Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH KẾTOÁN TÀI CHÍNH 1 SỰ THAY ĐỔI PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ XUẤT KHO ẢNH HƯỞNG ĐẾN BÁO CÁO TÀI CHÍNH (BCTC) NHƯ THẾ NÀO?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.02 KB, 13 trang )

DANH SÁCH NHÓM III
1. Huỳnh Thị kim Kha
2. Phạm Văn Kiên
3. Nguyễn Thị Lâm
4. Nguyễn Thị Lanh
5. Trần Thị Bích Liên
6. Nguyễn Thị Huê Liễu
7. Đặng Thị Linh
8. La Thị Mai Linh
9. Lâm Ái Loan
10. Trần Thị Lụa
11. Nguyễn Thị Trúc Ly
12. Trần Thị Mai
13. Nguyễn Hồng Mận
14. Nguyễn Thị Minh
15. Đinh Thị Mùi
16. Trần Thị Diễm My
17. Lê Thị Nga
18. Nguyễn Thị Thanh Nga
19. Hồ Thị Ngân
20. Võ Thị Mỹ Ngân
21. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Chủ đề:
SỰ THAY ĐỔI PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ
XUẤT KHO ẢNH HƯỞNG ĐẾN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH (BCTC) NHƯ THẾ NÀO?
I. Hàng tồn kho (HTK):
1. Khái niệm:
Hàng tồn kho là: một loại tài sản ngắn hạn vì nó thường bán
đi trong vòng 1 năm hay trong 1 chu kỳ hoạt động kinh doanh.
Hàng tồn kho gồm:


− Hàng mua đang đi trên đường
− Nguyên vật liệu
− Công cụ dụng cụ
− Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
− Thành phẩm
− Hàng hóa
− Hàng gửi bán
− Hàng hóa khoa bảo thuế
− Dự phòng giảm giá HTK
2. Phân loại HTK:
Theo qui định chuẩn mực kế toán 02: hàng tồn kho chia làm 3
loại:
−Hàng tồn kho được giữ để bán trong kỳ HĐSXKD bình
thường
−Hàng hóa đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang
−HTK sử dụng trong quá trình SXKD hoặc cung cấp dịch vụ
II. Phương pháp tính giá xuất kho:
Hàng tồn kho trong các doanh nghiệp tăng từ nhiều nguồn
khác nhau với các đơn giá khác nhau, vì vậy doanh nghiệp cần
lựa chọn phương pháp tính giá thực tế hàng xuất kho… việc lựa
chọn phương pháp nào còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của hàng tồn
kho, yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Song doanh nghiệp áp dụng phương pháp nào đòi hỏi phải
nhất quán trong suốt niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi phải giải
trình và thuyết minh, nêu rõ những tác động của sự thay đổi tới
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Để tính giá hàng tồn kho
xuất, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp
sau đây:
* Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này sản phẩm, vật tư, hàng hoá xuất kho

thuộc lô hàng nhập nào thì lấy đơn giá nhập kho của lô hàng đó
để tính. Đây là phương án tốt nhất, nó tuân thủ nguyên tắc phù
hợp của kế toán; chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế.
Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó
tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo
giá trị thực tế của nó.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này đòi hỏi những điều
kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt
hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng
tồn kho nhận diện được thì mới có thể áp dụng được phương
pháp này. Còn đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng thì
không thể áp dụng được phương pháp này.
*Phương pháp giá bình quân:
Theo phương pháp này giá trị của từng loại hàng tồn kho
được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu
kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong
kỳ. Phương pháp bình quân có thể được tính theo thời kỳ hoặc
vào mỗi khi nhập một lô hàng , phụ thuộc vào tình hình của
doanh nghiệp.
** Theo giá bình quân gia quyền cả kỳ dự trữ
Theo phương pháp này, đến cuối kỳ mới tính trị giá vốn của
hàng xuất kho trong kỳ. Tuỳ theo kỳ dự trữ của doanh nghiệp áp
dụng mà kế toán hàng tồn kho căn cứ vào giá mua, giá nhập,
lượng hàng tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ để tính giá đơn vị
bình quân:
Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ = (Trị giá thực tế vật tư, SP,
hàng hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá
nhập kho trong kỳ) / (Số lượng vật tư, SP,hàng hoá tồn đầu kỳ +
Số lượng vật tư, SP, hàng hoá nhập trong kỳ )
Chúng ta thấy rằng, phương pháp này là khá đơn giản, dễ

