Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.06 KB, 34 trang )

Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
Biên tập bởi:
Nguyễn Đức Cảnh
Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
Biên tập bởi:
Nguyễn Đức Cảnh
Các tác giả:
Nguyễn Đức Cảnh
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Đặc điểm hình thành và phát triển của hợp đồng kinh tế
2. Khái quát về hợp đồng kinh tế
3. Chế độ hợp đồng kinh tế
4. Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
5. Trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng kinh tế
Tham gia đóng góp
1/32
Đặc điểm hình thành và phát triển của hợp
đồng kinh tế
Do đặc điểm của nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau mà đặc điểm hình thành và phát
triển của hợp đồng kinh tế cũng khác nhau trong các giai đoạn sau :
Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ khôi phục nền kinh tế và cải tạo xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954 - 1959)
Thời kỳ này nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế hoạt động đan xen lẫn nhau. Vì
thế, chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế được thực hiện theo nghị định số 738/TTg ngày
10/4/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về lập hợp đồng kinh
doanh, qui định mối quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh giữa các đơn vị kinh
doanh của Nhà nước, hợp tác xã, công ty hợp doanh và tư doanh.
Đặc điểm của hợp đồng kinh doanh là rất coi trọng ý chí tự do, tự nguyện, bình đẳng,
thật thà, cùng có lợi của các đương sự tham gia hợp đồng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan Nhà nước như : hợp đồng phải đăng


ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quyền huỷ bỏ hợp đồng bị hạn chế.v.v
Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung (1960 - 1974)
Là thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân đã căn bản hoàn thành. Nhà
nước chủ trương phát triển nền kinh tế theo kế hoạch , chịu sự điều hành của Nhà nước.
Vì thế, chế độ hợp đồng kinh doanh cũng được thay đổi. Điều lệ tạm thời về chế độ hợp
đồng kinh tế do Chính phủ ban hành theo Nghị định số 004/TTg ngày 4/1/1960 quy định
một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước.
Đặc điểm của điều lệ tạm thời là nhằm tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các xí
nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Coi ký kết hợp đồng kinh tế là kỷ luật Nhà
nước trong quan hệ kinh tế và chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước, đồng thời cũng không được tự ý thương lượng điều chỉnh hợp đồng
kinh tế nếu không có sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Do đó, chế độ
hợp đồng kinh tế được chia làm hai loại : hợp đồng nguyên tắc và hợp đồng cụ thể.
Bên cạnh đó, Điều lệ tạm thời - cũng qui định việc thành lập Hội đồng trọng tài với tư
cách là cơ quan tài phán Nhà nước có chức năng giải quyết các tranh chấp trong việc ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
2/32
Như vậy, chế độ hợp đồng kinh tế thường kỳ này là công cụ pháp lý của việc thực hiện
kế hoạch Nhà nước, với bản chất mang đậm yếu tố kế hoạch còn yếu tố tài sản là thứ
yếu.
Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh
tế (1975 - 1988)
Đây là thời kỳ nền kinh tế thực hiện việc quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội
chủ nghĩa. Để tương ứng với nó chính phủ đã ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh
tế kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ, qui định kiểu
hợp đồng kinh tế mới, thay thế cho bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế
trước đó.
Đặc điểm chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này là : Hợp đồng kinh tế được ký kết ngay
sau khi có sổ kiểm tra kế hoạch và sau đó được điều chỉnh lại khi Nhà nước gao chỉ tiêu

kế hoạch chính thức, việc ký kết hợp đồng kinh tế căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ
, kế hoạch hoặc văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên, bên
cạnh đó các đơn vị kinh tế còn có thể ký kết các hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp
lệnh, vì thế mà chủ thể của hợp đồng kinh tế được mở rộng hơn, thể loại hợp đồng cũng
được đa dạng hơn nhiều
Hợp đồng kinh tế trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1989
đến nay)
Sau đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế
quản lý kinh tế cũng được chuyển đổi hoàn toàn theo nền kinh tế. Chính vì thế, chế độ
hợp đồng kinh tế - cũng được chuyển đổi. Tren cơ sở đó, pháp lệnh hợp đồng kinh tế do
Hội đồng Nhà nước , thông qua ngày 25/9/1989 được ban hành.
Đặc điểm của pháp lệnh hợp đồng kinh tế gồm :
+ Hợp đồng kinh tế được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,
cùng có lợi và không trái pháp luật.
+ chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế là tất cả các pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh
doanh, ngoài ra còn được mở rộng trong một số trường hợp đặc biệt
+ Chủ thể có quyền tự quyết trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế
+ Thể loại hợp đồng kinh tế được đa dạng hoá, bên cạnh đó còn qui định một số hợp
đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt
3/32
động theo chỉ tiêu pháp lệnh Nhà nước giao và chính phủ cũng có văn bản qui định riêng
(Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng)
Như vậy, những điểm đổi mới của chế độ hợp đồng kinh tế thời kỳ này đã đáp ứng yêu
cầu của cơ chế quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chế độ hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế ngày 25/9/1989.
4/32
Khái quát về hợp đồng kinh tế

