Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

10 năm sau cuộc khủng hoảng sự cải cách tài chính của thái lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.33 KB, 17 trang )

10 năm sau cuộc khủng hoảng : Sự cải cách tài chính
cuả Thái Lan.
1 – Bài dịch :
10 năm sau cuộc khủng hoảng: Sự cải cách hệ thống tài chính của Thái Lan
Lukas Menkhoff, Uibniz Universitaet Hannover Germany
&
Chodechai Suwanaporn, Ministry of Finance, Thailand
(L M, ĐH Leibniz Hannover of Đức & C.S, Bộ TC của Thái Lan)
Bài thảo luận 356
T01 2007
ISSN: 0949-9962
Trích yếu / Trích dẫn.
Bài báo này sử dụng bối cảnh sự phát triển của hệ thống tài chính dài hạn
để mô tả và đánh giá tiến trình cải cách ở Thái Lan sau năm 1997. Các cuộc cải
cách tài chính hiện tại thì tốt như khuôn mẫu của sự phát triển tài chính được tìm
thấy trong lý thuyết văn chương. Một bản phân tích chi tiết về thị trường vốn, đặc
biệt là các thể chế và các luật lệ giám sát, gần đây đã chỉ ra về các tiến bộ và các
sự phát hành rộng khắp. Sự gia tăng nhanh chóng của các thể chế hệ thống tài
chính phi ngân hàng có thể đáp ứng như một ví dụ điển hình của thị trường (dẫn
đến sự đòi hỏi động cơ) thích hợp với chính sách hành động.
Nói chung việc xây dựng các thể chế tài chính hiện đại và tinh vi thì được
tiến hành và điều này có thể được xem như là sự kiềm chế sáng kiến của nhân loại.
* Chúng tôi vô cùng cảm ơn Trung tâm Hito – Nomcora JAU đã giúp đỡ chúng
tôi trong việc đưa ra các nhận xét về hệ thống cải cách tài chính và các chính sách
tiền tệ ở Châu Á, đặc biệt là nhà phê bình Hidennobu Okuda.
I/ Phần giới thiệu
Thái Lan đã có một đường lối phát triển kinh tế tụt hậu trong thời gian dài.
Các tỉ lệ tăng trưởng hàng năm trong suốt 5 năm (từ 2002 – 2006) trung bình
khoảng hơn 4,5% và các tỉ lệ này đã làm cho nền kinh tế Thế giới tăng trưởng
thêm khoảng 3-4% trong suốt thời kỳ đó (số liệu tính toán thật theo đầu người). Vì
vậy, Thái Lan đã cố xoay sở để vượt qua sự sụt giảm gây ra bởi cuộc khủng hoảng


tài chính Châu Á và lấy lại vị thế của nó sớm hơn với nền kinh tế tăng trưởng
nhanh.
Tiến trình phát triển của tham vọng này bao gồm một cuộc cải cách liên tục
của lĩnh vực tài chính của Thái Lan. Thật vậy, chúng ta có thể chỉ ra rằng giai
đoạn mà các cuộc cải cách tài chính được thực hiện bởi các điều kiện cần thiết của
cuộc cải cách khủng hoảng được tiến hành và đó là lúc quốc gia sẽ trở lại với tình
trạng “bình thường”. Tuy nhiên tình trạng “bình thường” này không có nghĩa là “
không thay đổi” như nền kinh tế của Thái Lan đang cải cách với tốc độ cao. Tốc
độ tăng trưởng cao ngầm hiểu là tiếp tục những thay đổi cấu trúc và một trong
những phần quan trọng đó là sự thay đổi của hệ thống tài chính. Các địa chỉ trong
bài báo này, hệ thống tài chính này thay đổi chủ yếu tập trung vào quan điểm
chính sách, sự xao lãng ,động lực có giới hạn của các thể chế đơn giản.
Hơn nữa, chúng ta sử dụng lý thuyết vĩ mô trong sự phát triển hệ thống tài
chính như một khuôn mẫu để mô tả và đánh giá tiến trình cải cách ở Thái Lan sau
năm 1997.
Diễn biến của tiến trình cải cách này, phải phù hợp với viễn cảnh trình độ
nhận thức các bước đi chính yếu trong quá trình cải cách hiện tại của Thái Lan.
Phần lớn các cuộc cải cách thì rập khuôn theo mẫu của sự phát triển tài chính được
tìm thấy trong lý thuyết văn chương. Tuy nhiên, cái khuôn mẫu khá chung này cần
nhiều nguồn cung cấp để đưa ra cho phù hợp với cuộc cải cách chi tiết và đúng
luật. Chúng ta thảo luận việc ban hành chính sách trong khía cạnh cụ thể này:
Trong suốt giai đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế Thái Lan, vai trò
của các thể chế tài chính phi ngân hàng trở thành một vấn đề hết sức quan trọng.
Đó là lý do tại sao chúng ta tập trung vào khía cạnh sẽ nhận được thêm sự chú ý
trong suốt thập niên tới. Sự tập trung này phục vụ cho mục đích thứ hai là, khi sự
tập trung đó là điển hình cho cuộc đua giữa việc ưu tiên quản lý bắt buộc thị
trường năng động và việc được quyền thi hành mục đích đảm bảo cho một hệ
thống luật lệ nhất quán với lĩnh vực tài chính. Một sự cân bằng hiệu quả của
những sự bắt buộc này sẽ giải quyết về sự thành công dài hạn của hệ thống tài
chính.

