Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Những vấn đề chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.95 KB, 35 trang )

Những vấn đề chung về bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Biên tập bởi:
Bùi Văn Khoa
Những vấn đề chung về bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Biên tập bởi:
Bùi Văn Khoa
Các tác giả:
Bùi Văn Khoa
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
2. Sự cần thiết, tác dụng và vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển
3. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
4. Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
5. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
6. Khiếu nại đòi bồi thường trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
7. Giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển
Tham gia đóng góp
1/33
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng


đường biển
Trên thế giới
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với sự phát
triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ V trước công nguyên, vận chuyển
hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển người ta biết tránh tổn thất toàn bộ
một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán chuyên chở trên nhiều thuyền khác nhau. Đây
có thể nói là hình thức sơ khai của bảo hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ thứ XII thương mại
và giao lưu hàng hoá bằng đường biển giữa các nước phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy
ra trên biển vì khối lượng và giá trị của hàng hoá ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn
bất ngờ, cướp biển gây ra làm cho giới thương nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn
thất nặng nề có khả năng dẫn tới phá sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu
hành trình gặp phải rủi ro gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu
hành trình may mắn thành công thì ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản tiền
lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao và nặng nề này có thể coi là hình thức ban đầu của
phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra đời, trong đó người
bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội dung đã ghi trong đơn. Từ đó hợp
đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra đời với tư cách như là một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước Ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra đời. Sự phát
triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm
hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp ước quốc tế liên quan đến thương mại
và hàng hải như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của Lloyd's 1776 và Luật bảo hiểm của Anh
năm 1906 (MiA - Marine insurance Act 1906), công ước Brucxen năm 1924, Hague
Visby 1986, Hămbua năm 1978, Incoterms 1953,1980,1990,2000 Các điều khoản về
bảo hiểm hàng hải cũng ra đời và ngày càng hoàn thiện .
Nói về bảo hiểm hàng hải không thể không nói tới nước Anh và Lloyd's. Nước Anh là
một trong những nước có sự phát triển hiện đại về thương mại và hàng hải lớn nhất trên
thế giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành hàng hải và thương mại thế giới gắn
liền với sự phát triển của nước Anh, thế kỷ XVII nước Anh đã có nền ngoại thương phát
triển với đội tàu buôn mạnh nhất thế giới và trở thành trung tâm thương mại và hàng hải

của thế giới. Do đó nước Anh cũng là nước sớm có những nguyên tắc, thể lệ hàng hải và
bảo hiểm hàng hải. Năm 1779, các hội viên của Lloyd's đã thu thập tất cả các nguyên tắc
bảo hiểm hàng hải và quy thành một hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd's. Hợp đồng
2/33
này đã được Quốc hội Anh thông qua và được sử dụng ở nhiều nước cho đến 1982.Từ
ngày 1/1/1982, đơn bảo hiểm hàng hải mẫu mới đã được Hiệp hội bảo hiểm London
thông qua và được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
Không chỉ riêng bảo hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế
giới, các loại hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao lưu quốc tế.
Ở Việt Nam:
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài chính kinh
doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công ty Bảo hiểm Việt
Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Công ty Bảo hiểm Việt Nam được thành lập ngày 17/12/1964
theo Quyết định số 179/CP và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cho công
ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường hợp mua theo giá FOB, CF và bán theo
giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 - 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại trong đó
có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có quan hệ tái bảo hiểm
với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo Việt chỉ có quan hệ tái bảo hiểm
với Trung Quốc.
Từ năm 1975 - 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở rộng phạm vi
hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ
thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định, tái bảo hiểm với hơn
40 nước trên thế giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt động, Bộ Tài chính đã ban
hành quy tắc chung về Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Gần đây, để
phù hợp với sự phát triển thương mại và ngành hàng hải của đất nước, Bộ Tài chính đã
ban hành quy tắc chung mới - Quy tắc chung 1990 (QTC-1990) cùng với Luật Hàng hải
Việt Nam. Quy tắc chung này là cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ, xuất phát
từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì
việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một đòi hỏi thiết thực. Để đáp
ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của chính phủ về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm đã được ban hành ngày 18/12/1993 đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo
hiểm ra đời và phát triển. Hiện nay với sự góp mặt của 10 công ty bảo hiểm gốc trong cả
nước, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa
các công ty, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền
3/33
thống mà các nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến
lược, sách lược giành thắng lợi trong cạnh tranh.
4/33
Sự cần thiết, tác dụng và vai trò của bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển
Khái niệm :
Ta có thể định nghĩa: Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm
đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do
những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được bảo hiểm góp cho người bảo
hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu thì người được bảo hiểm có thể là người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện
thương mại và điều kiện cơ sở giao hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên
đã thoả thuận với nhau. Đối tượng bảo hiểm ở đây chính là hàng hoá đã được mua bảo
hiểm.
Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển :
Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con người
không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các khoản bù đắp
thiệt hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro mang tính thảm hoạ gây

ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều khó khăn về tài chính trong việc
khắc phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm
cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trở thành một nhu cầu rất cần
thiết và nó có những tác dụng sau:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường bảo quản
kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc
dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị kinh doanh
xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá CIF, CIP sẽ tạo ra khả năng
cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài. Nhờ có hoạt động bảo hiểm trong
nước các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở nước ngoài, nói cách khác là không phải
xuất khẩu vô hình.
Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một số tiền nhất
định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi thường của các
công ty hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí bảo hiểm.
5/33
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành nguyên tắc
thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất nhập khẩu gặp rủi
ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi
xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có liên quan.
Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển :
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được chuyên chở là
rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển càng được khẳng định rõ nét :
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc gia,
người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp áp tải được hàng
hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng hoá. Ở đây, vai
trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do thiên tai,

tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất cắp, cướp biển,
bão, lốc, sóng thần vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng hoá xuất nhập khẩu
chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt ở những nước quần đảo như Anh,
Singapore, Nhật, Hồng Kông do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng
hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường biển, rất nhiểu rủi
ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các công ước quốc tế cũng
quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở (Hague, Hague Visby,
Hamburg ).Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao, những vật tư
rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các rủi ro có
thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần
thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc tham gia
bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã trở thành một
tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thương mại quốc tế.
6/33
Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình xuất nhập
khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển :
Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
• Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp đồng giữa
người mua và người bán với nội dung về: số lượng, phẩm chất, ký mã hiệu, quy
cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu và trả cước phí, phí bảo
hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán

• Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở hữu lô
hàng hoá xuất nhập khẩu từ người bán sang người mua.
• Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia, phải
chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch tuỳ theo quy định, thông lệ của
mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới phải mua bảo
hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Người tham gia bảo hiểm có thể là
người mua hàng (người nhập khẩu) hay người bán hàng (người xuất khẩu).
Hợp đồng bảo hiểm thể hiện quan hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo
hiểm đối với hàng hoá được bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì
phải chuyển nhượng lại cho người mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập,
nếu bị tổn thất có thể khiếu lại đòi người bảo hiểm bồi thường.
• Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương tiện khác
nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện, trong đó có tàu biển. Người
vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người giao hàng cho người mua. Vì vậy
người chuyên chở là bên trung gian phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc hàng
hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng từ khi nhận của người bán đến khi
giao cho người mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó có bốn bên chủ
yếu là: người bán (bên xuất khẩu), người mua (bên nhập khẩu), người vận chuyển và
người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ ràng trách nhiệm của các bên liên quan
và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá các bên liên quan phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ của mình.
7/33
Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba loại hợp đồng:
-Hợp đồng mua bán
-Hợp đồng vận chuyển
-Hợp đồng bảo hiểm
Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan và
trách nhiệm này phụ thuộc điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán. Theo các điều

kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000” (International Commercial Tearms) có
mười ba điều kiện giao hàng được phân chia thành bốn nhóm E, F, C, D có sự khác
nhau về cơ bản như sau: Thứ nhất là nhóm E- quy ước người bán đặt hàng hoá dưới
quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người bán (điều kiện E- giao tại
xưởng); Thứ hai là nhóm F- quy ước người bán được yêu cầu giao hàng hoá cho một
người chuyên chở do người mua chỉ định (nhóm điều kiện F: FCA, FAS và FOB); Thứ
ba là nhóm C- quy ước người bán phải hợp đồng thuê phương tiện vận tải, nhưng không
chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do
các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng và bốc hàng lên tàu (nhóm điều kiện C: CFR,
CIF, CPT và CIP); Thứ tư là nhóm D- quy ước người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro
cần thiết để đưa hàng hoá tới địa điểm quy định (nhóm điều kiện D: DAF, DES, DEQ,
DDU, DDP). Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB, CFR và CIF.
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà
có thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều kiện giao hàng mà người
bán không có trách thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá. Như vậy, tuy
bán được hàng nhưng dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều
kiện FOB). Có trường hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu được hàng
hoá, người bán còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá
(điều kiện CIF). Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất,
vận chuyển, bảo hiểm khi giao hàng theo điều kiện nhóm C và D, bên cạnh việc bán
hàng còn giành cho họ dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm cho số hàng đó. Vì vậy, nếu
nhập khẩu hàng theo điều kiện FOB, hay điều kiện CFR thì sẽ giữ được dịch vụ vận
chuyển và bảo hiểm, hay chỉ dịch vụ bảo hiểm. Nếu trong hoạt động nhập khẩu, bán
hàng theo gía CIF, người bán cũng giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm. Như vậy
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải đường biển và ngành bảo hiểm của
quốc gia đó.
Nói chung, trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:
• Trách nhiệm của người bán (bên xuất khẩu): phải chuẩn bị hàng hoá theo đúng
hợp đồng trong mua bán ngoại thương về số lượng, chất lượng, quy cách, loại
8/33