Khái niệm hợp đồng kinh tế
Trong các mối quan hệ xã hội có những quan hệ được các bên thoả thuận thiết lập nhằm
mục đích làm phát sinh những đổi thay chấm dứt quyền và nghĩa vụ - giữa các bên với
nhau. Những mối quan hệ thuộc loại này được gọi chung là quan hệ hợp đồng. Cũng
như vậy quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế được gọi là quan hệ hợp đồng kinh tế .
Trong khoa học pháp lý, hợp đồng kinh tế thường được hiểu theo hai nghĩa. Đó là nghĩa
khách quan và chủ quan.
- Theo nghĩa khách quan (tức là dưới góc độ ý chí Nhà nước ) : hợp đồng kinh tế là tổng
hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế
phát sinh trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng giữa các bên chủ thể kinh doanh với nhau
(còn gọi là chế độ hợp đồng kinh tế hay pháp luật về hợp đồng kinh tế). Chế độ hợp
đồng kinh tế của nước ta mang đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa nó bao gồm các
quy phạm pháp luật về nguyên tắc ký kết tư cách chủ thể tham gia; trình tự và thủ tục ký
kết hợp đồng kinh tế; các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng như các nguyên tắc
và nội dung thực hiện; các điều kiện và cách thức giải quyết hậu quả của việc thay đổi,
huỷ bỏ, đình chỉ và thanh lý hợp đồng kinh tế; quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc
thực hiện hợp đồng kinh tế; trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế , sự thay đổi của quan hệ kinh tế, chế độ hợp đồng
kinh tế cũng được thay đổi và phát triển.
- Theo nghĩa chủ quan (tức là theo ý chí của các bên ký kết hợp đồng) : "Hợp đồng kinh
tế là sự thoả thuận bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về thực
hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu , ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự qui định rõ ràng về
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình" (Điều 1
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989). Theo nghĩa này, hợp đồng là sự thống
nhất ý chí của các chủ thể hợp đồng kinh tế.
Như vậy, xét về thực chất hợp đồng kinh tế , cũng như các loại hợp đồng khác, đều là
sự thay đổi giữa các chủ thể về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong các quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau giữa hợp
đồng kinh tế với các loại hợp đồng khác về tư các chủ thể, mục đích, hình thức ký kết,

thực hiện
5/32
Đặc điểm hợp đồng kinh tế
Những thay đổi cơ bản trong nền kinh tế cũng như chế độ quản lý kinh tế theo sự thay
đổi những qui định của chế độ hợp đồng kinh tế để phù hợp với tình hìh diễn biến mới
trong các quan hệ kinh tế. Vì thế, những qui định của pháp luật về hợp đồng kinh tế hiện
nay có các đặc điểm để chúng ta phân biệt với những qui định hợp đồng kinh tế trước
đây. Đồng thời cũng phân biệt với các loại hợp đồng khác. Những đặc điểm đó là :
Đặc điểm về mục đích của hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm mục đích kinh doanh. Mục đích này được thể hiện
trong nội dung công việc mà các bên thoả thuận trong hợp đồng như là : thực hiện hoạt
động sản xuất , trao đổi hàng hoá, dịch vụ Điều đó có nghĩa là hợp đồng kinh tế phải
gắn với quá trình sản xuất và tái sản xuất của các chủ thể kinh doanh, trong đó ít nhất
một bên ký hợp đồng phải có mục đích kinh doanh còn bên kia có thể không có mục
đích kinh doanh nhưng không có mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt. Đặc
điểm này dùng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự, hơn nữa mục đích
kinh doanh là đặc trưng của các quan hệ kinh tế.
Đặc điểm về chủ thể hợp đồng kinh tế :
Theo Điều 2 - pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các
bên : pháp nhân với pháp nhân; pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui
định của pháp luật. Như vậy theo qui định này thì chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải
là chủ thể có điều kiện tổ chức, phải là pháp nhân và luôn phải là một bên ký kết, còn
bên kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Đặc điểm về hình thức hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế có thể ký kết dưới hình thức văn bản hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch
(như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng). Ngoài ra các bên có thể ký kết các
văn bản phụ lục hợp đồng cụ thể hoá các điều kiện trong hợp đồng hoặc biên bản bổ
sung những điều khoản mới thoả thuận vào văn bản hợp đồng. Phụ lục hợp đồng và biên

bản bổ sung có giá trị pháp lý như hợp đồng kinh tế.
Phân loại hợp đồng kinh tế
Dựa trên những căn cứ khác nhau mà hợp đồng kinh tế được phân thành nhiều loại khác
nhau.
6/32
Căn cứ và tính chất của quan hệ hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm các loại sau:
* Hợp đồng kinh tế mang tính chất đền bù :
Là loại hợp đồng mà theo đó quyền và nghĩa vụ của các bên tương xứng nhau (quyền
của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Trong quan hệ hợp đồng, một bên
có nghĩa vụ giao hàng hoá, thực hiện dịch vụ hoặc kết quả công việc đã thoả thuận, bên
kia có nghĩa vụ nhận hàng hoá hoặc kết quả đó và thanh toán tiền. Đây là loại hợp đồng
phản ánh quan hệ hàng hoá - tiền tệ với bản chất là quan hệ ngang giá và được sử dụng
trong các lĩnh vực như la trao đổi hàng hoá; vận chuyển hàng hoá
* Hợp đồng kinh tế mang tính tổ chức :
Là loại hợp đồng được xác lập trên cơ sở sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, các chủ thể kinh doanh có thể thoả thuận với nhau lập ra một cơ sở kinh tế - kỹ
thuật mới để thực hiện mục đích chung. Hợp đồng này không phản ánh quan hệ hàng
hoá tiền tệ, không mang tính chất đền bù. Các bên chủ thể có thể thoả thuận góp vật
chất, góp sức lao động để lập ra cơ sở kinh doanh mới. Song chủ thể của loại hợp đồng
này phải có tư cách pháp nhân đầy đủ. Tuỳ theo tính chất của tổ chức, hợp đồng không
chỉ có 2 bên chủ thể mà có nhiều bên cùng tham gia.
Căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng, hợp đồng kinh tế chia làm 2 loại :
* Hợp đồng kinh tế dài hạn :
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở lên nhằm thực hiện kế
hoạch dài hạn
* Hợp đồng kinh tế ngắn hạn :
Là những hợp đồng kinh tế có thời hạn thực hiện từ 1 năm trở xuống, gồm hợp đồng
năm, nửa năm, quý, tháng để thực hiện kế hoạch năm và những phần kế hoạch trong
năm.
Như vậy, tuỳ theo đối tượng của hợp đồng, tính chất của mối quan hệ, giá cả thị