Phần còn lại của bài báo này được giới thiệu chung chung đến cụ thể và mở
rộng như sau :
- Phần 2: Viễn cảnh trong dài hạn về cấu trúc quyết định
- Phần 3: Mô tả các thước đo của cải cách khủng hoảng tài chính trong
ngắn hạn.
- Phần 4: Nhấn mạnh về trình bày các thước đo thực hiện sau đó, ví dụ đại
khái trong suốt 5 năm qua.
- Phần 5: Tiến đến đề cập sự phát triển gần đây của các thể chế tài chính phi
ngân hàng mà các thể chế này được tập trung chủ yếu vào thị trường các nhân:
khách hàng chủ yếu, vay.
- Phần 6 : Kết luận.
I/. Sự phát triển hệ thống tài chính dài hạn
1. Thời kỳ dài hạn có hiệu lực cũng như các tài liệu chứng cứ bộ phận tiêu
biểu tốt, điều đó làm cho hệ thống tài chính phát triển song hành cùng tiến bộ nền
kinh tế. Các sự thật được ước lượng bởi các bằng chứng, điều này làm cho hệ
thống tài chính phát triển thậm chí còn nhanh hơn các lĩnh vực khác của nền kinh
tế, và ở phần lớn các quyết định được chỉ ra từ sớm bởi Goldsmith (1969). Hầu hết
bằng chứng này được cung cấp trong các thời kỳ bởi các chuyên gia định giá theo
danh nghĩa phần tài chính được đặt trong mối quan hệ với GDP danh nghĩa. Tuy
nhiên, việc đó được quyết định khi sự tăng trưởng của khu vực tài chính, thật sự
được đo lường trong các thời kỳ thực, chẳng hạn như: thu nhập hay đơn giản là
con số của các chi nhánh, công ty. (Levine 1997). Vì vậy, sự tăng trưởng khu vực
tài chính cao là một bằng chứng và Thái Lan được xem như là nền kinh tế tiêu
biểu trung tâm của tiến trình năng động này.
2. Trong một vài điều tương phản giữa sự tăng trưởng tài chính và tiến bộ
nền kinh tế, việc ra đời của quy luật nhân quả đã tạo nên sự tranh luận này trong
một thời gian dài. Hiện tại đó là luật nhân quả dường như công bằng với kết luận
rằng : lực đẩy từ sự phát triển tài chính dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế và quy luật
đó thì kém hơn nhiều so với các cách khác xung quanh (Hãy xem Fase & Abma,
2003, dành cho các quốc gia ở Châu Á). Có một vài quan điểm dự đoán rằng bởi

vì vẫn còn khá nhiều điều nghịch lý và quan hệ nhân quả hai chiều được chỉ ra như
lúc đầu bởi Dematriades & Hussein (1996). Hơn nữa, kinh nghiệm của các quốc
gia (De Gregorio & Guidotti, 1995) và trong khu vực (Graff & Karmann, 2006)
chứng minh rằng sự tăng trưởng tài chính thậm chí có thể nguy hại hay ít nhất
cũng không hữu dụng cho toàn bộ sự phát triển. Vì vậy, những người ban hành
chính sách được khuyên là nên dùng đúng liều lượng cho cuộc cải cách nền kinh
tế , hoặc là không quá chú ý đến cuộc cải cách kinh tế điều này làm cho các cơ hội
tăng trưởng đi xa, hoặc là không quá cương quyết, điều này dẫn đến sự lãng phí
nguồn tài nguyên và có thể là các bước ngoặc rủi ro.
3. Các kinh nghiệm hỗn tạp cùng với các cải cách thị trường tài chính chỉ ra
rằng điều đó không chỉ là phát triển về “số lượng” mà còn phát triển “bước đi” của
sự phát triển. Ngược lại việc cung cấp bằng chứng là một quan điểm khởi đầu hữu
ích cho việc thiết kế các thước đo chính sách riêng.
Một sự tiên lượng đầu tiên được đạt tới là từ Levine (1997), người đã phân
chia các quốc gia thành ba mức thu nhập và mô tả trung bình về cấu trúc khu vực
tài chính tại 3 mức thu nhập này. Số 1: tái sản xuất các yếu tố chính bên trong và
chỉ ra rằng các ngân hàng trung ương trở nên kém quan trọng hơn trong suốt thời
gian qua, các ngân hàng thương mại đạt được 1 cái gì đó, thị trường chứng khoán
cũng đạt được như vậy và các thể chế phi tài chính phát triển nhanh nhất.
4. Câu hỏi gia tăng nơi nền kinh tế có thu nhập trung bình như Thái Lan
nên được đặt trong sự phân loại chính xác hơn. Nếu chỉ lấy về phương diện thu
nhập của Thái Lan thì điều này sẽ làm cho Thái Lan gần hơn với các quốc gia có
thu nhập thấp. Tuy nhiên, một số có thể tranh cãi rằng đây chỉ là do đường lối sai
lầm dành cho hệ thống kinh tế mới nổi lên mà hệ thống đó chỉ ra các khía cạnh của
sự phát triển gấp đôi. Các khu vực rộng lớn của hệ thống kinh tế Thái Lan cạnh
tranh với các công ty hoặc các tổ chức nước ngoài ở mức độ cao hơn là được chỉ
ra bởi thu nhập trung bình của Thái Lan. Hãy xem ví dụ vùng công nghiệp Great
Banhkok, đây là hệ thống kinh tế nối biên giới các quốc gia thu nhập thấp của
châu Âu. Thứ 2, việc xem xét cẩn thận sự cân nhắc này quyết đinh rằng việc đặt
Thái Lan tại cái gờ đối với các quốc gia thu nhập cao. Điều này ngụ ý rằng chúng