hàng, bao bì đóng gói và tập kết hàng đến cảng tới ngày nhận, thông báo tàu
đến nhận chuyên chở, giao hàng cho tàu khi qua lan can an toàn mới hết trách
nhiệm về những rủi ro tai nạn đối với hàng hoá. Ngoài ra, người bán phải làm
các thủ tục hải quan, kiểm dịch, lấy giấy chứng nhận kiểm định phẩm chất,
đóng gói bao bì phải chịu được điều kiện vận chuyển bốc dỡ thông thường.
Cuối cùng, người bán phải lấy được vận tải đơn sạch. Nếu bán hàng theo điều
kiện CIF người bán còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho lô hàng hoá sau đó
ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người
mua.
• Trách nhiệm của người mua (bên nhập khẩu): nhận hàng của người chuyên chở
theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp
đồng mua bán ngoại thương, lấy giấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kết toán
giao nhận hàng với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây lên
(nếu có), nếu có sai lệch về số lượng hàng đã nhập khác với hợp đồng mua bán
nhưng đúng với hợp đồng vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại
đối với người bán. nếu phẩm chất, số lượng hàng hoá được nhận có sai lệch với
vận tải đơn thì người mua căn cứ vào biên bản trên bảo lưu quyền khiếu nại với
chủ phương tiện chuyên chở. Ngoài ra, người mua còn có trách nhiệm mua bảo
hiểm cho hàng hoá nếu mua hàng theo giá CF và mua bảo hiểm, thuê tàu trả
cước phí vận chuyển hàng hoá nếu mua hàng theo gía FOB hay nhận lại chứng
từ bảo hiểm do người bán chuyển nhượng nếu mua hàng theo giá CIF.
-Trách nhiệm của người vận chuyển: chuẩn bị phương tiện chuyên chở theo yêu cầu kỹ
thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định theo hợp đồng vận
chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế thì tàu chở hàng bắt buộc phải tham gia bảo
hiểm thân tàu và P and I. Người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn cho người
gửi hàng. Vận đơn (Bill of Loading) là một chứng từ vận chuyển hàng hải trên biển do
người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa người
vận chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhưng ở đây
chỉ quan tâm đến hai loại cơ bản là: vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) hay còn gọi là vận
đơn sạch và vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L). Người vận chuyển phải chịu trách

nhiệm với những rủi ro xảy ra đối với hàng hoá theo quy định và phải có trách nhiệm
bảo vệ, chăm sóc cho lô hàng hoá chuyên chở trong hành trình từ cảng đi đến cảng đích.
• Trách nhiệm của người bảo hiểm: có trách nhiệm với những rủi ro được bảo
hiểm gây ra cho lô hàng hoá tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cũng có trách
nhiệm kiểm tra các chứng từ liên quan đến hàng hoá, hành trình vận chuyển và
bản thân tàu chuyên chở. Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của
bảo hiểm, người bảo hiểm có trách nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn
thất và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này.
9/33
Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển.
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là những
tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu nhiên hoặc những mối đe doạ nguy
hại, khi xảy ra sẽ gây lên tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Ví dụ như : tàu đắm,
hàng mất, hàng bị đổ vỡ, hư hỏng Rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển
bằng đường biển có nhiều loại, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh có thể phân rủi ro thành
những loại sau:
* Thiên tai : Thiên tai là những hiện tượng tự nhiên mà con người không thể chi phối
được như : biển động, bão, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần
* Tai hoạ của biển: là những tai hoạ xảy ra đối với con tàu ở ngoài biển như : tàu bị mắc
cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, tàu bị lật úp, mất tích những rủi ro này được gọi là
những rủi ro chính.
* Các tai nạn bất ngờ khác: là những thiệt hại do các tác động ngẫu nhiên bên ngoài,
không thuộc những tai hoạ của biển nói trên. Tai nạn bất ngờ khác có thể xảy ra trên biển
nhưng nguyên nhân không phải là một tai hoạ của biển, có thể xảy ra trên bộ, trên không
trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá, giao nhận, lưu kho, bảo quản hàng như :
hàng hoá bị vỡ, lát, hấp hơi, thiếu hụt, mất trộm, mất cắp, không giao hàng những rủi
ro này được gọi là những rủi ro phụ.
* Rủi ro do bản chất hoặc do tính chất đặc biệt của đối tượng bảo hiểm hoặc những thiệt

hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm chễ.
Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì những rủi ro của hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển có thể được chia thành các loại sau đây:
* Rủi ro thông thường được bảo hiểm: là những rủi ro được bảo hiểm một cách bình
thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc. Đây là những rủi ro mang tính bất ngờ ngẫu
nhiên xảy ra ngoài ý muốn của người được bảo hiểm như: thiên tai, tai hoạ của biển, tai
nạn bất ngờ khác tức là bao gồm cả rủi ro chính và rủi ro phụ.
* Rủi ro bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà muốn được bảo hiểm thì phải thoả thuận
riêng, thoả thuận thêm chứ không được bồi thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc.
Loại rủi ro này gồm : rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố được bảo hiểm theo điều
kiện riêng.
10/33
* Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro không được người bảo hiểm nhận bảo
hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường trong mọi trường hợp. Đó là các rủi
ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản chất của hàng
hoá, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ, rủi
ro có tính chất thảm hoạ mà con người không lường trước được, quy mô, mức độ và hậu
quả của nó.
Tóm lại, các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc
phân nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác
định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất
nào có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây ra mới được bồi thường.
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển:
Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những hư hỏng, thiệt hại của hàng
hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có hai loại tổn thất là tổn thất bộ phận và tổn thất
toàn bộ:
* Tổn thất bộ phận là tổn thất mà một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một hợp
đồng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn thất về số
lượng, trọng lượng, thể tích hoặc giá trị.

* Tổn thất toàn bộ tức là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị mất
mát, hư hỏng, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới bảo hiểm
nữa. Một tổn thất toàn bộ có thể là tổn thất toàn bộ thực tế hay tổn thất toàn bộ ước tính:
- Tổn thất toàn bộ thực tế là toàn bộ đối tượng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng hay bị
phá huỷ toàn bộ, không lấy lại được như lúc mới bảo hiểm nữa. Trong trường hợp này,
người bảo hiểm phải bồi thường toàn bộ giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm.
- Tổn thất toàn bộ ước tính tức là thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm chưa tới
mức tổn thất toàn bộ nhưng đối tượng bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý vì tổn thất toàn
bộ thực tế xét ra là không thể tránh khỏi hoặc những chi phí đề phòng, phục hồi tổn thất
lớn hơn giá trị của hàng hoá được bảo hiểm. Khi đối tượng là hàng hoá bị từ bỏ, sở hữu
về hàng hoá sẽ chuyển sang người bảo hiểm và người bảo hiểm có quyền định đoạt về
hàng hoá đó. Khi đó, người được bảo hiểm có quyền khiếu nại đòi bồi thường tổn thất
toàn bộ.
Căn cứ vào tính chất tổn thất và trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất được chia làm hai loại
là tổn thất chung và tổn thất riêng:
11/33
* Tổn thất chung là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và
hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm
chung, thực sự đối với chúng. Khi xảy ra tổn thất chung chủ hàng và người bảo hiểm
phải điền vào Bản cam đoan, Giấy cam đoan đóng góp vào tổn thất chung. Bản cam
đoan, Giấy cam đoan này được xuất trình cho chủ hàng hoặc thuyền trưởng khi nhận
hàng. Nội dung nói chung khi xảy ra tổn thất chung người được bảo hiểm phải báo cho
công ty bảo hiểm biết để công ty hướng dẫn làm thủ tục không tự ý ký vào Bản cam
đoan.
* Tổn thất riêng: là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hay một số quyền lợi của các chủ
hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng chỉ liên quan đến từng quyền
lợi riêng biệt. Trong tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát sinh các chi phí liên
quan nhằm hạn chế những thiệt hại khi tổn thất xảy ra, gọi là tổn thất chi phí riêng. Tổn
thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hoá để giảm bớt thiệt hại hoặc để khỏi
hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp, dỡ, gởi hàng, đóng gói lại, thay thế bao bì ở bến

