hạn chế. Trong khi đó, các tác phẩm của ông đang được dịch thuật và ngày càng
phổ biến trong đời sống văn hóa đọc của một bộ phận không nhỏ độc giả yêu văn
chương.
Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu cái “tôi” chấn thương trong tiểu thuyết
tự truyện “Khởi sinh của cô độc” theo hướng tổng hợp các yếu tố tâm lý, lịch sử, văn hóa,
xã hội,…mặc dù hướng đi này khá phức tạp. Hướng đi này bước đầu sẽ đóng góp vào việc
hình thành nên những cơ sở tiếp nhận văn chương Paul Auster, mở rộng hơn nữa là dòng
văn chương Do Thái – Mỹ và văn học hậu hiện đại.
5. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn đề tài nghiên cứu này, mục đích của chúng tôi là:
7
-Thứ nhất: tổng hợp các yếu tố liên quan đến cái “tôi” chấn thương trong tác phẩm
của Paul Auster trên các phương diện tâm lý, lịch sử, văn hóa, văn chương,…
-Thứ hai, trên nền tổng hợp các yếu tố liên quan, tiến hành xâu chuỗi, chỉ ra cơ chế

kiến tạo cái “tôi” chấn thương trong tiểu thuyết tự truyện “Khởi sinh của cô độc”.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để xác lập một cơ chế hình thành nên cái “tôi” chấn thương trong tiểu thuyết của
Paul Auster, chúng tôi lấy các phương pháp sau làm chủ yếu:
-Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu sự kiến tạo cái “tôi” chấn thương
trong “Khởi sinh của cô độc” trên cơ sở kết hợp, tổng hòa các nghiên cứu từ các
ngành liên quan như tâm lí, văn hóa, lịch sử.
-Phương pháp tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để nhìn ra bản chất cốt lõi
của cái “tôi” của tác phẩm thông qua sự pha trộn của nhiều yếu tố tâm lý, lịch sử,
văn hóa, văn chương,…
-Phương pháp so sánh, đối chiếu: sử dụng phương pháp so sánh để xác định vị trí
của Paul Auster trong dòng chảy của văn chương Do Thái Mỹ, qua đó thấy được
những tiếp thu và biến đổi của Paul Auster trong cách ứng xử đối với nguồn gốc,
căn cước của mình so với các thế hệ trước của dòng văn chương này.
-Phương pháp phân tích văn bản và liên văn bản: phương pháp này được sử dụng để
đi sâu tìm hiểu, phân tích, cắt nghĩa những chi tiết, sự kiện cụ thể của tác phẩm
“Khởi sinh của cô độc” trong mối liên hệ tổng hợp của các trích dẫn, liên tưởng từ
các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật khác.
7. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận của chúng tôi gồm có ba chương:
Chương I: Cái “tôi” chấn thương và những mối liên hệ
Chương II: Những chiều kích của cái “tôi chấn thương
Chương III: Cái “tôi” chấn thương và những hình thức tự sự
8
NỘI DUNG
Chương I
Cái “tôi” chấn thương và những mối liên hệ
Trước khi đi vào nghiên cứu trực tiếp cơ chế kiến tạo cái “tôi” chấn thương trong
tiểu thuyết “Khởi sinh của cô độc”, trong chương này, chúng tôi sẽ giải quyết các vấn đề
lý thuyết cần thiết xoay quanh chấn thương để đi vào làm rõ cơ chế kiến tạo cái “tôi”

chấn thương trong tác phẩm của Paul Auster. Các vấn đề bao gồm: mối quan hệ giữa
chấn thương và tự truyện, sự xuất hiện của chấn thương trong văn chương Do Thái – Mỹ
và các hình thức của văn học hậu hiện đại dung nạp cái “tôi” chấn thương.
1. Chấn thương và tự truyện
1.1. Chấn thương – những điểm neo của ký ức
Thế kỷ XX đầy biến động đã chứng kiến những bước đi sai lầm của lịch sử loài
người, để lại biết bao nỗi kinh hoàng cho nhân loại. Những ký ức bám đuổi, bủa vây lấy
con người trở thành những ám ảnh về thần kinh như một trạng thái của bệnh lý. Hiện
tượng con người bị đeo bám bởi những chấn động trong quá khứ không phải chỉ là vấn đề
riêng của nhân loại thế kỷ XX, nhưng chỉ sau những thảm họa diệt vong của chủ nghĩa
phát xít, sự bùng nổ thế chiến II, sự hủy diệt của thời kì kĩ trị,… người ta mới bắt đầu đi
lý giải cội nguồn của những nhu cầu thức tỉnh mạnh mẽ, nhìn nhận lại những nỗi khổ đau
không thể chấm dứt.
Bắt đầu từ thuật ngữ “vết thương” (trauma) trong y học, có gốc nghĩa từ tiếng Hy
Lạp chỉ những tổn thương trên cơ thể con người, Sigmund Freud dưới góc độ phân tâm
học đã sử dụng nó để gọi tên cho những lỗ hổng và nỗi đau trong tinh thần. Cũng theo đó,
khi một sự kiện có tính chất đường đột và vượt quá kinh nghiệm kiểm soát của chủ thể
xảy ra, nó sẽ tiếp tục được tái hiện trong suốt quãng thời gian còn lại của cuộc đời, chi
phối từng nhận thức, hành động của con người. Hành động lặp lại dưới sự áp chế của ký
ức được gọi là “hành động về sau” (belateness).
1
1 “Belateness”: xuất phát từ khái niệm “Nächtraglichkeit”của Sigmund Freud được in trong cuốn “Dự
án cho một tâm lý học khoa học” (Project for a Scentific Spychology ) – 1985 [14]
9
Từ nghiên cứu phân tâm học về chấn thương và những lý giải về khái niệm “hành
động về sau” của S. Freud, Cathy Caruth đã mở ra một hướng phê bình mới cho văn học
của thế kỷ XX: phê bình văn học chấn thương. Hàng loạt các bài viết của bà về chấn
thương và văn học như đã bước đầu tạo dựng nền tảng lý thuyết, xác lập những khái
niệm, định nghĩa về “chấn thương” trong văn học cũng như cơ chế và trạng thái hoạt
động của nó.