ta mong đợi một tiến trình cải cách mà cuộc cải cách đó sẽ làm phát triển các ngân
hàng thương mại nhưng lại đặt chú trọng hơn vào sự phát triển của thị trường
chứng khoán. Kết quả thu lại hệ thống kinh tế thu nhập trung bình thấp, cũng như
vào sự phát triển của các cơ quan phi ngân hàng, trở thành một vấn đề của hệ
thống kinh tế thu nhập cao hơn.
5. Một quá khứ bên trong từ văn chương phát triển tài chính, thêm vào “số
lượng” và “bước đi” là các thể chế của sự phát triển, ví dụ như vai trò trung tâm
của chất lượng cơ quan. Cái gì sẽ xâm nhập vào tiến trình phát triển nói chung, ví
dụ như tầm quan trọng quyết định của việc hoạt động các thể chế, nắm giữ khu
vực tài chính (K & S, 1994). Trong tiến trình thời kỳ quá độ dài đối với việc hoạt
động các thị trường tài chính, các thể chế cần thiết phải được xây dựng, (bao gồm
cả các thể chế tài chính cốt lõi) mấu chốt, chẳng hạn như các ngân hàng thương
mại, các thị trường vốn, … càng tốt càng có kết quả tất yếu, ví dụ như các chuyên
gia quan sát, các tiêu chuẩn kế toán tin cậy hay các quyết định về vỡ nợ.
6. Thật vậy chúng ta sẽ thấy rằng, cả ba mức độ thị trường vốn, phi ngân
hàng và sự phát triển các thể chế trong nền kinh tế của Thái Lan đều quan trọng
trong tiến trình cải cách hiện tại của Thái Lan. Trước khi chúng ta thảo luận những
vấn đề này trong những phần sau, trước hết chúng ta tổng lược ngắn gọn 1 vài cải
cách khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á.
III. Nghị quyết cải cách khủng hoảng tài chính ở Thái Lan:
1. Phần này cung cấp bằng chứng rằng các thước đo được dùng để phân
tích cải cách tài chính của Thái Lan năm 1997 đã thành công và cung cấp một nền
tảng vững chắc cho những hoài vọng cải cách cao hơn theo sau đó.
2. Việc bắt đầu cải cách với một sự mất giá trầm trọng của đồng Baht Thái
Lan vào tháng 7/1997 đã dẫn đến một sự khủng hoảng tài chính càng thêm trầm
trọng trong vòng một vài tháng. Tỉ giá và thị trường chứng khoán sụp đổ, hầu hết
các thể chế tài chính đều đóng cửa, tất cả các thể chế tài chính thực sự bị sụp đổ,
nó đã đi đến một sự đi vay và nền kinh tế suy giảm 10% trong năm 1998. Điều cốt
lõi của các thước đo trực tiếp đã nhắm mục tiêu tiếp tục phần tài chính hiện có:
- Thứ nhất, tình trạng ổn định khu vực bằng việc đảm bảo hầu hết các khoản tiền

gửi và thêm vào đó là sự hiện hữu của hệ thống ngân hàng. Thước đo khẩn cấp
này đã nền tảng cho các kế hoạch sau đó để kết thúc việc không thực hiện khoản
vay tích lũy (NPL) với sự giúp đỡ của cơ cấu giải hiện các quyết nợ xấu (cái gọi là
tài sản tập đoàn quản lý) và một sự cải cách vốn của các thể chế tài chính.
- Thứ 2, chỉ ra kết quả của các thước đo này, ví dụ: sự hoàn trả của tỷ lệ không
thực hiện các khoản vay thành 1 dấu hiệu quy ước mức độ chung khoảng 10% vào
cuối năm 2001 và sau đó.
Thước đo thứ hai, ví dụ như sự đóng kín cuộc biểu quyết của các thể chế tài
chính (và thường có sự liên kết của nhiều thể chế) đã giúp cho việc giảm số lượng
các thể chế tài chính một cách đáng kể. Ngược lại, số lượng hầu hết chi nhánh của
các tổ chức tài chính, các ngân hàng thương mại và số lượng của nhóm quan trọng
thứ hai trước đây (trong thời kỳ của tư sản), các công ty tài chính, đã giảm một
cách đáng ghi nhận từ 91 xuống 7. Vì vậy, ngày nay có ít các tổ chức tài chính hơn
nhưng quy mô lớn hơn trước cuộc khủng hoảng.
- Thứ 3, chính phủ khuyến khích các ngân hàng nước ngoài một cách rõ ràng
công khai tham gia một cách chủ động hơn vào khu vực tài chính Thái Lan để làm
ổn định và xúc tiến kỹ thuật đi lên. (Okuda & Rungsomboan, 2006). Trước khi
khủng hoảng, các chứng nhận ngân hàng cho người nước ngoài là có giới hạn một
cách chặt chẽ cũng như là sự sắp xếp của họ về các hoạt động, mà các hoạt động
này ảnh hưởng giới hạn sự chia sẻ của các ngân hàng nước ngoài về tài sản Tài
chính là 5%. Ngược lại, con số này hầu như không thay đổi trong hơn thập niên
qua, các ngân hàng nước ngoài hiện tại được phép mua cổ phần của các ngân hàng
trong nước để gia tăng danh mục vốn được nắm giữ trong khu vực tài chính (tăng
từ 25%  49%) và để vận hành điều đó cùng với hoạt động của ngân hàng của họ
một cách không giới hạn. Tóm lại, các thể chế nước ngoài chống lại một thị trường
chia xẻ hơn 15% và sự ảnh hưởng của họ đối với hệ thống tài chính Thái Lan thì
thậm chí mạnh hơn lúc trước.
Có nhiều thước đo đã được báo cáo tại đây nhưng tập trung thì không chỉ là
sự khủng hoảng cách quản lý (1 TC chi tiết hơn được cung cấp bởi M… 2003). Vì
vậy, chúng ta trình bày một cách trực tiếp kết luận rằng cách bày tỏ ra ngoài của