khởi hành và dọc đường. Chi phí tổn thất riêng làm hạn chế và giảm bớt tổn thất riêng,
tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận hoặc là tổn thất toàn bộ. Tổn thất riêng có được
người bảo hiểm bồi thường hay không phụ thuộc vào rủi ro có được thoả thuận trong
hợp đồng bảo hiểm hay không chứ không như tổn thất chung.
12/33
Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng
hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm
đối với những rủi ro tổn thất của đối tượng bảo hiểm. Vì vậy, phạm vi trách nhiệm của
người bảo hiểm phụ thuộc vào các điều kiện bảo hiểm mà các bên thoả thuận trong hợp
đồng.
Trách nhiệm của người bảo hiểm đối với hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm gốc của
Việt Nam được quy định theo bản Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển năm 1990 do Bộ Tài chính ban hành. Quy tắc này được
xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC ngày 1/1/1982 của Viện những người bảo hiểm
London (Institute of London Underwriters - ILU). Vì các điều kiện này được áp dụng ở
hầu hết các nước trên thế giới thay thế các điều kiện cũ ICC-1963 và trở thành tập quán
thông dụng quốc tế. Nó bao gồm các điều kiện sau:
- Institute cargo clauses C (ICC-C) - điều kiện bảo hiểm C
- Institute cargo clauses B (ICC-B) - điều kiện bảo hiểm B
- Institute cargo clauses A(ICC-A) - điều kiện bảo hiểm A
- Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh
- Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công
Điều kiện bảo hiểm C (ICC- C).
Rủi ro được bảo hiểm :
- Cháy hoặc nổ;
- Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp;

- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm và phải bất kỳ vật
thể gì bên ngoài không kể nước hoặc bị mất tích;
13/33
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn;
- Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc bị trật bánh;
- Hy sinh vì tổn thất chung;
- Ném hàng khỏi tàu.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
- Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định bằng hợp đồng vận tải
hoặc theo luật lệ và tập quán hiện hành;
- Những chi phí và tiền công hợp lý cho việc dỡ hàng lưu kho và gửi tiếp hàng hoá được
bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro thuộc phạm
vi hợp đồng bảo hiểm;
- Những chi phí mà người được bảo hiểm hoặc đại lý của họ đã chi nhằm phòng tránh
hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm hoặc những chi phí kiện tụng để
đòi người thứ ba bồi thường;
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản " hai bên cùng
có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.
Rủi ro loại trừ :
Trừ khi có thoả thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những mất
mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa hoặc hành động thù địch;
- Việc chiếm, bắt giữ, cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế và hậu quả của chúng;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt;
- Đình công, cấm xưởng, rối loạn lao động hoặc bạo động;
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng, người gây rối loạn lao động hoặc bạo động,
kẻ khủng bố hay hành động vì động cơ chính trị;
-Việc sử dụng các vũ khí chiến tranh có dùng đến năng lượng nguyên tử, hạt nhân hoặc
chất phóng xạ;
- Khuyết tật vốn có tính chất đặc biệt của hàng hoá bảo hiểm;

14/33
- Hành động ác ý hay cố ý của bất cứ người nào.
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những mất mát,
hư hỏng và chi phí do:
- Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm;
- Chậm chễ là nguyên nhân trực tiếp;
- Tàu hay xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương tiện vận chuyển
hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hoá mà người được bảo hiểm
hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng đó vào thời gian bốc xếp hàng hoá ;
- Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp;
- Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, dò chảy thông thường;
- Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc thuê tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về mặt tài
chính gây ra.
Điều kiện bảo hiểm B (ICC- B).
Rủi ro được bảo hiểm:
Như điều kiện C và mở rộng thêm một số rủi ro sau:
- Động đất, núi lửa phun, sét đánh;
- Nước cuốn khỏi tàu;
- Nước biển, nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng, phương tiện vận chuyển,
container hoặc nơi chứa hàng;
- Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi xếp hàng
lên hay đang dỡ hàng khỏi tàu hoặc xà lan.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện C.
Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện C.
15/33
Điều kiện bảo hiểm A (ICC- A).
. Rủi ro được bảo hiểm:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát hư

