Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRONG ĐIỀU KIỆN VIÊT NAM.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.63 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐÔLA HÓA : HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRONG
ĐIỀU KIỆN VIÊT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Lê Quỳnh Anh _STT 11
Lê Thị Lan Anh _STT 12
Nguyễn Thị Mai Lý _STT 33
Lớp A5-KTĐN-K46C
MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài:
Hiện nay , Việt Nam đang tích cực mở cửa hội nhập với thế giới trên nhiều lĩnh
vực , đặc biệt là kinh tế. Điều này đem lại những lợi ích rõ ràng cho chúng ta, tuy
nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều mối lo ngại . Là một phần
của nền kinh tế thế giới, chúng ta chịu tác động của những xu hướng chung của toàn
cầu, nhất là khi Việt Nam là một nước đang phát triển, chúng ta sẽ gặp phải nhiều
nguy cơ khi hội nhập . Một trong số đó phải tính đến tình trạng đô la hóa. Gần đây ,
báo chí , các phương tiện truyền thông, các chuyên gia kinh tế đề cập rất nhiều đến
vấn đề này, cho thấy tầm quan trọng của nó và những người quan tâm đến tình hình
kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng không thể bỏ qua.
Là những sinh viên ngành kinh tế , sự hiểu biết về thực trạng đôla hóa nói
chung và đôla hóa tại Việt Nam nói riêng là điều cần thiết, đây không chỉ là kiến
thức về kinh tế mà còn giúp chúng ta đưa ra những giải pháp thích hợp , định hướng
cho sự phát triển kinh tế đất nước.
2/ Mục đích nghiên cứu

Trong nội dung bài tiểu luận này , chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn tổng
quan về tình trạng đôla hóa, đồng thời đi sâu phân tích một số vấn đề quan trọng
liên quan đến thực trạng này như : những tác động, nguyên nhân để từ đó đề xuất
những giải pháp giảm “ đôla hóa” nền kinh tế. Đặc biệt , nhằm có được tác dụng


thiết thực , chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào vấn đề đôla hóa của Việt Nam.
2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 ĐÔLA HÓA LÀ GÌ ?
I/ KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1/ Định nghĩa
_ Theo cách hiểu đơn giản, đôla hóa là hiện tượng mà tại một quốc gia đồng
ngoại tệ ( thường là đồng đôla - một ngoại tệ mạnh) được sử dụng rộng rãi , lấn lướt
đồng nội tệ trong việc thực hiện toàn bộ hay một số chức năng tiền tệ .
_ Theo IMF, một nền kinh tế bị coi là có tình trạng đôla hóa cao nếu tỷ trọng tiền
gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng( gồm tiền
mặt lưu thông, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi bằng ngoại tệ).
Mức độ đôla hóa được coi là vừa phải nếu tỷ lệ trên vào khoảng 16,5%.
2/ Phân loại đôla hóa
Hiện tượng đôla hóa có thể chia thành 3 loại :
_ Đôla hóa không chính thức
Là việc đồng đôla được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế dù không được
chính phủ nước đó chính thức thừa nhận, có thể bao gồm
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
_ Đôla hóa bán chính thức
Là hiện tượng đồng ngoại tệ ( thường là đôla ) được thừa nhận hợp pháp trong việc
thực hiện chức năng tiền tệ cùng đồng bản tệ . Tuy nhiên , đồng ngoại tệ vẫn đóng
vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế , chi tiêu hằng ngày.
3
_ Đôla hóa chính thức
Là hiện tượng đồng ngoại tệ ( thường chỉ là một đồng tiền của một quốc gia nào đó)