Trong “Vết thương và giọng nói”(The wound and the voice), từ việc phân tích
hành động của Tancred, nhân vật chính của câu chuyện mà Tasso kể trong thiên sử thi
lãng mạn Gerusalemme Liberata, Cathy Caruth đã chỉ ra rằng: “Câu chuyện về chấn
thương, do đó, là câu chuyện về một thứ kinh nghiệm đến muộn, nó hoàn toàn không
phải là sự kể lại việc thoát ly một hiện thực – chạy trốn cái chết, hay áp lực tính quy
chiếu của chấn thương, mà đúng hơn, nó là sự chứng nhận cho cái tác động vô hạn của
chấn thương lên một cuộc đời.” [11] Như vậy, với sự quy chiếu của mình, chấn thương in
hằn dấu vết lên những không gian, thời gian khác sau điểm mốc diễn ra sự kiện gây ám
ảnh. Suốt khoảng thời gian còn lại của cuộc đời, chấn thương vẫn hiện diện như một lỗ
khoét không thể hàn gắn và lấp đầy.
Liên quan đến chấn thương và các tự sự xung quanh nó, Amos Goldberg đã đề
xuất một góc độ tiếp cận khác song vẫn cho ta thấy được sự in dấu của chấn thương trong
dòng ký ức miên man của cuộc đời con người. Trong “Chấn thương, tự sự và hai hình
thức của cái chết” (Trauma, Narrative and Two Forms of Death) [9], Goldberg chỉ ra
chấn thương giống như một điểm mốc có nguy cơ ăn mòn bản thể tự nhiên. Tại thời điểm
xảy ra chấn thương, con người đứng trước một khả năng bị “đóng khung” cuộc đời trong
những thứ kinh nghiệm tồi tệ, trong những hình thức biểu đạt mà kẻ hủy diệt muốn áp đặt
lên họ. Quãng thời gian sau chấn thương, con người ta luôn cố gắng đi tìm kiếm bản thân
trong sự chi phối bởi suy nghĩ rằng cuộc đời mình chỉ gắn liền với trải nghiệm tàn bạo mà
họ đã từng kinh qua.
Từ những phân tích về khái niệm “chấn thương” trên đây, có thể thấy rằng: Trong
chuỗi dài nối các sự kiện liên kết lại với nhau của cuộc đời một con người, chấn thương
chính là những điểm neo của dòng ký ức. Tính chất nghiêm trọng và dư chấn mạnh mẽ
10
của một ký ức nào đó sẽ mãi lưu đọng trong não bộ con người. Thực chất, chấn thương
mãi mãi ở lại trong cuộc đời của con người. Nó chiếm lấy một vị trí trong ký ức để rồi
tiếp tục di chuyển theo thời gian, quy chiếu lên những khoảng không – thời gian khác…
1.2. Hậu ký ức – những chấn thương bị giãn cách
“Chấn thương” rõ ràng luôn kéo theo những hệ quả liên lụy của nó đối với chủ
thể. Ngay tại thời điểm kết thúc sự kiện tạo tác nên “chấn thương”, con người đã phải

bước ra khỏi nó, rời bỏ nó như một hành động bắt buộc. Những di chứng liên tục tái diễn
như là một cơ chế duy trì chấn thương vĩnh viễn trong thế giới ký ức một con người. Tuy
vậy, chấn thương và những hệ lụy của nó liệu có phải chỉ đeo đuổi và ám ảnh trong cuộc
đời của một cá nhân, trong kinh nghiệm của một cá thể hay không? Vấn đề quy chiếu của
những chấn thương sẽ trả lời cho câu hỏi này.
Trong “Kinh nghiệm không được khẳng định: chấn thương và những khả năng
của lịch sử” (Unclaimed Experience: Trauma and The Possibility of Histor) [10], Caruth
thông qua việc đọc – hiểu tác phẩm “Moses và Nhất thần luận” (Moses and
Monotheism) của Sigmund Freud đã phủ nhận tính quy chiếu trực tiếp, đơn giản của một
chấn thương. Và từ câu chuyện Moses giải phóng người Do Thái thoát khỏi mảnh đất Ai
Cập được S.Freud hàm ý rằng đó vừa là sự trở về với quá khứ vừa là sự xuất phát đi tới
tương lai của tôn giáo nhất thần luận, Caruth đã đưa đến khẳng định tính quy chiếu gián
tiếp của chấn thương, mở ra những khả năng của lịch sử. Theo đó, chỉ trong và sau khi
“thời kỳ tiềm tàng” (latency)[10], thời kỳ mà hệ quả của những kinh nghiệm chưa phát
tác diễn ra, những chấn thương mới bắt đầu sự trải nghiệm của nó. Và bằng cách thức ấy,
tương lai chính là hành trình trải nghiệm của quá khứ chấn thương đã qua. Đồng thời,
Caruth cũng chỉ ra lịch sử Do Thái chính là sự chịu đựng những nỗi đau của kẻ khác
thông qua bản chất của cuộc hành trình mà người Hebrew thực hiện như là để sửa chữa
và hàn gắn chấn thương đến từ mặc cảm tội lỗi giết chết người cha nguyên thủy.
Từ sự phân tích của Caruth, ta nhận thấy một chấn thương bắt đầu hoạt động bao
giờ cũng đi kèm với sự khởi nguồn quay về quá khứ. Sự khởi nguồn này mặc dù được tái
hiện bởi những hình ảnh, sự kiện đã trôi qua song luôn diễn ra trong những phân khu
không gian - thời gian của hiện tại và tương lại. Từ đó, lịch sử bám đuổi hiện tại và tương
11
lai; con người tiếp tục sự sống bằng cách gánh chịu những tội lỗi của kẻ khác gây ra
trong quá khứ. Sự quy chiếu của chấn thương không chỉ đi kèm với sự thay đổi không
gian, thời gian mà còn kéo theo sự biến đổi trong mối dây liên hệ giữa những con người
trong chấn thương ấy. Điều này đồng nghĩa với việc ngoài chủ thể trải nghiệm trực tiếp
những chấn thương của bản thân, bao giờ cũng tồn tại một/một vài chủ thể khác liên đới
cùng những dư chấn tưởng như không thuộc về họ thông qua mối liên hệ với kẻ sở hữu