làm, chỉ cần tính toán một lần vào cuối kỳ. Tuy nhiên, phương
pháp này có nhược điểm lớn là công tác kế toán dồn vào cuối kỳ
ảnh hưởng đến tiến độ của các phần hành khác. Hơn nữa,
phương pháp này chưa đáp ứng yêu cầu kịp thời của thông tin kế
toán ngay tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.
** Theo giá bình quân gia quyền sau mỗi lần nhập:
Sau mỗi lần nhập sản phẩm, vật tư, hàng hoá, kế toán phải
xác định lại giá trị thực của hàng tồn kho và giá đơn vị bình quân.
Căn cứ vào giá đơn vị bình quân và lượng xuất giữa 2 lần nhập
kế tiếp để tính giá xuất theo công thức sau:
Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập = Trị giá thực tế vật tư,
SP, hàng hoá tồn kho sau mỗi lần nhập /Số lượngvật tư, SP, hàng
hoá thực tế tồn kho sau mỗi lần nhập
Phương pháp này có ưu điểm là khắc phục được những hạn
chế của phương pháp trên nhưng việc tính toán phức tạp, nhiều
lần, tốn nhiều công sức. Do đặc điểm trên mà phương pháp này
được áp dụng ở các doanh nghiệp có ít chủng loại hàng tồn kho,
có lưu lượng nhập xuất ít.
** Theo giá bình quân gia quyền cuối kỳ trước:
Dựa vào trị giá và số lượng hàng tồn kho cuối kỳ trước, kế
toán tính giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước để tính giá xuất.
Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước = Trị giá thực tế vật tư, SP,
hàng hoá tồn kho cuối kỳ trước /Số lượng vật tư, SP,hàng hoá
thực tế tồn kho cuối kỳ trước
Theo chúng tôi, phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ
tính toán nhưng trị giá hàng xuất không chịu ảnh hưởng của sự
thay đổi giá cả trong kỳ hiện tại. Vì vậy, phương pháp này làm
cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh không sát với giá
thực tế.
* Phương pháp nhập trước xuất trước(FIFO)

Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng được
mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng còn
lại cuối kỳ là hàng được mua hoặc sản xuất ở thời điểm cuối kỳ.
Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo
giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ,
giá trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở
thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
Phương pháp này giúp cho chúng ta có thể tính được ngay trị
giá vốn hàng xuất kho từng lần xuất hàng, do vậy đảm bảo cung
cấp số liệu kịp thời cho kế toán ghi chép các khâu tiếp theo cũng
như cho quản lý. Trị giá vốn của hàng tồn kho sẽ tương đối sát
với giá thị trường của mặt hàng đó. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho
trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn.
Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểmlà làm cho doanh
thu hiện tại không phù hợp với những khoản chi phí hiện tại.
Theo phương pháp này, doanh thu hiện tại được tạo ra bởi giá trị
sản phẩm, vật tư, hàng hoá đã có được từ cách đó rất lâu. Đồng
thời nếu số lượng chủng loại mặt hàng nhiều, phát sinh nhập xuất
liên tục dẫn đến những chi phí cho việc hạch toán cũng như khối
lượng công việc sẽ tăng lên rất nhiều.
*Phương pháp nhập sau - xuất trước(LIFO)
Phương pháp này giả định là hàng được mua sau hoặc sản
xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là
những hàng được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương
pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng
nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho được tính
theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ.
Như vậy với phương pháp này chi phí của lần mua gần nhất
sẽ tương đối sát với trị giá vốn của hàng thay thế. Việc thực hiện
phương pháp này sẽ đảm bảo được yêu cầu của nguyên tắc phù