hỏng cho hàng hoá bảo hiểm trừ những rủi ro đã được loại trừ. Rủi ro được bảo hiểm
theo điều kiện bảo hiểm này bao gồm cả rủi ro chính (tàu mắc cạn, đắm, cháy, đâm va
nhau, đâm va phải những vật thể khác, mất tích ) và những rủi ro phụ( hư hỏng, đổ vỡ,
cong, bẹp, gỉ, hấp hơi, thiếu hụt, trộm cắp, không giao hàng ) do tác động ngẫu nhiên
bên ngoài trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ, giao nhận, bảo quản, lưu kho hàng hoá.
Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện B, C.
.Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện B, C; loại trừ thiệt hại do hành động ác ý gây ra.
Điều kiện bảo hiểm chiến tranh:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của hàng
hoá do:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra
từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào;
- Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các rủi ro
thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên tàu biển và kết
thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm
ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng, tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước. Nếu có chuyển tải,
bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu
đến tàu đến cảng chuyển tải.
Đối với rủi ro mìn và ngư lôi trách nhiệm của người bảo hiểm được mở rộng ra cả khi
hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng không vượt
quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận đặc biệt khác.
16/33
Điều kiện bảo hiểm đình công:
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng hoá
được bảo hiểm do:

- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn
lao động, bạo động hoặc nổi dậy;
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Ngời bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp của những người
đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hậu quả của đình công gây
ra.
Trách nhiệm của bảo hiểm về mặt không gian và thời gian:
Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng dời khỏi kho hay nơi chứa hàng tại địa
điểm có ghi trên hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong
quá trình vận chuyển bình thường và kết thúc tại một trong các thời điểm sau:
* Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận hàng hoặc một
người nào khác tại nơi nhận có ghi tên trong hợp đồng bảo hiểm;
* Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi tới hay tại nơi
nhận hàng ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm dùng làm:
- Nơi chia hay phân phối hàng hoặc
- Nơi chứa hàng ngoài hành trình vận chuyển bình thường.
* Khi hết hạn 60 ngày kể từ khi hoàn thành việc dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ cuối
cùng ghi trên đơn bảo hiểm.
Trong quá trình vận chuyển nói trên nếu xảy ra chậm chễ ngoài sự kiểm soát của người
được bảo hiểm, tàu đi chệch hướng dỡ hàng bắt buộc, chuyển tải ngoại lệ hoặc thay đổi
hành trình thì hợp đồng bảo hiểm vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều kiện người được bảo
hiểm phải thông báo cho người bảo hiểm biết về việc xảy ra và phải trả thêm phí bảo
hiểm nếu có yêu cầu.
17/33
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
Khái niệm:
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một văn
bản trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các

tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người tham gia bảo
hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
Các loại hợp đồng:
Trong hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển người
ta chia ra làm hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng
bảo hiểm bao:
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng đợc vận
chuyển từ địa điểm này đến một địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo
hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm
chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo
hiểm do người bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến
đầy đủ. Nội dung gồm hai phần: mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước
thường ghi các chi tiết về hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay các
quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm chuyến chủ
yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm và nơi ký kết hợp đồng bảo hiểm;
- Tên, địa chỉ, số tài khoản của người bảo hiểm và người được bảo hiểm;
- Tên hàng hoá được bảo hiểm, quy cách, số lợng, chủng loại ;
- Tên tàu, số hiệu, cờ, dung tích của tàu vận chuyển ;
- Cảng khởi hành, cảng đích, cảng chuyển tải (nếu có);
- Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm;
- Giám định viên và phương thức bồi thường.
v v
18/33
Hợp đồng bảo hiểm chuyến có thể là hợp đồng hành trình, hợp đồng thời gian, hợp đồng
hỗn hợp, hợp đồng định giá hoặc hợp đồng không định giá. Hợp đồng bảo hiểm chuyến
thường dùng bảo hiểm cho những lô hàng nhỏ, lẻ tẻ, không có kế hoạch chuyên chở
nhiều lần.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (Hợp đồng bảo hiểm mở): là hợp đồng bảo hiểm trong đó
người bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến

kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc nhận bảo hiểm
cho một khối lượng hàng hoá vận chuyển nhất định không kể đến thời gian. Tất cả các
chuyến hàng thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm bao đều được bảo hiểm
một cách tự động, linh hoạt và phí bảo hiểm thường được trả theo thời gian thoả thuận,
thường là theo tháng.
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm bao gồm các vấn đề chung nhất, có tính nguyên tắc
như: nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, việc đóng gói hàng, loại phương tiện vận
chuyển, Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và phương thức thanh toán
phí, giám định, bồi thường Trong hợp đồng phải có ba điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ đợc bảo hiểm
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Người bảo hiểm đảm bảo thu được một khoản phí bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm.
Người được bảo hiểm vẫn được người bảo hiểm chấp thuận bảo hiểm ngay cả khi hàng
đã xếp lên tàu vận chuyển rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm
bao dùng để bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu thường xuyên khối lượng lớn vận
chuyển làm nhiều chuyến. Điều khoản huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm quy định cho phép
một bên có thể huỷ bỏ hợp đồng hoặc bất kỳ một phần nào của hợp đồng với điều kiện
phải thông báo trước (thường là 30 ngày).
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được in sẵn thành mẫu thường bao gồm 2 mặt: mặt trước gồm các
thông tin về người bảo hiểm, người được bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm; mặt sau in
sẵn các quy định cơ bản về bảo hiểm. Mẫu của các nước khác nhau có thể khác nhau
song hiện nay hầu hết các nước, các công ty đều sử dụng mẫu đơn bảo hiểm của Hiệp
hội bảo hiểm London từ tháng 4 năm 1982 theo quy định của ICC-1982. Nội dung của
hợp đồng bảo hiểm bao gồm:
19/33
- Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản ở ngân hàng của người bảo hiểm và người được bảo
hiểm.

- Tên hàng hoá được bảo hiểm, số lượng, trọng lượng, loại bao bì, cách đóng gói
- Loại tàu chuyên chở: tên tàu, tuổi tàu, cờ tàu, trọng tải, dung tích
• Các xếp hàng lên tàu
• Nơi đi, nơi đến, nơi chuyển tải
• Ngày gửi hàng
• Thời gian khởi hành và thời gian cả hành trình
• Điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
• Nơi giám định tổn thất, nơi thanh toán bồi thường
• Ký tên, đóng dấu.
Những nội dung trên được ghi tóm tắt trên đơn bảo hiểm cấp cho mỗi chuyến hàng tham
gia bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm còn ghi các điều khoản về quyền và trách
nhiệm của mỗi bên. trong đó có một số nội dung cơ bản như sau:
Giá trị bảo hiểm .
Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế của lô hàng.Giá trị thực tế của lô hàng có thể là giá
hàng hoá (giá FOB) cũng có thể bao gồm: giá hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí bảo
hiểm và các chi phí liên quan khác. Công thức xác định:
V = C + I + F
Trong đó: V- là giá trị bảo hiểm của hàng hoá
C- là giá hàng tại cảng đi (giá FOB)
I- là phí bảo hiểm
F- là cước phí vận tải
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi của mình, người được bảo hiểm có thể bảo hiểm thêm
cả khoản lãi dự tính do việc xuất nhập khẩu mang lại. Khi xuất nhập khẩu theo giá CIF
hoặc CIP thì theo tập quán giá trị bảo hiểm sẽ tính thêm 10% lãi dự tính. Như vậy khi
xuất nhập khẩu theo giá CIF thì:
V = 110% * CIF
hoặc xuất theo giá CIP thì:
20/33
V = 110% * CIP
CIF =

C + F
1 − R
Trong đó: R - tỷ lệ phí bảo hiểm .
Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là toàn bộ hay một phần giá trị bảo hiểm do người được bảo hiểm yêu
cầu và được bảo hiểm.
Về nguyên tắc, Số tiền bảo hiểm chỉ có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Nếu
số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn đó sẽ không được bảo hiểm.
Ngược lại, nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm
tự bảo hiểm lấy một phần thì người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền
bảo hiểm đã được ghi trong hợp đồng. Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng,
tức là cùng một rủi ro, một giá trị bảo hiểm nhưng lại được bảo hiểm ở nhiều công ty
bảo hiểm khác nhau thì trách nhiệm của tất cả các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn
trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Trong xuất nhập khẩu nếu số tiền bảo hiểm chỉ bằng giá
trị hoá đơn hay giá FOB hoặc giá CFR thì người được bảo hiểm chưa bảo hiểm đầy đủ
giá trị hay nói cách khác là bảo hiểm dưới giá trị.
Phí bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho người bảo hiểm
để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro đã thoả thuận gây lên. Phí bảo hiểm
thường được tính toán trên cơ sở xác suất của những rủi ro gây ra tổn thất hoặc trên cơ
sở thống kê tổn thất của nhiều năm trên một loại hàng hoá được bảo hiểm nhằm đảm
bảo trang trải tiền bồi thường và có lãi. Như vậy phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở
tỷ lệ phí bảo hiểm và phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. Để lập công
thức tính phí bảo hiểm cần có các chỉ tiêu sau:
R : là tỷ lệ phí bảo hiểm
I : là phí bảo hiểm
A : là số tiền bảo hiểm
V : là giá trị bảo hiểm
Thì : I = R * A (nếu A < V)
Hoặc I = R * V (nếu A = V)