là đồng tiền duy nhất được lưu hành hợp pháp, tức là không chỉ trong các giao dịch
tư nhân mà cả những thanh toán của chính phủ.
II/ THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA HIỆN NAY
1/ Trên thế giới
Như chúng ta đã biết, hiện nay trên thế giới có một số đồng tiền mạnh như :
đồng đôla Mỹ (USD ), đồng euro (EUR), đồng bảng Anh (GBP), đồng yên Nhật
(JPY),…Các đồng tiền này được sử dụng nhiều trong giao dịch quốc tế, đặc biệt là
đồng đôla Mỹ (chiếm khoảng 70% giao dịch thương mại trên thế giới). Không chỉ
có thế , các đồng tiền này còn chiếm ưu thế trong giao dịch trong nội bộ nền kinh tế
của nhiều quốc gia , chủ yếu là các quốc gia đang và chậm phát triển có nền kinh tế
mở cửa.
Các quốc gia có mức độ đôla hóa cao như Argentina, Belarus, Bolivia,
Campuchia, Costa Rica, Croatia, Lào, Mo-zam-bich, Peru, Thổ Nhĩ Kì và
Uruguay.
Ở mức độ đôla hóa vừa phải có: Albania, Bungari, Cộng hoà Séc, Dominica,
Hungary, Jamaica, Jordan, Mexico, Pakistan, Philippin, Ba Lan, Rumani, Ukraina,
Uzabekistan, Việt Nam,…
2/ Tại Việt Nam
_ Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% (trong khi tỷ lệ
này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan,
Malaysia...chỉ khoảng 7-10%)
_ Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao
dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép
nhận tiền gửi bằng đồng USD. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh
với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD. Trước tình trạng này,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh
4
tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng
xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á 1997 đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục

chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi
vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong
những năm tiếp theo. Theo thống kê, tỷ lệ tiền gửi bằng USD trên tổng tiền gửi tại
các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khoảng từ 20 - 25%. Tuy nhiên, những năm
qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng đôla tại các ngân hàng không ngừng tăng lên, đặc
biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ chí Minh.
_ Thêm vào đó một lĩnh vực bị đôla hóa khá mạnh là bán hàng qua mạng, nhất là
các mặt hàng nhập khẩu như đồ điện tử, thiết bị gia dụng,…Hầu hết các trang web
kinh doanh các mặt hàng này đều niêm yết giá song song bằng VND và USD nhưng
trên thực tế thanh toán chủ yếu bằng USD. Mặc dù, theo quy định về quản lý ngoại
hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc niêm yết giá các hàng hóa, dịch vụ
trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. Việc niêm yết giá
bằng ngoại tệ (phổ biến là USD) là vi phạm pháp luật nhưng việc niêm yết giá bằng
USD khá phổ biến đối với các mặt hàng như: điện tử, ô tô, xe máy, bất động sản,
khách sạn, du lịch. Ngoài ra, có những đầu mối cung cấp hàng cho các công ty trong
nước chào giá USD song song với VNĐ nhưng thực tế chỉ chấp nhận thanh toán
bằng USD.
Một số ví dụ cụ thể như :Các điểm bán tour của Saigontourist (một công ty du
lịch lớn ở thành phố Hồ Chí Minh) cũng niêm yết giá bằng USD và tiền đồng, tour
cá nhân bán bằng ngoại tệ, còn tour tập thể được bán bằng VNĐ,khi khách hàng
thanh toán tiền đồng, nhân viên bán hàng sẽ quy đổi sang USD và ngược lại. Hiện
nay các tour du lịch nước ngoài đều chào giá USD và mỗi đơn vị lữ hành áp dụng tỉ
giá quy đổi khác nhau
Một số nhà hàng, khách sạn cũng treo bảng giá phòng, giá tiệc buffet bằng USD.
Dịch vụ spa, kinh doanh mỹ phẩm, nữ trang, đồng hồ... cũng tương tự
5
Tại Trung tâm Thương mại Eden (TPHCM) những sản phẩm lưu niệm thuần
túy Việt Nam vẫn niêm yết giá bằng USD.
Trên thị trường nhà đất, tình trạng niêm yết USD cũng khá phổ biến. Tại các
sàn giao dịch bất động sản, có đến 30% căn hộ chào bán bằng USD. Website giao