chấn thương. Lịch sử của chấn thương kéo dài nhờ sự quy chiếu của nó lên những phân
vùng khác cùng cái cách mà các chủ thể sở hữu nó liên đới, chịu đựng nỗi đau của nhau.
Để làm sáng rõ thêm tính quy chiếu của chấn thương tạo ra sự gián đoạn và sự liên
kết nỗi đau xuyên suốt lịch sử của nhân loại, ta tìm hiểu định nghĩa“hậu ký ức” mà
Marianne Hirsch trong “Thế hệ hậu ký ức” (The Generation of Postmemory) đã đưa ra
khi nói đến sự tiếp nhận chấn thương lịch sử của thế hệ thứ hai từ sau những trải nghiệm
về Holocaust như sau:
“Hậu ký ức mô tả mối liên hệ giữa thế hệ thứ hai với những trải nghiệm có
sức nặng, thường là những trải nghiệm mang tính chấn thương đã xảy ra
trước khi họ ra đời; tuy nhiên chúng vẫn được chuyển giao tới họ một cách
đầy mạnh mẽ như để cấu thành nên những ký ức theo quy luật riêng của
nó.” [24; tr.103]
Tại đây, Hirsch đã cho thấy phạm vi nằm ngoài sự biết trong ký ức của chủ thể “hậu ký
ức”. Trong dòng ký ức của thế hệ thứ hai, những trải nghiệm chấn thương không đến với
họ một cách trực tiếp. Họ bị tước đi tư cách người làm chứng vốn dĩ phải có như một
điều kiện bắt buộc để hình thành chấn thương. Những chấn thương bủa vây lấy họ dường
như nằm ngoài sự chủ động và mong muốn của bản thân. “Hậu ký ức” cho thấy khả năng
quy chiếu gián tiếp của những chấn thương, vượt ra ngoài vòng vây một cá nhân.
Sự chuyển giao thần bí của những ký ức Holocaust đến thế hệ này chính đến từ quá trình
tiếp diễn sự sống của họ dựa trên mục đích hàn gắn những mất mát mà thế hệ những
người cha, người mẹ từng gánh lấy, chịu đựng những nỗi đau trong quá khứ do tội ác
thảm họa mà kẻ khác đã gây ra cho lịch sử nhân loại.
12
“Chấn thương” và “hậu ký ức” là hai khái niệm liên quan đến nhau thông qua sự
dắt nối của những giãn cách, của những khoảng trống bỏ ngỏ. Nếu “chấn thương” là
những điểm neo trong ký ức của con người thì “hậu chấn thương/hậu ký ức” chính là nơi
những điểm neo bị giãn cách về hai mặt: một là sự giãn cách của không – thời gian, hai là
sự giãn cách của quá trình chuyển tiếp chủ thể sở hữu, chịu đựng những chấn thương.
Những nhận định, phân tích của Cathy Caruth và Marianne Hirsch đã cho thấy khả
năng tồn tại vĩnh viễn của những chấn thương lịch sử và chỉ ra khoảng cách thế hệ của

những chấn thương đó, ở đó, thế hệ sau luôn phải gánh chịu những chấn thương và tội lỗi
của thế hệ trước cũng như của tổ tiên xa xôi loài người đã phạm phải.
1.3. Tự truyện như là một hình thức của chấn thương
Trong phần này, chúng tôi sẽ không bàn luận nhiều về quá trình nghiên cứu và tìm
hiểu thể loại “tự truyện”. Chúng tôi sẽ đưa ra cách hiểu chung về khái niệm thể loại“tự
truyện” và chủ yếu chỉ ra khả năng chứa đựng những chấn thương của thể loại này.
Về khái niệm, “Từ điển Oxford dành cho người học” (Oxford advanced learner’s
dictionary) giải nghĩa “tự truyện” (autobiography) là “câuchuyện về cuộc đời của một
người, được viết bởi chính người đó” [19; tr. 85]. Còn “Từ điển thuật ngữ văn học” do
Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên đưa ra quan niệm: “Tác
phẩm văn học thuộc loại tự sự do tác giả tự viết về cuộc đời mình.”, đồng thời phân biệt
hai khái niệm “tự truyện” và “bản tự thuật về tiểu sử” [1; tr.389]. Từ hai cách giải nghĩa
trên, ta có thể đi đến thống nhất cách hiểu khái niệm này như sau: “tự truyện” là một thể
loại văn học kể về cuộc đời mình của chính tác giả, trong đó luôn tồn tại một sự hư cấu
trên cơ sở những yếu tố đời thực.
Khái niệm “tự truyện” (autobiography) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Thuật ngữ này
bao gồm ba yếu tố: auto (tự động), bio (tiểu sử), graphy (viết). Như vậy, ta có thể thấy
ngay đây là một thể loại giáp ranh, đứng giữa ranh giới tranh chấp của nhiều yếu tố.
Trước hết, yếu tố quan trọng để khu biệt “tự truyện” với thể loại khác là “tiểu
sử”. Nó đóng vai trò cung cấp những chi tiết, tình tiết để tác giả tạo ra tác phẩm của
mình. Yếu tố này liên quan mật thiết với những ký ức trong cuộc đời nhà văn.
13
Viết là một hoạt động sáng tạo ngôn từ dựa trên những xúc cảm đòi cất tiếng nói
trước hoàn cảnh cần kíp của hiện tại. Rõ ràng, khi viết, chủ thể cần làm chủ những hiểu
biết, những trải nghiệm của bản thân đã được đúc kết trong thứ gọi là kí ức. Do vậy, thể
loại văn chương nào cũng bước ra từ sâu thẳm kí ức trong trí não chủ thể viết. Suy cho
cùng, mọi hình thức văn chương cũng chỉ nhằm để chủ thể sáng tạo tự thuật bộc lộ những
xúc cảm và câu chuyện của riêng mình. Và cứ thế, văn chương xét ở một góc độ nào đó
luôn thuộc về vùng miền của ký ức.
Hình thức văn chương tự thuật có chăng khác với các hình thức khác là bởi nó sử