trường mà các chủ thể có thể ký kết hợp đồng ngắn hạn hay dài hạn.
3.3. Căn cứ vào tính kế hoạch của hợp đồng, hợp đồng kinh tế gồm :
* Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh :
Là những hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền giao cho các doanh nghiệp Nhà nước. Việc ký kết hợp đồng
kinh tế giữa những đơn vị kinh tế được giao nhiệm vụ kế hoạch là nghĩa vụ, là kỷ luật
7/32
của Nhà nước. Hợp đồng này mang tính kế hoạch cao, vì thế, tính tự nguyện và bình
đẳng giữa các chủ thể của hợp đồng bị hạn chế. Tuy nhiên, trong cơ chế mới loại hợp
đồng này không còn được áp dụng phổ biến nữa mà chỉ những doanh nghiệp Nhà nước
hoạt động công ích mới thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao.
* Hợp đồng kinh tế thông thường :
Loại hợp đồng này được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có
lợi . Việc ký kết hợp đồng là quyền tự do ý chí của các đơn vị kinh tế , không một tổ
chức hay cá nhân nào được áp đặt ý chí của mình cho các đơn vị kinh tế khác. Trong cơ
chế mới này, loại hợp đồng này được áp dụng rất phổ biến.
Căn cứ vào nội dung giao dịch của quan hệ hợp đồng gồm:
* Hợp đồng mua bán hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao hàng hoá và quyền sở hữu đối
với hàng hoá đó cho bên mua theo đúng điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng, còn
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng. Quan hệ hợp đồng này là
quan hệ trao đổi hàng hoá, gọi là quan hệ hàng hoá - tiền tệ
* Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
Là hợp đồng mà theo đó bên vận tải hàng hoá có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá nhất
định đến địa điểm đã ấn định để giao cho bên nhận hàng, còn bên thuê vận chuyển có
nghĩa vụ trả cho bên vận tải một khoản tiền nhất định gọi là cước phí vận chuyển.
* Hợp đồng xây dựng cơ bản :
Là hợp đồng kinh tế trong đó bên nhận thầu có nghĩa vụ xây dựng và bàn giao cho bên
giao thầu toàn bộ công trình theo đúng đồ án thiết kế và thời hạn như đã thoả thuận trong
hợp đồng, còn ben giao thầu có nghĩa vụ bàn giao mặt bằng xây dựng , các bản thiết kế

và đầu tư xây dựng đúng tiến độ đồng thời có nghĩa vụ nghiệm thu công trình và thanh
toán cho bên nhận thầu. Hợp đồng này mang tính chất đền bù.
* Hợp đồng dịch vụ :
Là hợp đồng kinh tế theo đó bên cung cáp dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện hành vi nhất
định phù hợp với ngành nghề đã đăng ký để thoả mãn nhu cầu của bên thuê dịch vụ và
được hưởng khoản tiền công nhất định gọi là phí dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ có nghĩa
vụ tiếp nhận kết quả dịch vụ và thanh toán cho bên thuê dịch vụ phí như đã thoả thuận.
Tóm lại, trên đây là những hợp đồng kinh tế cụ thể được áp dụng phổ biến trong thực
tiễn đời sống kinh tế của nước ta hiện nay.
8/32
Nguồn văn bản hiện hành của chế độ hợp đồng kinh tế
1- Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1960 ban hành điều lệ về hợp đồng kinh doanh.
2- Nghị định 04/TTg ngày 04/1/1960 ban hành điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh
tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước.
3- Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế
4- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989
5- Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng qui định chi tiết thi
hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế
6- Quyết định 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng về việc ký kết và thực
hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
9/32
Chế độ hợp đồng kinh tế
Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế
Theo điều 3 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế : "Để bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng
của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, bảo vệ lợi ích của xã hội, việc ký kết hợp đồng
kinh tế được pháp luật quy định, phải tuân theo những nguyên tắc nhất định được quy
định trong chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế" thì ký kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ
các nguyên tắc sau :
Nguyên tắc tự nguyện

Nguyên tắc này là quyền tự do ý chí (tự do khế ước) của các chủ thể kinh doanh được
pháp luật cho phép để làm phát sinh quan hệ hợp đồng kinh tế mà không có sự áp đặt ý
chí của các bên với nhau hoặc của tổ chức, cá nhân khác nhau. Việc tham gia hợp đồng
hay không là do các bên toàn quyền định đoạt. Mọi sự ép buộc ký kết hợp đồng kinh tế
giữa bên này đối với bên kia - đều làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu.Do đó, tự nguyện là
nguyên tắc bắt buộc phải có và cũng là nguyên tắc của hầu hết các loại hợp đồng. Theo
nguyên tắc này , việc ký kết hợp đồng kinh tế phải là mong muốn thực sự của các bên
tham gia nhằm đạt được mục đích nhất định. Theo đó, các bên có quyền lựa chọn bạn
hàng, lựa chọn địa chỉ cung ứng vật tư, thời điểm ký kết hợp đồng cũng như nội dung
ký kết Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành và có giá trị pháp lý nếu
có sự thoả thuận giữa các bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Tại điều 4 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qui định : "Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền
của các đơn vị kinh tế. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được áp đặt ý chí của
mình cho đơn vị kinh tế khi ký kết hợp đồng. Không một đơn vị nào được phép lợi dụng
ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật". Đây là một quy định thể hiện sự
đổi mới rõ rệt của chế độ hợp đồng kinh tế , nhằm đảm bảo thực sự quyền tự chủ, tự do
ký kết hợp đồng, đó là "quyền của các chủ thể - chứ không phải là "nghĩa vụ" của họ
như trước đây.
Nguyên tắc này không áp dụng đối với hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà
nước, bởi vì theo loại hợp đồng này bị chỉ tiêu pháp lệnh chi phối rất cao. Và hiện nay,
quyền tự do giao kết hợp đồng kinh tế chỉ bị giới hạn bởi các điều kiện sau :
- Việc ký kết hợp đồng kinh tế phải phục vụ hoạt động kinh doanh đã đăng ký, tức là
các chủ thể chỉ được hoạt động kinh doanh trong phạm vi chức năng của mình.
- Các bên không được lợi dụng quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái
pháp luật , có nghĩa các bên không được làm những gì mà pháp luật cấm.
10/32
- Việc ký hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh là bắt buộc, tức là các đơn
vị kinh tế Nhà nước giao cho chỉ tiêu pháp lệnh thì có nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế
để thực hiện chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đó.
Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay Nhà nước chỉ can thiệp vào các quan hệ hợp đồng