dịch bất động sản ngân hàng Á Châu ACB luôn thể hiện thông tin “căn hộ Phú
Hoàng Anh 1.250 USD/m2, Hoàng Anh River View 1.350 USD/m2. Hàng loạt văn
phòng cho thuê cũng chào giá bằng ngoại tệ. Điều đáng nói, các yếu tố để hình
thành bất động sản như đền bù mặt bằng, mua đất, vật liệu xây dựng... đều thanh
toán bằng VNĐ, song đầu ra của nó lại được tính bằng ngoại tệ.
Nếu một số hàng hóa giao dịch USD lẫn VNĐ thì thị trường ô tô niêm yết
hoàn toàn bằng USD ( Ví dụ: Mục tin tức của Công ty Ô tô Trường Hải cũng thể
hiện xe New Carens có giá 28.800 USD. Công ty Suzuki Việt Nam chào bán ô tô
APV BTLimited với giá 23.490 USD... )
Đáng quan tâm hơn, một số khoản tiền thưởng mang tính chất quốc gia cũng
được tính bằng đôla (như tiền thưởng cho đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
cũng được các đơn vị tính bằng đôla).
Công bố thông tin về thu nhập bình quân đầu người, người ta cũng dùng đồng
đô la (mặc dù là thu nhập của người Việt Nam).
Chính phủ đưa ra gói kích cầu trong tình hình kinh tế suy thoái hiện nay,
khi công bố tổng số tiền kích cầu người ta cũng dùng đồng đô la.
6
CHƯƠNG 2 NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở
các nước đang và chậm phát triển . Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ
lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công
cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức
năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng
nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng của tiền tệ, đó là:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
• Chức năng làm phương tiện cất giữ.
• Chức năng làm phương tiện trao đổi.
Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại,
trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng

trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là
một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới
và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được
quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU...
nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la
Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế
giới).
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và
hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi
nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế
giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu,
trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát
7
triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển
đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia
đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao.
Đối với trường hợp Việt Nam ngoài các yếu tố trên, chúng ta cần nhấn mạnh
thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng đô la hoá:
1/ Giá trị đồng nội tệ không được tin tưởng là có độ ổn định cao
Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh
lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao
hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD
hơn là VNĐ.
Nguyên nhân hiện tượng này mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng
nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những
năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối

thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá
nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng
đồng nội tệ lớn. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức
rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất
lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm
1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh
diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng
lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế,
đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng. Cũng
do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 3% - 4%/năm, thấp chỉ
bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô
la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên.
8
Bên cạnh đó, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng
khiến nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nên họ lựa chọn
đô la Mỹ để gửi ngân hàng
2/Giá trị 1 đơn vị nội tệ quá thấp so với một đơn vị ngoại tệ mạnh, cao nhất là tờ
500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại
tương ứng với gần 1,8 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong
các giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm
vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ.
Chúng ta lấy ví dụ sau: Nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu
khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 Đ(mệnh giá
cao nhất của VND hiện nay) hoặc 300 tờ 100.000 Đ. Nhưng nếu mang bằng USD
chỉ cần khoảng 20 tờ 100 USD , nếu bằng euro chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất tiện lợi, ở
đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Hoặc khi người ta cần trao tay cho nhau
tiền mặt với giá trị lớn, rõ ràng sử dụng VND là quá cồng kềnh và bất tiện.
3/Ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước
ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
+Nguồn kiều hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân

10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Số liệu thống kê của Ngân
hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây không
ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993:
140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99
triệu USD; 1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD;
2000: 1,757 triệu USD; 2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD;năm 2003:
2.580 triệu…. Đó là con số thống kê được qua hệ thống ngân hàng, chưa kể ngoại
hối được chuyên ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều mang
trực tiếp theo người khi nhập cảnh, người xuất khẩu lao động gửi tiền về nước.
9
+ Ngành du lịch của Việt Nam rất được quan tâm phát triển. Thực tế là hàng
năm nước ta thu hút một lượng rất lớn lượt khách ( năm 1996 mới là 1,607 triệu
lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu ) do đó lượng ngoại
tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với
lượng du khách đến Việt Nam. Khoản chi tiêu đó bao gồm cả những dịch vụ đi kèm
như nhà hàng, khách sạn, quà lưu niệm,…Đây là một nguồn thu ngoại tệ không nhỏ
+ Hiện nay, với việc mở cửa tích cực nền kinh tế, các công ty đa quốc gia vào
Việt Nam hoạt động rất nhiều, kéo theo đó là lực lượng lao động Việt Nam làm việc
cho công ty nước ngoài. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong
các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan
nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.
+ Tiếp đó phải kể đến số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh
sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn,
nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ
khác.
+Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền từ các tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi
chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.
+Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư
gián tiếp cũng tăng mạnh trong thời gian gần đây

+Xuất khẩu là một lĩnh vực then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của nước
ta. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế. Do đó chúng ta thu được nguồn ngoại tệ rất lớn từ hoạt động này
+Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động
kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
10

×