dụng chất liệu kí ức riêng tư trực tiếp thêu dệt nên tác phẩm, hay nói cách khác, ít nhiều
các yếu tố, sự kiện đời thực sẽ xuất hiện nguyên vẹn, tạo sự liên tưởng tức khắc với đời
thực nhà văn.
Với hai yếu tố còn lại: “tự động” và “sự viết”, “chấn thương” chính là nhân tố tác
thành nên sự viết tự động, hay chính là những tự sự mang tính tự thuật. Giữa thể loại tự
truyện và những chấn thương có một mối dây liên hệ kết nối, đó là ký ức. Tự truyện lấy
ký ức làm chất liệu, trong khi đó, chấn thương lại là một yếu tố nằm trong ký ức. Như
vậy, chấn thương cũng là một yếu tố quan trọng của tự truyện. Tính quan trọng của yếu tố
này có liên hệ trực tiếp với tính tự động. Tại sao lại tự động kể ra, viết ra những câu
chuyện trong cuộc đời mình?
Ký ức là tập hợp một chuỗi dài những sự kiện neo đọng lại trong tâm trí con
người. Nó tạo thành một động lực khiến con người luôn khao khát được giải tỏa, được cất
lên tiếng nói từ trong quá khứ từ cái nhìn của hiện tại. Khi viết về một ký ức là đồng
nghĩa rằng não bộ ta đã chọn lựa nó và tạm loại bỏ, để lại những ký ức khác ở phía sau.
Như vậy, viết về ký ức luôn gắn liền với một sự lựa chọn có lý do. Những chấn thương
làm nên lý do của sự lựa chọn đó. Những ký ức được chọn lựa sẽ luôn nằm trong vùng
kiểm soát, chi phối bởi những chấn thương. Một ký ức gây ấn tượng mạnh lưu đọng lại
trong trí nhớ với một lực trấn áp buộc nhà văn phải viết để giải tỏa, để cất tiếng nói u uất
từ trong sâu thẳm bản thể. Một ký ức đủ mạnh để thúc đẩy sự viết đó chỉ có thể là do
“chấn thương” gây ra.
14
Đối với các thể loại của tự truyện, sự viết trở thành một quá trình gồm hai giai
đoạn diễn ra song song nhau: một là sự tự đào sâu những mảng kí ức riêng tư, hai là khai
thác, kiểm nghiệm khả năng của sự viết về những kí ức đó. Việc viết tự truyện luôn buộc
nhà văn phải men theo trí nhớ của bản thân, và trong sự tuân theo lối đó, người viết thử
lửa độ hằn sâu của một kỉ niệm hay sự kiện nào đó. Điều này có nghĩa rằng trong quá
trình viết tự truyện, những kỷ niệm/sự kiện có ấn tượng, tác động mạnh mẽ sẽ chứng
minh sức mạnh của mình bằng cách chi phối sự viết của nhà văn. Những chấn thương sẽ
dần bộc lộ vị thế mạnh mẽ của mình trong hành trình tự thuật ký ức.
Trong “Chấn thương, tự sự và hai hình thức của cái chết”, Amos Goldberg nhận

định: “những câu chuyện được các nạn nhân kể lại là nơi mà chấn thương bị “đóng
khung” để nó không rơi vào hai hình thức triệt để hơn rất nhiều của cái chết – cái chết
của chủ thể nạn nhân bởi cái biểu đạt của kẻ huỷ diệt (annihilator’s signifier) và “cái
chết tượng trưng” (symbolic death) của nạn nhân” [9]. Nhận định chỉ ra vai trò quan
trọng của “tự truyện” đối với “chấn thương”. Đó là một thể loại dành cho những giãi bày
của ký ức, là nơi để con người ít nhất có được nỗ lực vượt thoát khỏi những định hình
đóng khung khắc nghiệt của cái chết.
Qua việc phân tích mối liên hệ giữa ba yếu tố của “tự truyện” trên đây, chúng tôi
thấy rằng “tự truyện” không chỉ là mảnh đất dành cho ký ức, nó còn là thể loại phù hợp
để truyền tải những chấn thương cũng như những kiểm chứng sự đóng dấu của chấn
thương lên những vùng ký ức riêng của con người. Và cũng chỉ có những chấn thương
mới có đủ khả năng thúc giục, thúc đẩy sự viết tự truyện của nhà văn.
2. Chấn thương trong văn chương Mỹ - Do Thái
Cùng với các làn sóng di cư đến nước Mỹ kể từ lần đầu tiên vào năm 1654, dân
tộc Do Thái đã mang những truyền thống, văn hóa của họ hòa nhập vào cuộc sống nơi đất
khách. Cho đến nay, người Do Thái đã đóng góp một phần không nhỏ cho những thành
tựu lớn của nước Mỹ cũng như của nhân loại. Trong văn học cũng vậy, một bộ phận lớn
các thành tựu văn chương đều do những tên tuổi nổi tiếng, lừng danh mang trong mình
chất Mỹ - Do Thái tạo dựng.
15
Dòng văn chương Do Thái – Mỹ nằm trong bộ phận văn học Do Thái nói chung,
cũng như là một yếu tố cấu thành bề dày văn hóa người Do Thái. Thực chất, dòng văn
học Do Thái – Mỹ là dòng văn học pha trộn các yếu tố văn hóa, khởi nguyên từ sự tranh
chấp bên trong căn cước của các chủ thể cầm bút. Và sự tranh chấp này thường đi kèm
với tình trạng di cư. Bởi vậy, để thấy rõ được những chấn thương trong dòng văn học này,
ta cần bắt đầu bằng việc đi tìm hiểu lịch sử của dân tộc Do Thái và sự khởi đầu của
những tranh chấp khi chủ thể Do Thái va chạm với môi trường, căn cước Mỹ.
Lịch sử dân tộc Do Thái gắn liền với sự ra đời của Do Thái giáo và được ghi chép
trong Kinh Thánh. Vùng đất Israel được xem là quê nhà của người Do Thái. Dân tộc này
định cư tại đây vào khoảng 1800 năm TCN. Sau đó, họ di chuyển sang đất Ai Cập sinh

sống. Tại đây, người Do Thái đã trở thành nô lệ cho dân Ai Cập và bị ngược đãi trong
khoảng mấy trăm năm cho đến khi xuất hiện một bậc thánh triết là Moses dẫn họ quay trở
về quê nhà. Thế nhưng vào năm 722 TCN, dân Do Thái buộc phải rời khỏi mảnh đất quê
hương mình khi Israel bị chinh phục và xâm chiếm bởi người xứ Assyria. Và bắt đầu từ
đây, dân tộc này phải chịu đựng cuộc sống tha hương đồng thời xây dựng một cộng đồng
Do Thái lưu vong. Người Do Thái trở thành những kẻ tị nạn luôn bị nghi ngờ và dòm ngó
với sự mỉa mai, cảnh giác lẫn thương cảm. Cộng đồng Do Thái di cư tiếp tục phát triển
cho tới ngày nay. Như vậy, lịch sử dân tộc Do Thái luôn gắn liền với trạng thái di dân và
lưu vong.
Tình trạng di dân bao giờ cũng bắt nguồn từ những sự kiện mang tính tranh chấp,
gây ra sự hỗn loạn, phá vỡ trật tự tại một mảnh đất nào đó, đồng thời đưa con người vào
thế phải ra đi, rời bỏ nơi chốn thân thuộc. Những điểm mốc di dân sẽ trở thành một ký
ức gắn chặt với các vấn đề di chuyển, lưu lạc, các vấn đề về thay đổi điều kiện, môi
trường, ngôn ngữ, văn hóa,… Và tại đó, những chấn thương bùng nổ. Có thể nói, các sự
kiện di dân luôn là điều kiện thuận lợi cho sự phát sinh và khơi nguồn những chấn
thương. Điều này đã tạo nên những chấn thương và mặc cảm trong văn chương của người
Do Thái.
Nhưng những chấn thương của dân tộc Do Thái cũng chính là chấn thương trong
dòng văn chương Do Thái – Mỹ không chỉ dừng lại ở mức độ xoay quanh các vấn đề cơ
16
bản của tình trạng lưu lạc, di dân do mất nước. Thực chất, những chấn thương của dân
tộc Do Thái như S.Freud đã chỉ ra trong tác phẩm “Moses và Nhất thần luận” (Moses
and Monotheism) được Cathy Caruth phân tích trong “Kinh nghiệm không được khẳng
định: chấn thương và những khả năng của lịch sử” (Unclaimed Experience: Trauma and
The Possibility of Histor) [10] luôn đến từ mặc cảm tội lỗi giết Moses hay chính là người
cha nguyên thủy. Sự đổ vỡ niềm tin, sự sợ hãi nguyên thủy trong tôn giáo Do Thái mới
chính là vấn đề thiết yếu của những chấn thương trong lịch sử và văn chương dân tộc.
Không có tài liệu nào nói rằng dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên và chắc chắn
không phải là duy nhất bị buộc rời bỏ mảnh đất quê hương của mình. Song, người Do
Thái đã khiến lịch sử vong quốc, lịch sử di cư của họ trở nên vẻ vang, khiến nỗi đau mất