kinh tế bằng pháp luật chứ không dùng mệnh lệnh hành chính như trước đây nữa.
Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi
Theo nguyên tắc này, khi ký kết hợp đồng kinh tế , các chủ thể hợp đồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau mà pháp luật qui định để thoả thuận những vấn đề mà các bênquan
tâm nhằm đạt được mục đích cuối cùng là thiết lập quan hệ hợp đồng kinh tế, hay nói
cách khác , các chủ thể có vai trò như nhau dù họ có địa vị pháp lý khác nhau.
Biểu hiện của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên được thể hiện
ngay trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Các bên đều có quyền đưa ra
yêu cầu của mình và cũng có quyền chấp nhạn hay không chấp nhận ý kiến của bên kia.
Thực hiện nguyên tắc này không phụ thuộc quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của các
chủ thể hợp đồng, bát kể họ thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý, thì khi
ký hợp đồng điều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, cùng có lợi trên cơ sở thoả
thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Quan hệ hợp
đồng kinh tế chỉ được coi là hình thành khi các bên thống nhất ý chí với nhau về tất cả
các điều khoản trong hợp đồng.
Tuy nhiên, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ở đây phải song hành với tư tưởng hai bên
cùng có lợi nhưng không nhất thiết các bên phải lợi ích như nhau mà mỗi bên đều có
lợi ích riêng theo mục đích của mình, đồng thời, nó đòi hỏi các bên phải biết tôn trọng
lợi ích của nhau, không thể để lợi ích của bạn hàng lấn át lợi ích của mình và ngược lại
không để lợi ích của mình lấn át lợi ích của bạn hàng. Vì thế, đây chính là tư tưởng giúp
cho quan hệ được làm ăn lâu dài.
Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm vật chất và không trái pháp luật
- Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản có nghĩa là nếu có vi phạm hợp đồng kinh tế, thì
bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm trả tiền phạt và bồi thường thiệt hại (nếu
có thiệt hại xảy ra) cho bên bị vi phạm bằng chính tài sản của mình mà không phụ thuộc
vào cơ quan, tổ chức, cá nhân có lỗi đã gây ra vi phạm đó, trừ các trường hợp miễm
giảm trách nhiệm vật chất. Có nghĩa là, khi hợp đồng kinh tế được ký kết thì các bên
phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên
tắc này được qui định trong Điều 29 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 21 Nghị định
17/HĐBT đã dẫn. Đây là một điểm mới của hợp đồng kinh tế theo pháp luật hiện hành.

Trước đây, trong thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, nếu trong quan hệ hợp đồng kinh tế
11/32
mà có vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm không chịu trách nhiệm với bên kia mà chịu
trách nhiệm trước Nhà nước như là một hình thức vi phạm kỷ luật Nhà nước.
- Nguyên tắc không trái pháp luật đòi hỏi chủ cụ thể, hình thức thủ tục ký két và nội
dung hợp đồng kinh tế phải hợp pháp (tuân thủ đúng các quy định của pháp luật). Mọi
vấn đề kể trên mà trái vơi squy định của pháp luật đều làm cho hợp đồng đó trở thành vô
hiệu và có thể gây ra thiệt hại về mặt vật chất cho các bên và cho cả Nhà nước. Đây là
nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ trật tự kỷ cương pháp luật, nâng
cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế. Các bên được tự
do thoả thuận ý chí nhưng điều đó không có nghĩa các bên muốn thoả thuận với nhau về
điều gì cũng được. í chí đó phải phù hợp với pháp luật
Chủ thể hợp đồng kinh tế
Những tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tham gia hợp đồng kinh tế có quyền
và nghĩa vụ đối với nhau gọi là chủ thể hợp đồng kinh tế. Theo điều 2 pháp lệnh hợp
đồng kinh tế , chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân với pháp nhân hoặc
pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy,
trong quan hệ hợp đồng kinh tế pháp nhân là một bên chủ thể ký kết hợp đồng, còn ben
kia có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Pháp nhân phải là tổ chức có các điều kiện sau :
+ Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập hoặc công nhận.
+ Có cơ cấu tổ chức thống nhất.
+ Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật môt cách độc lập (điều 94, Bộ luật
dân sự)
Cá nhân có đăng ký kinh doanh được hiểu là cá nhân được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đó là các hộ kinh doanh cá thẻ được
qui định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ, hoặc các doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh theo quy định của luật doanh nghiệp 12/6/1999.
Như vậy, những hợp đồng được ký kết giữa các cá nhân với nhau không được gọi là hợp

đồng kinh tế và nếu tranh chấp xẩy ra sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, theo qui định tại điều 42 , 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và thông tư số 11/
TT/PL ngày 25/5/1992 của Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn ký kết và thực hiện
hợp đồng kinh tế mở rộng điều kiện cho phép pháp nhân có thể xác lập hợp đồng kinh
12/32
tế với tổ chức, cá nhân nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam, các doanh nghiệp không
có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh) , hộ kinh doanh cá thể,
người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ nông dân, ngư dân
ca thể nếu nội dung của hợp đồng không nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng, thuê lao
động.
Để hình thành quan hệ hợp đồng kinh tế thì phải có sự tham gia ký kết của các bên chủ
thể hợp đồng kinh tế . Thay mặt cho các bên chủ thể hợp đồng kinh tế đó cần phải có
một người đại diện để ký kết hợp đồng kinh tế. Theo điều 9 - Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế thì đại diện ký kết hợp đồng kinh tế có hai loại :
* Đại diện thương nhân :
Đó là người đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh .
Đối với pháp nhân, đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được
bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và hiện đang giữ chức vụ gì đó (Điều 52 Nghị
định 17/HĐBT ) . Đối với doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp hoặc người được
doanh nghiệp thuê làm giám đốc. Đối với cá nhân là chính người đó, đối với hộ kinh
doanh cá thể, hộ kinh tế gia đình là chủ hộ.
Người đứng tên đăng ký kinh doanh là người đứng tên xin cấp giấy phép đăng ký kinh
doanh , được cấp giấy kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có tên.
* Đại diện theo uỷ quyền
Là người được đại diện đương nhiên uỷ quyền thay mình ký kết hợp đồng kinh tế theo
quy định của pháp luật . Việc uỷ quyền này phải được thể hiện bằng văn bản. Trước
khi ký kết hợp đồng kinh tế , người được uỷ quyền phải trình giấy uỷ quyền cho bên
đối tác kiểm tra uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thường xuyên. Người uỷ quyền phải
chịu trách nhiệm về việc uỷ quyền của mình. Người được uỷ quyền chỉ được hành động
trong phạm vi uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.

Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế
Để tuân thủ pháp luật, đảm bảo sự quảnlý của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các bên ký
kết hợp đồng, theo Điều 10 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì việc ký kết hợp đồng kinh tế
phải dựa vào các căn cứ sau :
Định hướng kế hoạch Nhà nước, các chính sách , chế độ, các chuẩn mực kinh tế
kỹ thuật hiện hành.
Đây là những mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc từng
ngành kinh tế kỹ thuật hoặc cho từng địa phương xác định cho từng thời kỳ, và cũng là
13/32
căn cứ để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hay nói cách
khác đây là căn cứ mang tính pháp lý thể hiện sự tuân thủ pháp luật của hợp đồng kinh
tế.
Nhu cầu thị trường, đơn chào hàng, đơn đặt hàng của bạn hàng
Các hoạt động kinh tế , quan hệ kinh tế trong nền kinh tế bị quy luật giá trị, quy luật cung
cầu chi phối. Điều đó đòi hỏi hợp đồng kinh tế phải luôn luôn phù hợp với thị trường thì
mới phát huy được vai trò của nó. Là cái cầu nối giữa sản xuất với thị trường; giúp cho
sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường tức là giúp cho cung cầu gặp nhau. Vì vậy, đòi hỏi
các chủ thể hợp đồng kinh tế khi ký kết hợp đồng kinh tế phải lấy nhu cầu thị trường để
làm căn cứ nội dung hợp đồng cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên. Đây là căn cứ
mang tính thực tiễn thể hiện nhu cầu thực sự của việc ký kết hợp đồng kinh tế, bảo đảm
tính khả thi của hợp đồng.
Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mình.
Nhà nước qui định căn cứ khả năng phát triển sản xuất kinh doanh để tránh tình trạng
các chủ thể kinh doanh ký kết hợp đồng kinh tế chỉ vì lợi ích riêng mà bất chấp pháp
luật, bất chấp khả năng và thực lực của mình . Đây cũng là căn cứ vào khả năng về vốn,
vật tư, năng suất lao động hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ để làm cơ sở quyết định
cho những cam kết trong hợp đồng được thực hiện.
Căn cứ vào chức năng hoạt động kinh tế tức là căn cứ vào nội dung hoạt động trong các
ngành nghề , lĩnh vực mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh.
- Như vậy, đây là căn cứ để chứng minh địa vị pháp lý hợp pháp của các tổ chức kinh

tế, đồng thời khẳng định tính thực tiễn bảo đảm của hợp đồng.
Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản
của cac bên cùng ký kết.
Căn cứ này chứng minh hoạt động của các bên chủ thể tiến hành không trái với quy định
của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc trực tiếp, chịu trách nhiệm tài sản theo qui định
của pháp luật. Đây là căn cứ rất quan trọng đối với việc đảm bảo hiệu lực của hợp đồng
kinh tế , tránh tình trạng vi phạm hợp đồng, chiếm dụng vốn của nhau.
Nội dung của hợp đồng kinh tế
Nội dung của hợp đồng kinh tế là toàn bộ những gì mà hai bên thoả thuận, thể hiện và
nghĩa vụ của các bên ràng buộc với nhau trong quan hệ hợp đồng.
14/32
Thông thường về mặt pháp lý, nội dung của hợp đồng kinh tế được thể hiện ở ba loại
điều khoản.
Một là, điều khoản thường lệ - Là những điều khoản mà nội dung đã được pháp luật qui
định mà nếu các bên không ghi vào hợp đồng thì coi như mặc nhiên thừa nhận và phải
có trách nhiệm thực hiện các qui định đó như đã thoả thuận . Ngược lại nếu ghi vào hợp
đồng thì không được thoả thuận trái với quy định đó. Ví dụ : Điều khoản về khung phạt
vi phạm hợp đồng kinh tế, về bồi thường thiệt hại.v.v
Như vậy, các bên tham gia có thể thoả thuận hay không thoả thuận các điều khoản
thường lệ thì hợp đồng vẫn hình thành khi đã có đủ các điều khoản chủ yếu.
Hai là, điều khoản chủ yếu : Là những điều khoản cơ bản quan trọng nhất của hợp đồng
mà bắt buộc các bên phải thoả thuận và ghi vào hợp đồng, nếu không thì hợp đồng sẽ
không có giá trị pháp lý. Theo điều 12 pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn) các điều
khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm :
- Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao
dịch của các bên; họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
Điều khoản này gọi là điều khoản hình thức của hợp đồng, là điều khoản chủ yếu mà
thiếu nó thì văn bản hợp đồng không có giá trị pháp lý, mà vấn đề pháp lý nổi bật nhằm
đảm bảo cho hợp đồng các bên ký kết tuân theo chế độ hợp đồng kinh tế đó là điều kiện
về địa vị pháp lý của các bên tham gia hợp đồng kinh tế.

- Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã
thoả thuận: Điều khoản này nhằm trả lời câu hỏi cái gì? và bao nhiêu? khi các bên tham
gia ký kết hợp đồng kinh tế.
- Chất lượng, chủng loại, qui cách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá hoặc yêu cầu
kỹ thuật của công việc, theo các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm thì chất lượng
sản phẩm bao gồm các mặt như phẩm chất, qui cách , chủng loại, bao bì đóng gói kể cả
màu sắc. Như vậy, các hàng hoá, công việc trong hợp đồng đã được xác định bởi các
tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, qui cách và chủng loại của Nhà nước thì các
bên tham gia phải lấy đó làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải lấy đó
làm cơ sở của việc ký kết, nếu thấy khác thì cần phải sửa đổi còn đối với các sản phẩm,
hàng hoá, công việc trong hợp đồng mà chưa có tiêu chuẩn chất lượng cụ thể thì nhất
thiết phải ghi rõ trong hợp đồng việc thoả thuận về chất lượng hàng hoá hoặc yêu cầu
kỹ thuật công việc.
- Giá cả: Điều khoản này là điều khoản mà các bên thoả thuận về đơn giá, các phụ phí,
tỷ lệ phần trăm hoa hồng. Khi thoả thuận điều khoản này các bên có thể thoả thuận cả
khả năng điều chỉnh giá khi đó biến động giá cả của thị trường.
15/32
Trừ trường hợp, sản phẩm, hàng hoá đó do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã quy
định giá hoặc khung giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế.
- Phương thức thanh toán :
Đây là điều khoản các b ên cần thoả thuận về các hình thức và thể thức thanh toán cũng
như thời hạn thanh toán trong hợp đồng kinh tế.
Ngoài ra, các điều khoản khác liên quan trực tiếp đến đặc điểm của từng loại hợp đồng
kinh tế cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế đó.
Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế, đặc biệt là điều khoản về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá, công việc và về giá cả phải được ghi rõ ràng, cụ thể theo quy định của
pháp luật.
Ba là, điều khoản tuỳ nghi: Là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi
chưa có quy định của pháp luật hoặc đã có quy định nhưng các bên được vận dụng một
cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của mình mà không trái pháp luật. Chẳng hạn, điều

khoản về bảo hành đối với những sản phẩm, hàng hoá, công việc chưa có quy định của
Nhà nước về bảo hành; điều khoản về điều kiện nghiệm thu, giao nhận sản phẩm, công
việc; điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế; điều khoản có hiệu lực của
hợp đồng kinh tế Điều khoản tuỳ nghi là điều khoản phụ nó không ảnh hưởng đến
việc hình thành hợp đồng kinh tế mà chỉ là các điều khoản nhằm kích thích hoàn thiện
về nghĩa vụ hợp đồng kinh tế.
Như vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế thể rhiện ý chí tự nguyện của các bên nhưng
không được trái với quy định của pháp luật. Những hợp đồng kinh tế rơi vào trường hợp
sau đây là hợp đồng trái pháp luật và coi là vô hiệu
- Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật
- Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật để thực hiện công việc và thoả thuận trong hợp đồng.
- Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo.
Hình thức của hợp đồng kinh tế
Theo Điều I và Điều II pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng phải được ký kết bằng văn
bản hoặc bằng tài liệu giao dịch. Những văn bản, tài liệu giao dịch này có chữ ký xác
nhận của các bên về nội dung thoả thuận, thể hiện dưới dạng công văn điện báo, đơn
chào hàng, đơn đặt hàng, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ cho những hợp đồng kinh tế
được ký kết dưới hình thức văn bản, tài liệu giao dịch, nhằm để ghi nhận một cách đầy
16/32
đủ rõ ràng các cam kết của các bên bằng "giấy trắng mực đen". Đây là cơ sở pháp lý để
các bên tiến hành thực hiện các cam két trong hợp đồng. Cũng đồng thời để các cơ quan
có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng , giải quyết các tranh chấp , xử lý
các vi phạm nếu có.
Cùng với văn bản chính là hợp đồng, các bên còn có thể ký kết các văn bản phụ lục hợp
đồng để cụ thể hoá các điều khoản của hợp đồng kinh tế ký kết hoặc có thể là ký kết biên
bản bổ sung những điều khoản mới thoả thuận vào bản hợp đồng. Phụl ục hợp đồng và
văn bản bổ sung có giá trị kinh tế chính.
Theo quy định tại Điều 7 khoản ghi trong Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy
định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì những loại hợp đồng mà pháp luật

qui định phải đăng ký hoặc công chứng thì các bên phải thực hiện những quy định đó.
Khi đó các bên sẽ được cấp chứng thư hợp đồng kinh tế, là sự xác nhận các bên đã ký
kết hợp đồng kinh tế tại một cơ quan công chứng Nhà nước (nếu không có cơ quan công
chứng thì làm chứng thư cơ quan có đăng ký kinh doanh). Hợp đồng kinh tế được ký kết
mà pháp luật đòi hỏi phải có đăng ký thì không được ký kết theo sự uỷ quyền.
Như vậy, đây cũng là một điểm khác so với hợp đồng dân sự (không bắt buộc phải ký
bằng văn bản)
Trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế :
Trình tự , thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế được hiểu là cách thức các bước mà các bên
tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thiết lập quan hệ hợp đồng kinh tế. Các bên
có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết sau:
* Cách ký kết trực tiếp : là cánh mà theo đó người đại diện có thẩm quyền của các bên
trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí về xác định nội dung của hợp
đồng là cùng ký tên các văn bản hợp đồng. Hợp đồng kinh tế được coi là hình thành và
có hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên đã ký vào văn bản, trừ trường hợp hợp đồng
kinh tế phải đăng ký thì mới có hiệu lực. Hợp đồng được ký theo cách này được hình
thành một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
* Cách ký kết gián tiếp : là cách mà theo đó các bên thoả thuận với nhau những vấn đề
về nội dung hợp đồng bằng cách gửi cho nhau dự thảo hợp đồng hoặc tài liệu giao dịch
có chứa đựng nội dung cần giao dịch. Theo cách này việc ký kết hợp đồng thông thường
phải theo hai bước sau :
Bước 1 : Đề nghị lập hợp đồng : Bên đề nghị đưa ra những điều khoản chủ yếu của hợp
đồng (hàng hoá, hoặc dịch vụ, số lượng , chất lượng, thời gian, giá cả ), thời hạn trả
lời và ký trước vào bản dự thảo hợp đồng sau đó gửi cho bên kia xem xét và có quyết
định lập hợp đồng hay không. Thời hạn lập hợp đồng ràng buộc pháp lý đối với bên đề
17/32
nghị: trong thời hạn đó bên đề nghị không được đề nghị lập hợp đồng với một người thứ
ba nếu đề nghị được chấp nhận thì bên đề nghị không được thay đổi ý kiến.
Bước 2 : Chấp nhận đề nghị : Bên được đề nghị có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho
bên đề nghị trong thời gian đề nghị. Nếu thống nhất hoàn toàn với bên đề nghị thì gọi