sự khủng hoảng có thể được mô tả từ kỷ nguyên mới của việc gia tăng ghe có số
lượng được bắt đầu năm 2002 (xem phần 3) chúng ta nắm lấy điều này như là
điểm bắt đầu để tiến đến các bước cải cách cuối cùng lâu dài, mà đièu này đã được
vạch ra từ trước.
IV. Cải cách hệ thống tài chính hiện đại
Phần này mô tả và trình bày các cải cách hệ thống tài chính đã xảy ra trong
suốt 5 năm qua, ví dụ từ khi tiến hành đến sau cuộc cải cách và đang tiếp tục xảy
ra trong những năm tới. Hầu hết các sự thay đổi này đã được gạch bỏ trong kế
hoạch cấp cao khu vưc tài chính (FSMP), điều mà đã phát triển trong năm
2002/2003 và tiến đến gần năm 2004,. Tuy nhiên, chúng ta tổ chức cuộc thảo luận
theo ba phần của cấu trúc đã được giới thiệu ở phần 2, cụ thể là phần SUB IV.1 
IV.3 và thêm một phần Sub_IV.4 vào cuộc cải cách để các dịch vụ tài chính như
đặt ra kế hoạch cấp cao phần tài chính của năm 2004
IV.1 Thị trường vốn
Động cơ thúc đẩy Thái cho phép xúc tiến sự phát triển của thị trường vốn
trong quốc gia là gấp đôi trong suốt thập niên qua.
- Thứ 1 nó theo trật tự của sự phát triển tài chính dài hạn như đã tranh luận
trước đó ( ); ít được biết một cách cụ thể rằng sự phát triển của thị trường vốn
thúc đẩy thêm vào sự phát triển của ngân hàng.
- Thứ 2, các hệ thống tài chính đa dạng thì càng thêm vững chắc vào sự hiện
diện của cú sốc. Thêm vào đó, hai kế hoạch cấp cao của thị trường vốn đã
được thiết lập, một là vào năm 2001, kéo dài trong thời kỳ 2002-2005 và thứ
hai là vào năm 2006 kéo dài mãi đến năm 2010.
Điều thiếu sót được nhận biết trong kế hoạch có liên quan một phần đến
tính công bằng của thị trường Thái Lan, con số giới hạn của các Xí nghiệp được
liệt kê và số lượng mua bán nhỏ… Nhiều thước đo đã được sử dụng để gia tăng
các thể chế và để làm cho thị trường vốn càng thêm thu hút người phát hành và
các nhà đầu tư. Từ đó đến nay, những sáng kiến của kế hoạch thứ I dường như đã
thành công ở một mức độ như sự mong đợi mà người đưa ra số lượng trình bày.
Con số thứ 4, so sánh với những người chỉ ra cho năm 2000, chẳng hạn như

nền tảng khi kế hoạch được thiết lập, vào năm 2005 và khi kế hoạch đã được thực
hiện một cách hoàn toàn. Mặc dù sự thành công này rõ ràng đã nhiều hoặc ít quay
trở lại tình huống trước đây của cuộc khủng hoảng khi thị trường công bằng đã có
một tầm quan trọng tương tự với tài chính của công ty. Tóm lại,nó là kế hoạch thứ
2 dưới sự thi hành đầy đủ ngay sau đó phần mà là nhắm vào một tiến trình bao
hàm toàn diện hơn.
Một phần chính sự đẩy mạnh của kế hoạch này là tiến đến một điểm xa hơn
sự phát triển thị trường công bằng. mặc dù thị trường trái phiếu của Thái Lan đã
đạt được một vài số lượng sau cuộc cải cách, điều này phản ánh một sự phát triển
xa hơn như ngân sách công cộng thiếu hụt được tài trợ (ngược lại, đã có một
nguồn bổ sung hơn là cung cấp trước khi khủng hoảng). Tóm lại, điểm chính tập
trung là vào sự phát triển của tập đoàn thị trường nghiên về mặt lợi tức, cái mà quy
mô của nó đã giảm hơn 15% so với thị trường công bằng. Điều tập trung thứ 2 là
nhắm vào sự gia tăng chia xẻ của các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng
khoán, cái mà khi 1 nguyên nhân của trạng thái lỏng thấp (1cách công bằng là nắm
giữ hơn 70%). Điều này đã được phản ánh bởi 1 sự tập trung thứ 3, nghĩa là để
gia tăng cổ phiếu có lợi nhuận thấp của việc mua bán có tính chất là công cụ trong
thị trường công bằng và vì vậy, để giảm mối quan hệ liên quan quan trọng của các
nhà đầu tư cá nhân. Ngay sau đó, việc mua bán có tính chất là bộ phận của thị
trường chiếm 10%, trong khi các cá nhân trong nước là 60% ( người nước ngoài
chiếm phần còn lại ). Theo kinh nghiệm học hỏi đã chỉ ra rằng : các cá nhân đầu
tư có xu hướng đầu tư với việc trao đổi sôi động. Cuối cùng, ¼ sự tập trung là để
cải tiến sự thiếu hụt các công cụ làm nhẹ rủi ro.
Chính sách của Thái Lan đã bắt đầu các chương trình huấn luyện, đã thiết
lập thuế động viên và đã có giới thiệu sự điều chỉnh các thước đo xa hơn để đạt
được những kết quả này. Để làm tăng thêm vị cho tính quyết định của chính sách
và thước đo, chúng ta chú ý rằng – với chi tiết cụ thể về sự tập trung thứ 2 ở trên
của thị trường tài chính, thị trường vốn kế hoạch cấp cao II- các cá nhân đầu tư
người mà kinh doanh trên việc tạo ra cổ phiếu trao đổi đầu tư sớm nhất ( BEX) sẽ
được miễn trừ thuế lợi ích vốn.