nước trở thành một chấn thương điển hình được nhắc mãi cho đến tận hôm nay, đồng thời
duy trì được niềm tin về sự tái hợp của dân tộc, của đất nước lan tỏa và kéo dài bằng
chính tội lỗi, chấn thương nguyên thủy của họ.
Những chấn thương này vẫn tồn tại trong cộng đồng di dân Do Thái nhờ quy ước,
tục lệ của họ từ sau sự kiện mất nước. Mỗi năm vào ngày kỷ niệm vong quốc, những
người Do Thái còn ở lại trong đất nước, bất luận già trẻ trai gái, đều về cả tại thành
Jerusalem, ôm lấy tường thành mà khóc. Đồng thời, họ luôn nhắc tới câu nói: “Năm sau
ở Jerusalem” (Next year in Jerusalem) như một lời hứa, lời nhắc, lời hi vọng vào sự tái
hợp đất nước. Điều này cho thấy sự bám đuổi vĩnh cửu của những chấn thương trong
từng mạch máu của người Do Thái. Đồng thời cho thấy mặc cảm tội lỗi của họ và khát
khao hàn gắn, sửa chữa sai lầm vẫn không ngừng tiếp tục. Tại đây, chấn thương của
người Do Thái trở thành chấn thương chung của nhân loại: những sai lầm nguyên thủy
không thể sửa chữa đang ngày càng ngấm sâu, ăn mòn cuộc sống của loài người chúng
ta.
Văn chương Do Thái – Mỹ bởi thế cũng mang trong mình những chấn thương ấy,
những chấn thương chung của nhân loại, của dân tộc mình. Song những chấn thương
chung về mặc cảm tội lội nguyên thủy, về quá khứ mất nước đi vào dòng văn chương này
có sự biến đổi trước cuộc di dân, đổ bộ vào nước Mỹ của người Do Thái.
17
Cụm từ “Do Thái – Mỹ” xuất hiện trong văn học Mỹ lần đầu tiên gắn liền với cuộc đổ bộ
của người dân Do Thái vào đảo Ellis vào cuối thế kỷ XIX. Sau đó, những tài liệu văn
chương nói về cuộc đổ bộ này được tập hợp trong hợp tuyển “Dòng thủy triều vĩ đại”
(The Great Tide) (tên do các nhà biên soạn của “Hợp tuyển văn chương Norton” (Norton
Anthology) đặt) [29]. Và chính điều này đã dẫn đến sự phát triển ổn định của những cây
bút Do Thái – Mỹ trong sự tiến sâu vào lĩnh vực sân khấu nhạc kịch Broadway, vào thế
giới của Hollywood, vào làn sóng phổ biến của phát thanh và công nghiệp truyền hình
cũng như sự gia nhập vào dòng chính của văn chương Mỹ.
Trong “Đảo Ellis – mô tả một dự án”, Georges Perec viết:
“Mở cửa năm 1892 trên một hòn đảo nhỏ xíu rộng vài mẫu tây nằm cách Đảo
Liberty vài trăm mét, trung tâm tiếp nhận Đảo Ellis đánh dấu sự cáo chung của

một kiểu di cư hầu như là hoang loạn và khởi xướng một kiểu di cư chính thức
hoá, theo thể chế, và do đó, trở thành công nghiệp. Phần lớn chỉ ở lại đây có vài
tiếng đồng hồ; chỉ từ hai đến ba phần trăm trong số là bị đẩy lui. Tóm lại, Đảo
Ellis không gì khác hơn một nhà máy chế tạo người Mỹ, một nhà máy biến những
dân di cư thành dân nhập cư, một nhà máy kiểu Mỹ, nhanh chóng và hiệu quả như
một lò heo ở Chicago: ở đầu này dây chuyền, người ta nhét một người Ái-nhĩ-lan,
một người Do-thái ở Ukraine hay một người vùng đông nam nước Ý, ở đầu kia -
sau khi kiểm tra mắt, kiểm tra các bọc túi, chích ngừa, tẩy uế - một người Mỹ ló
ra. ” [12]
Sự mô tả này của Perec đã chỉ ra tính chất khắc nghiệt của những luật lệ kiểm
soát, máy móc hóa con người của Chính Phủ Mỹ đối với người nhập cư lúc bấy giờ.
Những ký ức về sự kiện bị Mỹ hóa này đã ăn sâu vào tâm trí những cây bút Do Thái Mỹ
để họ không ngừng thổn thức và băn khoăn khi đứng trước bi kịch phải tước bỏ bản sắc
truyền thống và hòa nhập với những thế tục trên mảnh đất sinh sống mới. Kể từ đây,
những chấn thương về một thời kỳ lưu vong, đánh đổi quyền được lưu giữ căn cước Do
Thái của mình, chấp nhận bị công nghiệp hóa để được gia nhập môi trường nước Mỹ
thực dụng bắt đầu được hình thành trong tâm trí con người.
18
Bên cạnh đó, với hàng loạt các sự kiện mang đậm tính hủy diệt của chiến tranh thế
giới II đã khiến nỗi ám ảnh khiếp sợ bị truy đuổi, bị triệt tiêu của dân tộc Do Thái từ
trong quá khứ quay trở về. Bởi thế, thế kỷ XX trở thành thế kỷ bùng nổ của những tiểu
thuyết mang đậm tính Do Thái – Mỹ gắn liền với các tên tuổi nổi tiếng như: Saul Bellow,
Bernard Malamud, J. D.Salinger,Norman Mailer, Chaim Potok và Philip Roth. Những
nhà văn này đã ghi dấu trong lịch sử văn chương Do Thái bằng những vấn đề lưu vong
hay về những đề tài liên quan đến các sự kiện như Holocaust, Nazi, thế chiến XX… được
đặt ra trong các sáng tác của mình. Thậm chí, sự kiện gây ra tác động mạnh mẽ Holocaust
đến nỗi nó đã tạo nên một nhánh trong dòng văn học Do Thái – Mỹ, được gọi là “văn
học Holocaust” (Holocaust literature).
Thế hệ nhà văn Do Thái – Mỹ ngày nay bao gồm cả Paul Auster bên cạnh những
tác giả khác như Nicole Krauss, Michael Chabon, Jonathan Safran Foer, Art Spiegelman,