là chấp nhận đề nghị và hợp đồng kinh tế được hình thành và có hiệu lực pháp lý từ khi
bên được đề nghị thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
Trường hợp bên được đề nghị đưa kèm theo những đề nghị khác thì coi như bên đó từ
chối đề nghị và trở thành người đề nghị mới. Đề nghị mới phải được người đề nghị trước
đó đồng ý thì mới hình thành hợp đồng.
Vì thế, lựa chọn phương thức nào để ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các bên trên
cơ sở điều kiện thực tế của mỗi bên.
18/32
Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế
Sau khi hợp đồng kinh tế được ký kết và đã có hiệu lực pháp lý, các bên phải thực hiện
các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Trong quá trình này các bên phải tuân thủ theo
những nguyên tắc do pháp luật quy định . Theo điều 288 - Bộ luật dân sự ngày 28/10/
1995 và điều 22 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đã dẫn) những nguyên tắc chỉ đạo việc
thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm :
- Nguyên tắc chấp hành thực hiện : là các bên phải thực hiện đúng những điều đã cam
kết trong hợp đồng: đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương
thức và các thỏa thuận khác, không được tự ý thay đổi đối tượng trong hợp đồng.
- Nguyên tắc chấp hành đúng: là nguyên tắc thực hiện một cách trung thực , đầy đủ,
chính xác nghĩa vụ đã cam kết tỏng hợp đồng, nhằm đảm bảo tính hợp tác và tin cậy lẫn
nhau .
- Nguyên tắc chấp hành trên tinh thần hợp tác cùng có lợi :
Là nguyên tắc đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế phải hợp tác
chặt chẽ, thường xuyên theo dõi , giúp đỡ lẫn nhau để khắc phcụ các khó khăn nhằm
thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Ngay cả khi có tranh chấp xẩy ra các
bên đều phải chủ động gặp gỡ để bàn bạc, cùng nhau tìm ra phương án giải quyết tối ưu
. Các bên tôn trọng lợi ích của nhau, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác.
Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế
Trong trường hợp , hợp đồng đã ký kết mà một bên (ben có nghĩa vụ) không thực hiện

hoặc thực hiện không đúng sẽ ảnh ưhởng trực tiếp tới quyền lợi của bên kia (bên có
quyền). Do vậy yêu cầu đặt ra cần phải có những biện pháp bảo đảm quyền lợi của các
bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Theo điều 324 Bộ luật dân sự và điều 5
- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng bao
gồm : cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh
Cầm cố tài sản :
Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế; nếu tài sản cầm
cố có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thoả thuận để bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc
19/32
giao cho người thứ ba giữ. Việc cầm cố tài sản được lập thành văn bản, có thể lập riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính. Văn bản cầm cố phải có chứng nhận của công chứng
Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Đối với tài sản mà
pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu thì việc cầm cố tài sản đó cũng phải được
đăng ký.
Người giữ vật cầm cố bảo đảm nguyên giá trị của hiện vật cầm cố; không được chuyển
dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản có hiệu lực.
Khi nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đã thực hiện xong, việc cầm cố tài sản chấm dứt thì tài
sản cầm cố, giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu được hoàn trả cho bên cầm cố.
Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ hợp đồng kinh tế dùng tài sản là bất động sản
thuộc sở hữu cua rmình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Việc thế chấp tài sản được lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng
chính) và phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền . Nếu bất động sản có đăng ký quyền sở hữu thì việc thế chấp phải được
đăng ký.
Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không
được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong thời
gian văn bản thế chấp còn có hiệu lực.
Khi đã thế chấp tài sản, bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng thì bên nhận thế chấp có

quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng kinh
tế.
Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đã thực hiện
xong; lúc đó cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã đăng ký việc thế chấp xác nhận việc
giải trừ thế chấp.
Bảo lãnh tài sản :
Là biện pháp bảo đảm hợp đồng trong đó có cá nhân hay tổ chức (người bảo lãnh) có sự
bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để chịu trách nhiệm tài sản thay thế
cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận
bảo lãnh phải có số tài sản bảo lãnh không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảolãnh.
Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà
nước và xác nhận về giá trị tài sản của ngân hàng nơi người được bảo lãnh giao dịch.
20/32
Việc bảo lãnh chấm dứt khi nghĩa vụ hợp đồng kinh tế được bảo lãnh đã hoàn thành.
Thực hiện hợp đồng kinh tế
Thực hiện hợp đồng kinh tế là các bên thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng. Nội dung thực hiện hợp đồng kinh tế bao gồm :
Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng
Thực hiện đúng điều khoản về đối tượng của hợp đồng kinh tế là một trong những điều
khoản chủ yếu của hợp đồng. Bên có nghĩa vụ giao đầy đủ số lượng, trọng lượng, khối
lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc cho bên có quyền theo thoả thuận trong hợp
đồng kinh tế.
Nếu sản phẩm là hàng hoá giao không đúng số lượng, công việc không thực hiện đúng
khối lượng thì bên nhận chỉ nhận và thanh toán theo số lượng thực nhận, số còn lại sẽ
yêu cầu bên có nghĩa vụ giao tiếp sau đó, ngoài ra có quyền đòi phạt phần thiếu và đòi
đền bù thiệt hại (nếu có)
Đối với trường hợp sản phẩm được giao không đồng bộ và không sử dụng được thì bên
nhận có quyền từ chối tiếp nhận và từ chối thanh toán cho tới khi hoàn thành đồng bộ.
Trường hợp giao hàng hoá không đồng bộ , bên nhận có quyền lựa chọn một trong hai
cách xử lý sau :