hợp trong kế toán. Tuy nhiên, trị giá vốn của hàng tồn kho cuối kỳ
có thể không sát với giá thị trường của hàng thay thế.
*Phương pháp giá hạch toán.
Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng, giá cả thường
xuyên biến động, nghiệp vụ nhập xuất hàng diễn ra thường xuyên
thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều
công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch
toán hàng ngày nên sử dụng giá hạch toán.
Giá hạch toán là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử
dụng trong thời gian dài để hạch toán nhập, xuất, tồn kho hàng
trong khi chưa tính được giá thực tế của nó. Doanh nghiệp có thể
sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng hoá ở một thời điểm
nào đó hay giá hàng bình quân tháng trước để làm giá hạch toán.
Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác kế
toán nhập xuất hàng hàng ngày nhưng cuối tháng phải tính
chuyển giá hạch toán của hàng xuất, tồn kho theo giá thực tế.
Việc tính chuyển dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá
hạch toán.
Hệ số giá vật tư, SP, hàng hoá = (Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng
hoá tồn kho đầu kỳ + Trị giá thực tế vật tư, SP, hàng hoá nhập
kho trong kỳ)/(Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá tồn kho đầu
kỳ + Trị giá hạch toán vật tư, SP, hàng hoá nhập kho trong kỳ )
Sau khi tính hệ số giá, kế toán tiến hành điều chỉnh giá hạch
toán trong kỳ thành giá thực tế vào cuối kỳ kế toán.
Trị giá thực tế hàng xuất trong kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch toán
của hàng xuất kho trong kỳ
Trị giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ = Hệ số giá x Trị giá hạch
toán của hàng tồn kho cuối kỳ
Phương pháp hệ số giá cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán
chi tiết và hạch toán tổng hợp về hàng trong công tác tính giá,

nên công việc tính giá được tiến hành nhanh chóng do chỉ phải
theo dõi biến động của hàng với cùng một mức giá và đến cuối kỳ
mới điều chỉnh và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm
hàng , số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.
Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp có nhiều
chủng loại hàng và đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, giá thực tế của hàng
nhập kho luôn biến động phụ thuộc vào các yếu tố thị
trường, các chính sách điều tiết vi mô và vĩ mô, cho nên việc
sử dụng giá hạch toán cố định trong suốt kỳ kế toán là
không còn phù hợp nữa.
Các phương pháp khác nhau có ảnh hưởng khác nhau
tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính. Phương pháp
FIFO cho kết quả số liệu trong bảng cân đối kế toán là sát
nhất với giá phí hiện tại so với các phương pháp tính giá
hàng tồn kho khác vì giá của các lần mua sau cũng được
phản ánh trong giá hàng tồn kho cuối kỳ còn trị giá vốn hàng
xuất là giá cũ từ trước, phương pháp FIFO giả sử rằng giá
của hàng tồn kho đầu kỳ theo giá nhập trước và giá các lần
nhập trước trở thành trị giá vốn hàng xuất (hoặc thành chi
phí). Khi giá cả tăng lên, phương pháp FIFO thường dẫn đến
lợi nhuận cao nhất trong 3 phương pháp FIFO, LIFO và bình
quân, còn khi giá cả giảm xuống thì phương pháp FIFO cho
lợi nhuận là thấp nhất trong 3 phương pháp tính giá. Phương
pháp FIFO là một phương pháp tính giá theo hướng bảng
cân đối kế toán, vì nó đưa ra sự dự đoán chính xác nhất giá
trị hiện tại của hàng tồn kho trong những kỳ giá cả thay đổi.
Trong những kỳ giá tăng lên, phương pháp FIFO sẽ cho kết
quả thuế cao hơn bất kỳ phương pháp nào trong khi những
kỳ giá cả giảm sút thì FIFO giúp cho doanh nghiệp giảm đi