… đứng trước những thay đổi của thời đại, của lịch sử vẫn đang tiếp tục đi sâu vào trăn
trở về bản sắc nước đôi giống như các tiền bối đi trước. Nhưng họ cũng cho thấy một tâm
thế sẵn sàng dung hòa tính Mỹ và tính Do Thái như một cách bảo vệ truyền thống, căn
cước, nguồn gốc của mình.
Thông qua lịch sử của dòng văn chương Do Thái – Mỹ, có thể thấy những sự kiện
chung của nhân loại, của thế giới cũng như các dấu mốc riêng trên đất nước Mỹ từ sau
thế kỷ XIX chính là điều kiện tạo nên cái “tôi” chấn thương trong những sáng tác của các
nhà văn thuộc dòng này. Đó là cái “tôi” vừa mang trong mình những tổn thương chung về
một lịch sử lưu vong từ những tội lỗi nguyên thủy của loài người, vừa mang nặng những
mặc cảm về sự truy đuổi, di cư, lưu lạc trong các sự kiện tàn sát dã man và cả những
chấn thương từ cuộc nhập cư mang đậm tính Mỹ bắt đầu bằng sự kiện diễn ra trên đảo
Ellis.
3. Cái “tôi” chấn thương trong các hình thức văn chương hậu hiện đại
Văn học hậu hiện đại đã và đang chứng kiến sự gia tăng và bùng nổ của những
tác phẩm viết về đề tài chấn thương. Đặc biêt là kể từ sau những chuyển biến lớn và
khủng khiếp của lịch sử như nạn diệt chủng của phát xít, thế chiến II,… nhu cầu nhìn lại
và đánh giá những bước đi sai lầm của lịch sử dâng cao, con người bắt đầu cất lên những
19
tiếng nói từ trong quá khứ hủy diệt, từ trong sâu thẳm những cảm giác bi đát và đau
thương. Đi cùng với cấu trúc phức tạp của những cảm thức, nỗi niềm chấn thương đó là
sự chuyển mình của các hình thức văn chương.
Sự ảnh hưởng của hai khái niệm “giải cấu trúc” (deconstruction) và “hậu hiện
đại” (postmodernism) lần lượt gắn liền với hai tên tuổi Jacques Derrida và Jean Lyotard
đã tạo nên những thay đổi lớn về tư tưởng triết học cũng như văn học. Trong văn học, bản
chất bất ổn định của “hậu hiện đại” và sự đả phá các trật tự của “giải cấu trúc” đã làm
nảy sinh những hình thức văn chương mới.
Trong khuôn khổ của một khóa luận, ở phần này chúng tôi sẽ chỉ điểm qua tính
khả dĩ của ba hình thức văn chương hậu hiện đại điển hình trong việc dung chứa những
chấn thương. Đó là ba hình thức văn chương: siêu văn bản, cấu trúc phân mảnh và kết
cấu ma trận ngôn từ.

Xuất phát là một cách thức lưu trữ và chuyển giao thông tin do “ một khoa học gia
điện toán người Mỹ có cái tên rất lạ, Vannevar Bush” [16] sáng tạo nhằm tạo ra một hệ
thống mạng lưới quản lí và sử dụng thông tin một cách hiệu quả,“siêu văn bản”
(hypertext
2
) đã trở thành một hình thức sáng tác trong văn chương vào cuối thế kỷ XX.
Hình thức này đã mở ra triển vọng về một hướng đi mới trong cách sáng tác cũng như
tiếp nhận văn học. Với “siêu văn bản”, người viết xóa bỏ tính chất tuyến tính khi sáng
tác, tạo ra một chỉnh thể được lắp ghép không trật tự bằng các mảnh, đoạn rời rạc từ
những văn bản khác. Như vậy, một “siêu văn bản” chính là một hệ thống bao gồm các bộ
phận từ nhiều nguồn văn bản, nhiều nguồn tác phẩm liên kết lại tạo thành một chỉnh thể.
Hoạt động liên kết các nguồn đó là kĩ thuật “liên văn bản”
.
Với kĩ thuật này, người viết
thu thập các trích dẫn, các mảng ngôn từ để đính ghép, đặt chúng gần nhau tạo ra sự liên
đới, móc ngoặc giữa chúng . Sự kết hợp ngẫu nhiên ấy tạo thành những lớp nghĩa riêng
đến từ sự tổng hợp hoặc nằm ngoài các lớp nghĩa của nguồn tạo tác.
2 Siêu văn bản (hypertext): thuật ngữ được đặt tên bởi Theodor H. Nelson trong những năm 60 của thế kỷ
trước, dùng để lưu hành một văn bản điện tử như một kiểu mẫu xuất bản với một kỹ thuật thông tin hoàn
toàn mới lạ, trong đó Nelson lần đầu tiên đặt nền móng và ứng dụng một lối viết phi tuyến tính.
20
Như vậy, “siêu văn bản” và cái “tôi” chấn thương có mối liên hệ gì? Thực ra, cái
“tôi” chấn thương chính là một khái niệm mang trong mình nhiều nét tương đồng với nội
hàm của khái niệm “siêu văn bản”. Dựa vào khả năng lịch sử của chấn thương đến từ
tính quy chiếu của nó lên từng phân vùng của quá khứ - hiện tại – tương lai mà chúng tôi
đã chỉ ra ở phần trên, nếu ta coi cái “tôi” chấn thương là một “siêu văn bản” thì các yếu
tố đóng vai trò là nguồn cấu thành nên nó không gì khác là những nỗi đau, sự chịu đựng
cũng như tội lỗi mà con người đã gây ra trong quá khứ. Cũng như trong quá trình sáng
tạo nên một “siêu văn bản”, trong hành trình cấu thành chấn thương, chủ thể đi góp nhặt,
nhận lấy những chấn thương từ trong quá khứ, từ trong lịch sử để tự thêu dệt nên chấn