Mọi kết quả có thể có trong nhiều năm tới, chúng ta kết luận rằng, giờ đây
hệ thống tài chính của Thái Lan đã trở nên đa dạng hóa hơn trong suốt lịch sử vừa
mới qua ( Figure 5). Càng nhiều cấu trúc tài chính cân bằng được xây dựng theo
hướng một cách vững chắc, càng nhiều hệ thống tài chính ổn định có thể tốt hơn
để chống lại các cú sốc.
IV.2. Các thể chế tài chính đặc biệt :
Tính khẩn cấp của các thể chế tài chính được đánh giá tiến xa hơn các ngân
hàng và thị trường vốn, nó rất đặc trưng cho sự phát triển của Thái Lan. Các thể
chế này một cách đặc trưng bao gồm: phần chuyên biệt các thể chế tài chính
( SFIs), cái mà chúng ta đưa ra ở đây, của phi ngân hàng, cái mà được chi tiết ở
trang sau và của các công ty bảo hiểm – cái mà sẽ được ngoại trừ ra khỏi sự tập
trung ở đây.
Việc gia tăng tầm quan trọng của các thể chế tài chính tư nhân gần đây có
lẽ đang gây ngạc nhiên, với sự thật rằng sự phát triển tài chính đi cùng với việc
giảm sự ổn định. Câu trả lời của câu hỏi khó hiểu này là ngụ ý rằng tình trạng can
thiệp của ngân hàng trung ương có xu hướng trở thành đặc biệt hơn trong suốt thời
gian qua. Vì vậy, ngân hàng trung ương đã không trực tiếp cho vay để xác nhận lại
vai trò của các ngân hàng thương mại tư nhân là suy giảm. Tuy nhiên, nó cũng
được chấp nhận tốt rằng có một vai trò hữu ích trong việc cung cấp các dịch vụ tài
chính và chắc chắn rằng chúng đóng một vai trò trong lịch sử xã hội, nhưng chúng
không được cung cấp một cách tự động bởi khu vực tư nhân. Một điều chắc chắn
rằng để cung cấp các dịch vụ công là phải cần đến các thể chế tài chính công, nó
bổ sung cho các thể chế tài chính tư nhân.
Thêm vào đó, các thể chế tài chính của Thái Lan sẽ được đáp ứng như một
nhánh của Chính phủ phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội , cũng như bổ sung
chính xác vào các chính sách để thực hiện sự giúp đỡ tài chính chi tiết cho từng
khu vực của nền kinh tế. Với một sự sắp xếp đa dạng các dịch vụ đã cung cấp như:
ghi Có nhà ở, ghi Có cho hoạt động kinh doanh nhỏ và vừa ( SMEs), ghi Có xuất
khẩu - nhập khẩu hoặc ghi Có Vi mô, các thể chế tài chính đã có thể tiến đến các
loại khách hàng đa dạng, các nhóm tư nhân thấp chuyên nghiệp, người mà không

thể truy cập các dịch vụ của các thể chế tài chính thương mại. Xa hơn nữa, các thể
chế tài chính cũng đóng 1 vai trò chủ yếu trong việc giúp đỡ con người bị ảnh
hưởng bởi tất cả các thảm họa của thiên nhiên.
Tỷ lệ phần trăm của các khoản vay đáng chú ý của 5 thể chế tài chính chủ
yếu trong tổng số các khoản vay trong suốt 5 năm qua ( 2001 – 2006) đang được
gia tăng từ 17,5% đến 20,3%. Tuy nhiên, sự gia tăng là nhờ vào các ảnh hưởng
trước đây và các dấu hiệu cao cùng một lúc, một cách hợp lý. Các ảnh hưởng
cùng lúc là nhờ vào khủng hoảng Châu Á – cuộc khủng hoảng này: thứ nhất đã
gây thiệt hại sự tín nhiệm của các thể chế tư nhân; thứ hai là cuộc khủng hoảng
này đã gây ra một tiếng vang ghi Có, điều mà không được đặt vào các thể chế tài
chính ; và thứ 3 là sự thi hành trễ các giải pháp của Thaksin về các chương trình
ghi Có mới giữa năm 2002 và 2004. Tóm lại, có một sự lãnh đạm trong sự phát
triển vay của các thể chế tài chính (SFIs) trong suốt các năm 2005 và 2006. Về
vai trò của các thể chế tài chính trong cuộc vận động tiết kiệm, trong suốt 5 năm
qua, tỷ lệ gửi tiền vào các thể chế tài chính trong tổng số các tổ chức tài chính đã
phát triển lên từ 16,0% lên đến 17,5%. Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ đã được duy trì
trong suốt 3 năm qua.
Sau phần mở rộng này, chính sách hiện nay nhắm trực tiếp vào một vị trí,
nơi mà các thể chế này ít hay nhiều theo quan điểm chung giống nhau như các
NHTM làm.
Bộ ngoại giao chịu trách nhiệm thiết lập một tên gọi là: “ hệ thống báo cáo
và kiểm tra các thể chế tài chính” và hệ thống này yêu cầu các thể chế tài chính
cung cấp thông tin trong một cách tương tự và thường xuyên như các NHTM (điều
này được cung cấp thường xuyên bởi NHTƯ). Khi thực hiện một bước đi sự thống
nhất trong quá khứ, các thể chế tài chính được đòi hỏi để giải quyết nhiều hơn vấn
đề không thực hiện khoản vay (NPL) của chúng. Thậm chí, tỷ lệ không thực hiện
khoản vay của các thể chế tài chính SFIs đứng tại 7,6% vào cuối năm 2005 và vì
vậy trung bình thấp của các thể chế tài chính, một vài thể chế tài chính SFIs thì tốt
hơn 10%, đánh dấu một sự hành động cần thiết.
IV.3. Các thể chế hệ quả :