gánh nặng thuế. Song một ưu điểm lớn của FIFO là phương
pháp này không phải là đối tượng cho những qui định và
những yêu cầu của các điều khoản ràng buộc thuế như
phương pháp LIFO phải gánh chịu.
Trong phương pháp LIFO, thông thường thì số hàng tồn
cuối kỳ gồm giá gốc của những mặt hàng mua từ cũ . Khi giá
cả tăng lên, phương pháp LIFO cho số liệu trên bảng cân đối
kế toán thường thấp hơn so với giá phí hiện tại. LIFO thường
cho kết quả lợi nhuận thấp nhất trong trường hợp giá cả
tăng vì giá vốn trong phương pháp này là cao nhất và cho lợi
nhuận cao nhất khi giá cả giảm (vì giá vốn là thấp nhất).
Phương pháp LIFO thường dẫn đến sự giao động thấp nhất
về lợi nhuận báo cáo ở những nơi mà giá bán có xu hướng
thay đổi cùng với giá hiện tại của các mặt hàng tồn kho thay
đổi.
Phương pháp LIFO tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau tới
báo cáo tài chính do phương pháp này thường phản ánh số
liệu giá vốn hàng bán theo giá phí hiện hành, phương pháp
này cũng có nhiều thuận lợi thiết thực về thuế thu nhập
doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp sử dụng phương pháp
LIFO trong việc tính toán thuế thu nhập doanh nghiệp thì
phương pháp này cũng phải được sử dụng trong các báo
cáo tài chính cho các cổ đông. Chẳng hạn, vào cuối những
năm 20 của thế kỷ 20, nhiều doanh nghiệp kể cả Dupont,
General Motors, Kodak và Sears đã chuyển từ phương pháp
FIFO sang phương pháp LIFO khi mà chỉ số giá cả tăng
mạnh trước đây thì việc chuyển từ FIFO sang LIFO đã đạt
được kết quả trong việc chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn
một cách đáng kể. Như hãng Dupont và General Motor
chuyển từ phương pháp FIFO sang phương pháp LIFO, mỗi

doanh nghiệp đã chi trả tiền thuế thu nhập thấp hơn khoảng
150 triệu USD, cùng lúc đó các doanh nghiệp này đã báo cáo
thu nhập thuần cho các cổ đông thấp hơn so với thu nhập
thuần mà có được do hãng vẫn sử dụng phương pháp FIFO
báo cáo tài chính cho các cổ đông.
Phương pháp bình quân trong tính giá hàng tồn kho là
phương pháp tạo ra sự quân bình ở giữa hai phương pháp
LIFO và FIFO trong việc ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán
và báo cáo kết quả kinh doanh. Phương pháp này không đưa
ra một dự kiến về thông tin giá phí hiện thời trên cả báo cáo
tài chính và báo cáo kết quả kinh doanh, nó cũng không giúp
việc giảm thiểu gánh nặng thuế cũng như không phát sinh
những kết quả nặng nề nhất khi có những thay đổi khác
nhau.
Tóm lại, sự khác nhau trong việc xác định giá vốn hàng
bán và trị giá hàng tồn kho cuối kỳ theo các phương pháp
tính giá khác nhau liên quan tới việc thay đổi giá phí mua vào
của các mặt hàng. Việc sử dụng giá cũ cho xác định trị giá
hàng tồn cuối kỳ trong phương pháp LIFO hoặc xác định giá
vốn hàng bán theo giá cũ hơn trong phương pháp FIFO sẽ
chịu ít ảnh hưởng nếu giá cả ổn định. Khi chỉ số giá cả tăng
lên hoặc giảm xuống sẽ ảnh hưởng tới việc sử dụng đơn giá
cũ hoặc mới do thay đổi giá dẫn đến sự khác biệt lớn về giá
vốn hàng bán và bị giá tồn cuối kỳ giữa hai phương pháp
LIFO và FIFO. Sự khác biệt về giá vốn hàng bán và trị giá
hàng tồn cuối kỳ cũng liên quan tới tỷ lệ vòng quay của hàng
tồn kho. Nhìn chung xu hướng giá cả và các mục đích nhấn
mạnh chú trọng tới là điều quan trọng trong việc lựa chọn
phương pháp tính giá hàng tồn kho, các nhân tố khác cần
xem xét tính những rủi ro của sự giảm thiểu hàng tồn kho