thương riêng của mình.
Tuy nhiên, cái “tôi” chấn thương hay “siêu văn bản” đều là những khái niệm
không mang tính thực thể, vượt khỏi vòng kiểm soát của bất kỳ cấu trúc cố định nào.
Điều đó nằm ở khả năng quy chiếu đến tương lai của những chấn thương và độ rộng mở
về ý nghĩa cũng như khả năng chêm xen của mỗi “siêu văn bản”. Chính đặc điểm này đã
tạo ra sự thiếu hụt của trong chủ thể chấn thương và trong chính các sản phẩm của “siêu
văn bản”. Sự thiếu hụt ấy được giải thích bằng phân tâm học của Jacques Lacan.
3
Lacan cho rằng con người tiếp cận thế giới thông qua hệ thống từ ngữ. Trong quá trình
quan sát thế giới bằng các giác quan, thế giới bị con người cấu trúc hóa khi cảm nhận nó
bằng ngôn ngữ. Do đó thế giới“tiềm thức” (subconscious) cũng được cấu trúc, định hình
bởi lớp ngôn ngữ. Chúng ta sử dụng ngôn ngữ để hình dung và tri nhận thế giới song
luôn luôn lại có cảm giác thiếu hụt. Cảm giác nằm ngoài ngôn ngữ chính là những thiếu
hụt do việc tư duy về thế giới thông qua ngôn từ.
Quan niệm của Lacan đã chỉ ra tính chất vượt ngưỡng của những cảm xúc mà
bằng ngôn ngữ không bao giờ có thể truyền tải hết được. Tính chất vượt ngưỡng này
cũng được xem như là bản chất của những chấn thương: chủ thể luôn có những cảm giác
nằm ngoài hiện thực bởi nỗi đau vô thức phát tác và ăn sâu vào từng bước đi của thời
3 Jacques Lacan (1901 – 1989), là nhà phân tâm học và trị liệu người Pháp nổi tiếng với lý thuyết hậu
cấu trúc, phủ nhận khả năng bao chứa hiện thực của ngôn ngữ.
21
gian. Bởi vậy, bằng cách tìm đến với cấu trúc phân mảnh và kết cấu ma trận, “siêu văn
bản” và cái “tôi” chấn thương mới được đảm bảo được bao chứa một cách phù hợp.
Cấu trúc văn bản phân mảnh giúp xóa bỏ đi trật tự tuyến tính không – thời gian
giống như sự tồn tại của một chấn thương là sự đan xen của mọi chiều kích từ quá khứ,
hiện tại và tương lai đi kèm các khoảng không gian khác nhau. Đồng thời, trong các
mảnh ghép đứt gãy, chấp nối để tạo nên cấu trúc ấy, chuỗi ngôn từ sẽ được tập hợp lại
dưới hình thức kết cấu của ma trận. Những hỗn loạn, những chuyển động phá tan vòng
kiềm tỏa của hệ thống lớp nghĩa ngôn ngữ, tạo nên cái “tôi” chấn thương đầy tan tác.
Có thể nói, chấn thương đã tìm được chính mình trong những hình thức kết cấu

của văn chương hậu hiện đại. Sự tương đồng và liên quan giữa chấn thương và ba hình
thức văn chương hậu hiện đại đã cho thấy vai trò của các hình thức văn chương trong cơ
chế kiến tạo cái “tôi” chấn thương trong văn học. Nó không chỉ đơn thuần nằm trong
phạm vi của văn học – nghệ thuật mà còn liên quan mạnh mẽ đến các cơ sở về tâm lý,
cảm thức và nền văn hóa của người viết.
Tiểu kết chương I:
Như vậy, trong chương I, chúng tôi đã làm sáng tỏ những mối dây liên giữa cái
“tôi” chấn thương với thể loại tự truyện, chỉ ra tính giãn cách lịch sử của chấn thương,
khẳng định tự truyện như một thể loại tiềm năng để những chấn thương có cơ hội được
cất tiếng. Đồng thời chúng tôi đã xác định sự tồn tại của chấn thương trong dòng văn
chương Do Thái – Mỹ, chỉ ra nguồn gốc lịch sử của nó và điểm qua một số những vấn đề
chính trong sáng tác của các nhà văn thuộc dòng văn học này. Chúng tôi cũng khái quát
qua các hình thức điển hình của văn học hậu hiện đại có khả năng bao chứa cái “tôi” chấn
thương, chỉ ra sự tương hợp của chấn thương với các dạng thức văn học đó. Với kết quả
làm việc của chương này, chúng tôi bước đầu đã tạo được cơ sở lý luận để đi sâu phân
tích, tìm hiểu cơ chế kiến tạo cũng như những chiều kích của cái “tôi” tự truyện trong
tiểu thuyết “Khởi sinh của cô độc” của Paul Auster.
22
Chương II
Những chiều kích của cái “tôi” chấn thương
Trong chương này, trước khi đi sâu vào tìm hiểu cơ chế kiến tạo cái “tôi” chấn
thương trong tác phẩm, chúng tôi sẽ điểm qua những nét chung nhất về Paul Auster và tiểu
thuyết tự truyện “Khởi sinh của cô độc”. Chủ yếu chúng tôi sẽ tập trung vào những thông
tin chính, có giá trị đặc biệt trong sự nghiệp Paul Auster và những điểm khái quát cơ bản về
bố cục, nội dung của “Khởi sinh của cô độc”.
1. Paul Auster và tiểu thuyết tự truyện “Khởi sinh của cô độc”
1.1. Những nét chính về Paul Auster
Paul Auster sinh năm 1947 tại New Jersy, nước Mỹ trong một gia đình Do Thái
trung lưu gốc Ba Lan. Ông bà nội của Paul Auster di dân tới Mỹ trong thời gian diễn ra
chiến tranh thế giới thứ nhất dẫn đến sự tan rã của đế chế Áo – Hung, buộc những người