Tại bức tranh của Thái Lan về sự phát triển tài chính, việc giới thiệu và
chọn lọc của các thể chế hệ quả có thể được mong đợi và thực hiện, thay vì cho nó
xảy ra, chúng ta đề cập các thể chế hạt nhân trong việc mong đợi này và thảo luận
sự thay đổi trong sự điều chỉnh thích hợp về vốn chi tiết hơn.
Với sự quan tâm đến việc thiết lập và chọn lọc của các thể chế cho cuộc
khủng hoảng Châu Á đã đáp ứng như một chất xúc tác mà chất này đã làm tăng
tốc độ nâng cao chất lượng tài chính của Thái Lan. Vì vậy, việc thiếu thông tin về
việc tài trợ cho một số người vay bằng nhiều thể chế đã thúc đẩy sự thực hiện đầy
đủ của Cục Tín dụng quốc gia năm 2005. Việc quan tâm đến việc bảo hiểm tiền
gửi được bảo đảm hoàn toàn của Chính phủ, điều này là cần thiết để làm ổn định
hệ thống trong năm 1997, đang tiếp tục được thay thế bởi một phần bảo hiểm tiền
gửi trong 2007. Một bước đi chính khác sẽ được giới thiệu của việc thay thế của
NHTM đóng vai trò trong năm 1962 bởi các hoạt động kinh doanh của các thể chế
tài chính hiện đại và mở rộng ( FIBA), sự thi hành của hoạt động này thì vẫn đang
treo tại một điểm của bài viết. Các hoạt động kinh doanh của các thể chế tài chính
FIBA đã thống nhất sự giám sát của các NHTM, các công ty tài chính và các công
ty tín dụng. Nó cũng bao phủ luôn kiểm soát của các khoản vay tiêu dùng của các
thể chế tài chính phi tài chính ngân hàng. Hơn nữa, nó giới thiệu quy luật của tổ
chức Chính phủ, một lĩnh vực mà sự so sánh quốc tế chỉ ra một sự yếu kém riêng
biệt của các thể chế tài chính Thái Lan.
Cuối cùng, quy luật ngân hàng hợp tiêu chuẩn – phù hợp với Basle I và
khuôn mẫu II – đã được thi hành trong nhiều bước. Nó có lẽ cũng không quan
trọng để ghi nhớ rằng Thái Lan đã kế tục quy luật Basle I vào năm 1993, chẳng
hạn như trước cuộc khủng hoảng Châu Á bùng nổ. Một kết quả xác thực của sự
chấp nhận này là một ví dụ - tập trung vào sự nhận thức cộng đồng – rằng ngân
hàng Thái đã không nắm giữ rủi ro đồng tiền cao. Tuy nhiên, sự chấp nhận này là
một vài phạm vi của sự sai lầm, như một sự kém đa dạng hóa các công ty tài chính
đã được phép vận hành với một tỷ lệ thiếu vốn hơn các ngân hàng thông thường.
IV.4 Các hướng cho các dịch vụ tài chính
Như một hệ quả cuối cùng của sự phát triển hệ thống tài chính, cái mà