21/33
Đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam hiện nay thì phí bảo hiểm được tính theo
công thức sau: I = R * CIF
Do CIF = C + I + F = C + ( R * CIF ) + F
CIF =
C + F
1 − R
Nên :
Đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam theo giá CIF và mua bảo hiểm trong nước thì:
A =
C + F
1 − R
∗ (1 + a)
Trong đó: a là phần trăm lãi dự tính và thường bằng 10% của số tiền bảo hiểm hoặc giá
trị bảo hiểm.
Ngoài ra, để lập bảng chào phí người bảo hiểm còn phải tính đến các yếu tố khác như:
-Loại hàng hoá: hàng hoá dễ bị tổn thất như dễ đổ vỡ, dễ bị mất cắp thì tỷ lệ phí bảo
hiểm cao hơn
-Loại bao bì, phương thức đóng gói hàng hoá
-Phương tiện vận chuyển: xem xét một số chi tiết liên quan đến tàu vận chuyển như tên
tàu, quốc tịch, loại tàu, tuổi tàu
-Hành trình vận chuyển và các thiết bị cảng tại các cảng tàu cập bến
-Điều kiện bảo hiểm càng rộng thì rủi ro càng nhiều do đó phí bảo hiểm tăng lên.
Tỷ lệ phí bảo hiểm thường xuyên được xem xét, điều chỉnh lại một cách định kỳ trên cơ
sở những hậu quả tổn thất cuả người được bảo hiểm trong kỳ trước cũng như tình hình
thực tế. Điều này được gọi là định phí theo kết quả, vì vậy để giữ được tỷ lệ phí thấp
việc đề phòng và hạn chế rủi ro gây ra tổn thất là rất quan trọng.
Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, người bảo hiểm
có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không thực hiện đúng
nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra.

22/33
Khiếu nại đòi bồi thường trong bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Khi phương tiện chuyên chở bị tai nạn và đe doạ đến sự an toàn cho hàng hoá của người
được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan
chức năng nơi gần nhất như cơ quan hàng hải, cơ quan bảo hiểm để các cơ quan này
có biện pháp phối hợp theo dõi, phòng bị cho tàu và hàng hoá. Nếu được thông tin hay
phát hiện thấy thực tế hàng hoá bị tổn thất thì người được bảo hiểm cần làm ngay các
công việc sau:
-Thông báo cho người bảo hiểm biết và nếu thấy tình hình hàng hoá tổn thất hoặc nghi
ngờ có tổn thất thì cần làm giấy yêu cầu đề nghị người giám định ngay. Việc giám định
hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất phải do người bảo hiểm tiến hành theo đơn đề nghị
của người được bảo hiểm. Nếu vụ tổn thất không được giám định viên của người bảo
hiểm giám định thì sẽ không được chấp nhận bồi thường.
- Thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Thực ra, việc đề phòng và hạn
chế tổn thất cho hàng hoá nói chung trong hợp đồng bảo hiểm là để chỉ những trường
hợp hàng hoá bị rủi ro (thuộc phạm vi bảo hiểm như: cháy, nổ, mắc cạn ) đe doạ tàu
khi tàu chở hàng đang trên đường hành trình hoặc neo đậu tại bến cảng dọc đường.
• Bảo lưu quyền khiếu nại cho người bảo hiểm tức là đơn khiếu nại ngay bên gây
ra tổn thất hàng hoá và gọi là khiếu nại người thứ ba, người đứng ngoài hợp
đồng bảo hiểm. Ở đây cần lưu ý nếu người thứ ba là chủ tàu, người chuyên chở
hoặc chủ kho hàng đều có quy định riêng về thời gian cho phép khiếu nại theo
luật trong nước, luật quốc tế hay các văn bản dưới luật.
Việc bảo vệ tài sản trước những tình huống có nguy cơ thuộc phạm vi trách nhiệm của
hợp đồng bảo hiểm đều đòi hỏi sự nỗ lực của cả hai bên và khi đó chưa cần xét đến
biện pháp giải quyết bồi thường của người bảo hiểm. Xuất phát từ những đặc điểm này,
người bảo hiểm có quy định việc người bảo hiểm tham gia vào các biện pháp cứu hộ và
bảo vệ hàng hoá đều không thể coi là dấu hiệu của sự khước từ hay chấp nhận việc từ

bỏ hàng hoá.
23/33

×