Do Thái phải di cư sang những vùng lãnh thổ khác bao gồm Mỹ và các nước ở Châu Âu.
Trong thời điểm này, nước Mỹ cũng mở cửa cho các làn sóng di cư thông qua “dự án đảo
Ellis”[12]. Ông và bà Paul Auster cũng đã nhập cư vào nước Mỹ thông qua dự án này. Như
vậy, Paul Auster là thế hệ thứ ba trong gia đình Mỹ gốc Do Thái, được nuôi dưỡng và lớn
lên trong môi trường đa văn hóa Mỹ.
Chịu ảnh hưởng từ nguồn gốc Do Thái và môi trường văn hóa Mỹ, Paul Auster
được xếp vào vị trí đại diện cho một thế hệ đang tiếp nối những truyền thống của văn
chương Do Thái – Mỹ. Trong dòng mạch văn chương này, Auster đã thể hiện được những
đặc điểm cốt lõi trong truyền thống Do Thái như các cây bút đàn anh đi trước đồng thời
cũng tự tìm cho mình những nét riêng khu biệt. Sự khu biệt này do tính Mỹ trong môi
trường sống của ông cùng những ảnh hưởng của văn hóa Pháp mà ông có thời gian gắn bó.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Columbia vào năm 1970, Paul Auster tới Pháp sinh
sống bằng nghề dịch thuật, phê bình và viết tiểu luận để kiếm sống. Sau đó, ông trở về
Mỹ vào năm 1974, tiếp tục công việc gắn bó với dịch thuật, phê bình và viết kịch bản.
Trong đời sống tri thức Pháp thời điểm mà Auster sang sinh sống, những chuyển
mình của “hoàn cảnh hậu hiện đại” đã khiến các tư tưởng triết học và văn học có sự thay
đổi lớn. Sự giao lưu tiếp xúc với văn chương Pháp đã giúp Paul Auster thấm nhuần các tư
23
tưởng hậu hiện đại. Ông tiếp nhận những thành tựu lớn của văn hóa Pháp để hình thành
nên trường kiến thức của mình để rồi vận dụng nó vào trong những sáng tác về sau này.
Sự ảnh hưởng của nền văn hóa – văn học Pháp cũng giúp Paul Auster trở thành
một đại diện lớn của văn chương hậu hiện đại. Những dấu vết về mặt tư tưởng và các
hình thức của văn học hậu hiện đại có thể dễ dàng tìm thấy trong các sáng tác của ông.
Bên cạnh những nhà văn Mỹ đi trước, trong những tác phẩm hậu hiện đại của Paul
Auster, người ta cũng tìm thấy những sự ảnh hưởng từ cây bút viết kịch và tiểu thuyết
Châu Âu, Samuel Beckett, người ông từng gặp ở Paris. Paul Auster cũng được biết đến
như là người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi phân tâm học Jacques Lacan và thuyết
tiên nghiệm của Henry David Thoreau.
1.2. Tác phẩm “Khởi sinh của cô độc”
“Khởi sinh của cô độc” được viết vào năm 1982, là tác phẩm khởi đầu sự nghiệp

viết văn của Paul Auster. Tác phẩm ra đời được đánh giá cao và bước đầu giúp Paul Auster
đã tạo được dấu ấn trên văn đàn với tư cách nhà văn sau nhiều năm làm công việc dịch
thuật và phê bình.
Tác phẩm được viết theo hình thức tự truyện hư cấu. Trong đó, rất nhiều những chi
tiết đời thực của Paul Auster được đưa vào làm chất liệu bao gồm các yếu tố trong tiểu sử,
nguồn gốc gia đình, các hoạt động, công việc dịch thuật, phê bình của ông cũng như những
trải nghiệm văn chương ông đã có.
Tiểu thuyết tự truyện này gồm hai phần:
-Phần I có tên gọi là “Chân dung một người vô hình” [4; tr. 7] được Auster kể ở
ngôi thứ nhất. Phần này, Paul Auster viết theo dòng hồi ức đan xen những kỉ niệm
về người cha quá cố.
-Phần II – “Sách của ký ức” [4; tr. 113]có sự chuyển ngôi thứ ba, “tôi” tự gọi mình
là A. và hóa thân vào trong mười ba cuốn sách do A. viết. Ở phần này, Paul Auster
viết theo cấu trúc phân mảnh, phá vỡ trật tự lý tính. Mặc dù ở phần này, Paul Auster
viết theo ngôi thứ ba song những yếu tố tự thuật vẫn in khắc rất đậm nét. Những ký
ức, chi tiết riêng xoay quanh cuộc đời thực của Auster vẫn có một vai trò quan trọng
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm.
24
Tác phẩm này ngoài việc thành công với tư cách một tiểu thuyết tự truyện, nó còn có
giá trị như một tập tiểu luận, hàm chứa những quan niệm về văn chương, thế giới cũng như
thể hiện được phong cách viết văn của Paul Auster. Có thể nói, tác phẩm giống như một
chìa khóa để mở cánh cửa thế giới văn chương Paul Auster.
2. Cái “tôi” nảy sinh từ những chấn thương lịch sử
“Freud tranh biện rằng mỗi bước phát triển của chúng ta đồng tồn tại với những
bước phát triển khác. Thậm chí khi là người trưởng thành, chúng ta vẫn chôn chặt trong
mình kí ức về cách chúng ta tiếp nhận thế giới với tư cách một đứa trẻ. Freud kết nối
những trải nghiệm về sự thần bí với sự hồi sinh của cách nhìn vào thế giới quan đầy vị
kỉ, duy linh từ thời thơ ấu.” [4; tr. 234]
2.1. Chấn thương từ những ký ức của một gia đình Do Thái
“Khi người ta quan tâm tới lịch sử gia đình, thì mọi chuyện đã đổi khác…”

4
(Nguyễn Trần Kiên)
Paul Auster mở đầu tác phẩm bằng sự kiện: cái chết của cha “tôi”. Sự ra đi đầy đột
ngột ấy đã tạo nên một động lực ngầm thúc đẩy khiến “tôi biết mình phải viết về cha” [4;
tr.9] Auster diễn tả trạng thái bản thân khi nhận được tin ấy như sau: “Sự đột ngột của cái
chết chẳng để chỗ trống cho suy nghĩ, chẳng cho tâm trí cơ hội tìm kiếm từ ngữ nào để
an ủi mình. Ta chẳng còn gì ngoài cái chết, một thực tế không thể thay đổi được trong sự
vĩnh cửu của chính ta.” [4; tr.8] Cảm giác đó về cái chết đã mở ra cho Paul con đường đi
tìm sự vĩnh cửu trong cái chết của cha mình hay cũng là của chính bản thân mình. Mối
dây liên hệ vô hình giữa cha con đã đưa Paul Auster bước vào căn phòng mà cha mình đã
sống đơn độc trong suốt mười lăm năm. Trong không gian của sự tĩnh lặng đó, mọi bí
mật đã được linh cảm, dẫn dắt rồi mở ra đầy đau đớn.
Để kết nối với những kỉ vật trong căn phòng trống của người đã khuất, nhân vật
“tôi” đã dẫn ra một sự tình cờ khi anh ta khám phá được vụ án của gia đình mình. Thông
qua một cụ già quen biết với gia đình Auster, “tôi” đã biết được sự thật rằng: “Bà nội tôi
đã giết ông nội tôi”. [4; tr.60] Vụ án được xem như là sự khởi đầu mọi chấn thương của
4 Trích lời của dịch giả Nguyễn Trần Kiên trong phần giới thiệu tiểu thuyết “Một tiểu thuyết Pháp” của
nhà văn Frédéric Beigbeder.
25

×