không thể liên quan đến stylized facts của sự thay đổi về mặt cấu trúc trong quá
trình phát triển đã được nêu ra ở trên. Nhà cầm quyền Thái đã nhấn mạnh “các
phương pháp để mở rộng khả năng tiếp cận tổng quát với các dịch vụ tài chính.
Động cơ thúc đẩy chính sách này gồm hai phần, để tăng hiệu quả phân phối
và để tập trung vào các doanh nghiệp . Như đã nêu trên, Thái cũng như các nước
đang phát triển đã chọn con đường phát triển đôi với khu vực Băngcốc phát triển
hưng thịnh và các vùng khác chậm phát phát triển sau. Thu nhập trên đầu người
giữa Băngcốc chênh lệch 1/10 với các vùng khác. Trong khi khoảng cách thu nhập
giữa giàu và nghèo ở các nước phát triển lại nhỏ hơn nhiều.
Sự chênh lệch giữa vùng này liên quan chặt chẽ với khoảng cách giữa nông
thôn với thành thị và nói chung có liên quan đến các doanh nghiệp khác nhau, vì
nông thôn thường có thu nhập thấp hơn. Lợi nhuận được chứng minh bởi thực tế
rằng sự phân phối thu nhập của Thái Lan đã trở nên không công bằng (Krogkaew
and kakwani 2003), mặc dù nó còn xa so với mức độ thiếu cân bằng ở châu Mỹ
latinh.
Tiếp sau các doanh nghiệp tương đồng này, có một cuộc tranh cãi về hiệu
quả phân phối tiêu chuẩn rằng cơ sở hạ tầng tài chính phải mang lại những giải
pháp đầu tư giải trợ. Paulson va Townsend (2004) đã đưa ra bằng chứng về Thái
Lan rằng các yếu tố kìm hãm chính là những giới hạn ngặt nghèo hơn đối với các
hoạt động thương mại ở vùng chưa phát triển, cụ thể là vùng Đông bắc Thái Lan.
Điều đó có nghĩa rằng việc tăng khả năng tiếp cận với dịch vụ tài chính có thể
mang lại lợi ích đôi.
Kế hoạch kiểm soát khu vực tài chính gợi ý rằng phải cải tiến cơ sở hạ tầng
tài chính theo 3 hướng. Thứ nhất hỗ trợ các ngân hàng thương mại xác định các
gia đình có thu nhập thấp. Thứ hai nâng cấp các ngân hàng nông nghiệp và nông
nghiệp liên doanh thành các ngân hàng phát triển nông thôn vững mạnh và thứ ba
hỗ trợ các tổ chức tài chính cộng đồng, ví dụ như các tổ chức tài chính vi mô. Các
chính sách này đã được khởi động nhưng không được ứng dụng triệt để. Một bước
khác tới việc mở rộng tiếp cận tới các phương tiện tài chính là ủng hộ sự cạnh
tranh và giảm sự khắc khe với những tổ chức cho vay không chính thức, có thể

thấy sự hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng sắp được đề cập ở phần
tiếp theo (tập trung hơn vào khu vực thành thị).
Trên hết, những cải cách gần đây đã đưa Thái Lan đến một trạng thái tốt
hơn nhiều về hệ thống tài chính. Sự phát triển của thị trường vốn là một hướng đi
khác, các tổ chức tài chính chuyên nghiệp hoàn thành chức năng của mình và sẽ bị
bình thường hóa trên vài khía cạnh (bị đưa vào sự giám sát và giảm bớt tầm quan
trọng). Kết quả của các chính sách cần thiết đã được thực hiện và sự tiếp cận dịch
vụ tài chính dễ dàng đã được thiết lập. Nếu không, do sự gia tăng hội nhập quốc
tế, sự tăng trưởng nhanh và nâng cấp nền kinh tế, cũng làm cho yêu cầu phát triển
hệ thống tài chính tăng theo. Ta sẽ bàn về vai trò của tổ chức tài chính phi ngân
hàng trong phần kế tiếp.
V. Vai trò của các tổ chức phi ngân hàng.
Nhìn từ hướng phát triển lâu dài, sự gia tăng vai trò của các tổ chức phi
ngân hàng là một tiến trình bình thường phản ánh viếc mở rộng và chuyên môn
hóa của các tổ chức tài chính. Vẻ hấp dẫn của Thái Lan và các quốc gia khác cho
thấy phát triển tài chính là động lực cho các tổ chức phi ngân hàng phát triển mạnh
các các chính sách quan trọng được nổi lên. Ta bàn về điều này từ tổng quát đến
cụ thể trong 3 phần nhỏ.
V1: Các tổ chức phi ngân hàng
Các thể chế tài chính phi ngân hàng (NBFIs) ở Thái Lan được định nghĩa là
các phương tiện tài chính không gửi tiết kiệm. Mục tiêu chính của họ là các khoản
cho vay,trong lĩnh vực này họ giữ vị trí quan trọng trong thị trường, cuối 2005 thị
phần của tất cả các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs kể cả các công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, các công ty phát hành thẻ gốc đóng vai trò cốt lõi là
nhóm lớn nhất của các công ty phi ngân hàng chiếm 8,1% tổng giá trị các khoảng
cho vay. (7,500 tỷ Bạt tương đương 185 tỷ USD). Do vậy ngân hàng vẫn thống trị
với thị phần 91.9%. Tuy nhiên bức tranh này bị sai lệch vì các thể chế tài chính
phi ngân hàng (NBFIs) có thị phần lớn hơn nhiều trong lĩnh vực hoạt động của họ.
Quy mô tương đối của các loại hình cho vay này tùy theo các thể chế phi ngân
hàng, mỗi cái được định hướng bởi những nhà cung cấp tín dụng tương ứng, được