cuối kỳ trong phương pháp LIFO; dòng tiền và sự duy trì
nguồn tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lựa
chọn phương pháp tính giá xuất song chưa được đề cập một
cách thấu đáo ở đây.
Trong một thị trường ổn định, khi giá không thay đổi thì
việc lựa chọn một phương pháp tính giá hàng tồn kho nào
không quan trọng lắm vì tất cả các phương pháp tính giá đều
cho cùng một kết quả khi giá không đổi từ kỳ này sang kỳ
khác.
Nhưng trong một thị trường không ổn định, giá cả lên xuống
thất thường thì mỗi phương pháp có thể cho một kết quả khác.
Cả 5 phương pháp trên đều được thừa nhận, song mỗi phương
pháp tính giá hàng tồn kho thường có những ảnh hưởng nhất
định trên báo cáo tài chính, vì vậy việc lựa chọn phương pháp
nào phải được công khai trên các báo cáo và phải sử dụng nhất
quán trong niên độ kế toán, không thay đổi tuỳ tiện để đảm bảo
nguyên tắc nhất quán trong kế toán.Trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc chung của kế toán và tuỳ theo điều kiện cụ thể về số
lượng hàng hoá, số lần nhập xuất, trình độ nhân viên kế toán,
điều kiện kho bãi mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính
giá hàng hoá xuất kho cho hợp lý và hiệu quả.
Ví dụ: Tình hình doanh nghiệp A (tháng 3 năm N):
Số dư đầu kỳ hàng hóa là 100 kg x 5.000 đ/kg.
1. Ngày 03/03 nhập hàng hóa 100 kg x 4.000 đ/kg.
2. Ngày 27/03 xuất hàng hóa 150 kg.
Tính giá gốc hàng hóa của doanh nghiệp A theo từng phương
pháp tính giá xuất kho.
Chú ý: Theo phương pháp đích danh, xuất 60 kg ở tồn đầu
kỳ và 90 kg mới nhập trong kỳ.
Bài giải:

 Theo phương pháp đích danh, giá gốc hàng hóa doanh
nghiệp A là:
60 x 5.000 + 90 x 4.000 = 660.000 đ
 Theo phương pháp nhập trước – xuất trước (FIFO), giá
gốc hàng hóa doanh nghiệp A là:
100 x 5.000 + 50 x 4 = 700.000 đ
 Theo phương pháp nhập sau – xuất trước (LIFO), giá
gốc hàng hóa doanh nghiệp A là:
100 x 4.000 + 50 x 5.000 = 650.000 đ
 Theo phương pháp bình quân gia quyền, giá gốc hàng
hóa doanh nghiệp A là:
150 x 4.500 = 675.000 đ
III. Tác động tới BCTC:
1. Bảng cân đối kế toán:
−Chỉ tiêu Hàng tồn kho phần A Tài sản ngắn hạn
−Chỉ tiêu Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước ở phần I Nợ
ngắn hạn A Nợ phải trả thuộc phần Nguồn vốn
−Chỉ tiêu Lợi nhuận chưa phân phối ở phần I Vốn chủ sở hữu
B Nguồn vốn chủ sở hữu phần Nguồn vốn
2. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
−Chỉ tiêu Giá vốn hàng bán ở cột A (số 4)
−Chỉ tiêu Chi phí bán hàng ở cột A (số 8)
−Chỉ tiêu Chi phí quản lý doanh nghiệp ở cột A (số 9)
−Chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế ở cột A (số 14)
3. Bảng lưu chuyển tiền tệ:
−Chỉ tiêu Tăng, giảm Hàng tồn kho ở phần Lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh trước thay đổi vốn lưu động
−Chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế
4. Bảng thuyết minh:
−Chỉ tiêu Hàng tồn kho ở phần Những thông tin bổ sung Mục

04
−Chỉ tiêu Thuế TNDN ở Mục 09 Thuế và các khoản phải nôp
Nhà nước phần Những thong tin bổ sung
−Chỉ tiêu Giá vốn hàng bán Mục 16 Giá vốn hàng bán phần
Những thong tin bổ sung

×