- Yêu cầu bên vi phạm phải hoàn thành đồng bộ rồi mới tiếp nhận. Bên vi phạm phải bị
phạt giao hàng chậm.
- Nhận sản phẩm hàng hoá, công việc chưa đồng bộ với điều kiện bên vi phạm chịu phạt
vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và trả các chi phí cần thiết để hoàn
thành đồng bộ.
Trong khi giao nhận hàng hoá, các bên phải kiểm tra về mặt khối lượng, số lượng và
phải nộp biên bản, chứng từ bàn giao để làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp xảy ra
(nếu có)
Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng
Điều khoản về chất lượng cũng là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Bên có
nghĩa vụ giao hàng phải giao hàng đúng chất lượng , có nghĩa là hàng hoá được giao
phải đảm bảo khả năng sử dụng theo tiêu chuẩn chất lượng, bảo đảm đúng phẩm chất,
bao bì, đóng gói, quy cách, chủng loại theo quy định của Nhà nước. Của ngành, của đơn
vị cơ sở hoặc theo sự thoả thuận của hai bên. Khi giao nhận các bên phải tiến hành kiểm
tra chất lượng sản phẩm hàng hoá , công việc.
21/32
Trong trường hợp hàng hoá, công việc được giao không đúng chất lượng, bên bị vi phạm
có quyền :
- Không nhận hàng hoá, công việc được giao không đúng chất lượng, đòi tiền phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại.
- Nhận hàng hoá , công việc nhưng yêu cầu giảm giá hoặc sửa chữa sai sót trước khi
nhận và đòi bồi thường thiệt hại.
Trường hợp mà hợp đồng có điều khoản bảo hành thì trong thời hạn, nếu bên nhận hàng
phát hiện có sai sót về chất lượng thì phải thông báo kịp thời bằng văn bản cho bên kia
biết để cùng xác minh. Nếu do lỗi của bên bảo hành thì phải sửa chữa sai sót về chất
lượng hoặc các bên có thể thoả thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá
hoặc đổi lấy hàng hoá khác.
Thực hiện đúng điều khoản về thời hạn
Thời hạn giao nhận hàng hoá có thể là thời hạn hoặc thời điểm nhất định do hai bên thoả
thuận trong hợp đồng. Vì việc giao nhận hàng hoá, công việc đúng thời gian là yếu tố

rất quan trọng để các bên thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình.
Nếu một bên giao thực hiện không đúng thời gian qui định thì bên nhận có quyền nhận
hoặc không nhận hàng hoá công việc nhưng buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm tài
sản (nếu giao hàng hoá hoặc thực hiện công việc chậm trễ so với thời gian quy định);
hoặc chưa tiếp nhận hay tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu các khoản phí tổn
bảo quản trong thời gian chưa đến thời điểm giao nhận theo thoả thuận (nếu giao hàng
hoá hoặc thực hiện công việc trước thời hạn).
Nếu bên tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá hoặc công việc vi phạm điều khoản thời hạn tiếp
nhận thì bên giao có quyền đòi bên tiếp nhận phải chịu trách nhiệm tài sản về vi phạm
nghĩa vụ tiếp nhận hoặc đòi bên vi phạm trả các khoản chi phí về chuyên chở, bảo quản,
do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận.
Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm, phương thức
Địa điểm giao nhận hàng hoá, dịch vụ là nơi mà tại đó bên giao hàng thực hiện nghĩa
vụ giao hàng. Địa điểm giao nhạn do các bên thoả thuận trong hợp đồng hoặc theo quy
định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng cụ thể.
Việc xác định địa điểm giao nhận có vai trò rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí
vận chuyển và rủi ro khi vận chuyển.
Phương thức giao nhận là cách để các bên tiến hành giao nhận hàng hoá.
22/32
Địa điểm và phương thức giao nhận do các bên thoả thuận sao cho có lợi cho các bên.
Nếu một trong các bên thực hiện không đúng điều khoản này thì coi như vi phạm hợp
đồng kinh tế và phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên còn lại
Thực hiện đúng điều khoản về giá cả thanh toán
Giá cả hàng hoá, dịch vụ do hai bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng. Vì thế, các bên
phải có nghĩa vụ thực hiện đúng những gì đã thoả thuận. Đối với những sản phẩm, hàng
hoá do cơ quan Nhà nước có từng quy định giá trị giá thoả thuận trong hợp đồng kinh tế
phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Thanh toán là nghĩa vụ trả tiền theo phương thức và thời hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng. Phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt hoặc séc, uỷ nhiệm thu
Về thời hạn thanh toán, nếu không ghi trong hợp đồng thì thời hạn đó là 15 ngày kể từ

ngày nhận được hoá đơn, giấy đòi tiền.
Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ tiền lên tai khoản của mình tại
ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi trực tiếp nhận đủ số tiền mặt theo hoá đơn hoặc
bên đòi tiền chấp nhận trả bằng hiện vật, hoặc tài sản thế chấp, cấm cố, bảo lãnh có giá
trị tương đương với số tiền phải trả. Và việc trả đó đã được thực hiện xong.
Nếu bên có nghĩa vụ thanh toán mà vi phạm điều khoản này thì bị phạt vi phạm hợp
đồng theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc mức lãi suất tín dụng quá hạn
của ngân hàng Nhà nước kể từ ngày hết hạn thanh toán.
Sửa đổi, đình chỉ , thanh lý hợp đồng kinh tế
Sửa đổi, đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế
Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, do sự biến động của thị trường, của kinh tế
xã hội, sự thoả thuận trước đó trong hợp đồng không còn phù hợp nữa, các bên có quyền
thoả thuận để sửa đổi, huỷ bỏ hoặc đình chỉ việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Sự thoả
thuận đó phải được lập bằng văn bản và ghi rõ hậu quả pháp lý của việc sửa dổi, huỷ bỏ,
đình chỉ thực hiện hợp đồng gây ra . Hậu quả pháp lý đó như lãi suấtà : phí tổn không
thu hồi được do việc thực hiện hợp đồng kinh tế, phí tổn về nguyên vật liệu bị hao hụt
trong quá trình chuẩn bị thực hiện hợp đồng kinh tế; tiền phạt hay tiền bồi thường thiệt
hại do việc vi phạm hợp đồng, hoặc thay đôỉ, huỷ bỏ , đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh
tế.
Ngoài việc sửa đổi nội dung hợp đồng kinh tế thì có thể thay đổi chủ thể của hợp đồng.
Tức là trong trường hợp một bên chủ thể vì một lý do nào đó mà phải chuyển giao toàn
bộ hoặc một phần nghĩa vụ thực hiện hợp đồng kinh tế hco một chủ thể thứ ba khác.
23/32

×