biểu thị ở Figure 6 Trong khi những công ty cho thuê cung cấp các khoản cho vay
dài hạn (3-5 năm) thì 3 dạng công ty còn lại là cho vay cá nhân, thẻ tín dụng và
sản xuất cung cấp các khoản cho vay ngắn hạn
Nguyên nhân sự tăng trưởng của các thể chế tài chính phi ngân hàng
(NBFIs) có 3 điểm: có một yếu tố kéo (pull factor) khi họ hoạt động trong chỗ
trống để lại bởi các ngân hàng (đầu tư rủi ro) sau khủng hoảng tài chính Châu Á.
Chúng là lực đẩy mạnh giúp cạnh tranh với các ngân hàng nhưng without a licene
(Rajan và Zinules, 2003). Thứ 2, có một lực đẩy, khi các khoản cho vay này có
chiều hướng vượt qua sự uy tín mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng trong lĩnh vực
cho vay thế chấp (collaterized loans). Các thế chấp thường là bất động sản. Thay
vào đó thế chấp của những công ty cho vay này dựa vào hàng hóa cóa giá trị và
nguồn thu nhập của khách hàng. Thứ 3 các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs
được cho phép hoạt động thông thoáng hơn bởi các nhà cầm quyền, bất chấp sự
thiếu hụt của các luật phù hợp,vì họ mở rộng khối lượng cho vay, đặc biệt là phục
vụ đối tượng có thu nhập thấp không có khả năng tiếp cận dịch vụ cho vay của
ngân hàng và cuối cùng là họ cung cáp những lợi ích lớn hơn so với khu vực ngân
hàng.
Tuy nhiên, nguyên nhân cho sự phát triển của nhiều các thể chế tài chính
phi ngân hàng NBFIs cùng lúc sinh ra nhiều sự quan tâm. Do đó phát triển nhanh
của các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs đạt tới một giới hạn mà sự thua lỗ
thất bại của họ có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trầm trọng cho cả nền kinh tế, nên
cần có những điều luật thích hợp cho những tổ chức tài chính này. Hơn nữa, các
thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs cạnh tranh với các ngân hàng, từ góc độ
này có một sân chơi cân bằng với một gánh nặng điều tiết. Hiển nhiên rằng sự đối
xử không công bằng này nên chấm dứt. Chính phủ Thái đang có kế hoạch để quản
lý các các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs. Một điểm chuẩn có thể là khuôn
phép cho các ngân hàng, bao gồm cả vốn bắt buộc, vì các thể chế tài chính phi
ngân hàng NBFIs là các phương tiện tài chính.
Phía sau khía cạnh này, có nhiều kỳ vọng và lo lắng về sự phát triển của các
thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs mà chúng ta sẽ bàn tiếp về khoản cho vay

cá nhân.

V.2 Các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs trong thị trường cho vay cá nhân
Trong phần này ta mô tả thị trường cho vay cá nhân ở Thái và vai trò của
các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs ở đây. Trong khi một số nhà quan sát
cho rằng các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs kiếm lời từ việc phục vụ
khách hàng có thu nhập thấp, một số khác cho rằng lãi suất cao và khách hàng cần
được bảo vệ.
Tổng nợ của các hộ gia đình năm 2004 vào khoảng 2000 tỷ Baht, 31% là
khoản vay cá nhân. Tuy nhiên 2/3 được đảm bảo và thường dùng vào mục đích
thương mại. 1/3 còn lại là những khoản vay để tiêu dùng (không an toàn) thì ngân
hàng và các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs chia nhau 80-20. Tuy nhiên số
lượng khách hàng thay vì sản lượng lại là 52/48. Rõ ràng các thể chế tài chính phi
ngân hàng NBFIs rất quan trọng trong lĩnh vực này nhất là với những khách hàng
nhỏ.
Thông tin chi tiết ở table 2, thông tin dựa trên sự phân phối thu nhập (của
phần dân số cho thu nhập ổn định) và những khoản cho vay cá nhân. Bảng 2 cho
thấy các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs cung cấp những khoản cho vay
nhỏ hơn các ngân hàng trong tất cả các nhóm thu nhập và sự khác biệt này gia
tăng cho hai nhóm giàu nhất. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các ngân hàng và các
thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs không quan trọng lắm, tùy thuộc vào mức
thu nhập 15000 Baht/tháng, nên các thể chế tài chính phi ngân hàng NBFIs bổ
sung cho ngân hàng trong việc cho vay nhóm có thu nhập thấp.
Một điều thú vị khác được lấy từ số liệu các khoản vay không được thực
hiện NPL. Cột cuối cùng của bảng 2 cho thấy tổng tỉ số các khoản vay không được
thực hiện NPL (dựa trên con số khách hàng) là trung bình 5%. Tỉ số các khoản vay
không được thực hiện NPL trên khối lượng là 8,9% (một chút thấp hơn trung bình
khối tài chính năm 2004, xem Figuré 2). Con số này trở nên lợi ích hơn khi số
lượng khách hàng lớn nhất của ngân hàng rơi xuống 6,3%. Sự thể hiện đáng thất
vọng của các ngân hàng cho thấy NBFIs thu được tỉ số NPL thấp tốt hơn ngân

hàng (so sánh các nhóm thu nhập).
Tuy nhiên hoạt động của các NBFIs cũng có những mặt trái. Thứ nhất, ít
hơn 25% khách hàng của NBFIs thuộc nhóm có thu nhập ít nhất chiếm khoảng
75% dân số. Vì thế sẽ thú vị khi so sánh lợi nhuận của NBFIs với ngân hàng và
với SFIs (SFIs đang nhắm vào nhóm có thu nhập thấp). Thứ 2 lãi suất trong lĩnh
vực này rất cao 20-30% lãi suất hơi cao hơn cho các thể chế tài chính phi ngân
hàng NBFIs bởi cấu trúc của việc kinh doanh với những khách hàng nhỏ. Cuối
năm 2005, chính phủ lập lãi suất cho ngành này là 28% p.a. Thứ 3, các thể chế tài
chính phi ngân hàng NBFIs đóng góp một mức cho vay đáng kể. Bảng 2 cho thấy
khối lượng cho vay theo thứ tự thu nhập 2 tháng. Bảng này không xem xét nhiều
hộ gia đình đã vay từ nhiều nguồn.

×