Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Báo cáo môn Tài Chính Tiền Tệ Vấn đề 1: Nguyên nhân gây nên tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam từ thời điểm cuối năm 2010 đến 2011. Tác động của nó đến nền kinh tế nước ta? Theo anh (chị) chúng ta phải làm gì để góp phần kiềm chế lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.5 KB, 13 trang )

Trường Đại học Nha Trang
Khoa Kế toán Tài chính

Báo cáo môn Tài Chính Tiền Tệ
Vấn đề 1: Nguyên nhân gây nên tình trạng lạm phát cao ở Việt
Nam từ thời điểm cuối năm 2010 đến 2011. Tác động của nó
đến nền kinh tế nước ta? Theo anh (chị) chúng ta phải làm gì
để góp phần kiềm chế lạm phát.
GVHD: Phan Thị Lệ Thúy
Nhóm 1_Chi hội 52DN1
1. Nguyễn Thị Minh Nguyệt
2. Trần Thị Hương
3. Phan Thị Hoài
4. Lê Nguyễn Thụy Vi
5. Võ Thị Mỹ Ngân
6. Trần Thi Kiều Oanh
7. Nguyễn Thị Lanh
8. Lại Thị Thanh Nhàn
9. Trần Thị Mai
10.Huỳnh Minh Tuấn
Phần mở đầu
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng
cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện
nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép
tối đa là 9% của mỗi quốc gia.Tình trạng kinh tế ở Việt Nam được diễn tả trong một bài
ca dao đang phổ biến như sau: Đau đầu vì điện/ Điên đầu vì đô (USD)/ Ngây ngô vì
vàng/ Ngỡ ngàng vì đất/ Ngất vì tỷ giá/ Ngã vì lãi suất/ Uất vì giá xăng.
Lạm phát đang là một vấn đề nóng bỏng được toàn xã hội quan tâm. Báo chí
ngoại quốc, trong nước những cơ quan tài chính và đầu tư quốc tế từ đầu năm tới nay
nói rất nhiều đến tình trạng lạm phát nghiêm trọng ở Việt Nam. Lạm phát ảnh hưởng
đến mọi giới trong xã hội kể cả chính quyền. Lạm phát làm giảm giá trị đồng tiền, ngăn


cản đầu tư tiết kiệm đầu tư, giảm sự phát triển kinh tế, tạo ra sự khan hiếm hàng hóa do
nạn đầu cơ tích trữ. Vậy nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở nước ta từ cuối năm 2010
đến nay là do đâu? Nó có tác động như thế nào đối với nền kinh tế cũng như đời sống
cuả nhân dân? Liệu có biện pháp gì để kiềm chế và cải thiện tình hình lạm phát ở nước
ta không? Xin mời cô và các bạn đến với báo cáo nghiên cưú của nhóm em để tìm hiểu
kĩ thêm về vấn đề này.
Chúng em xin cám ơn sự hướng dẫn của cô Phan Thị Lệ Thúy, do thời gian tìm
hiểu còn hạn hẹp, kiến thức về vấn đề chưa sâu sắc, nên bài báo cáo còn nhiều thiếu sót,
mong cô và các bạn góp ý để báo cáo của chúng em hoàn thiện hơn.
Phần Nội Dung
I, Tình hình lạm phát của nước ta hiện nay.
Như đã đề cập trong phần mở đầu, tình hình lạm phát của nước ta hiện nay được
báo chí ngoại quốc và trong nước đề cập đến rất nhiều. Bởi so sánh với các nước trong
khu vực Đông Nam Á và Đông Á , ngoại trừ Việt Nam, thì mức lạm phát rất thấp, 1%
như ở Đài Loan, 1.7% ở Mã Lai, 3.3% ở Thái Lan và cao nhất 6% ở Lào. Lạm phát ảnh
hưởng đến mọi giới trong xã hội kể cả chính quyền. Nếu sự lạm phát ở mức độ cao kéo
dài có thể tạo ra sự bất ổn xã hội và chính trị vì đa số người dân thuộc thành phần
nghèo, có đồng lương nhất định sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp của lạm phát giá
cả.
Chỉ số tiêu thụ (Consumer Price Index - CPI) thường được dùng để đo lường
mức lạm phát. Chỉ số tiêu thụ tăng 11.8% vào tháng 12, 2010. Vào tháng Ba năm nay
chỉ số này tăng 13.9% so với một năm về trước và tiếp tục đi lên trong tháng Tư với
con số 17.5%. Theo Tổng Cục Thống Kê của nhà nước đây là con số cao nhất kể từ
tháng 12, 2008. Cũng theo cơ quan này sự gia tăng của chỉ số tiêu thụ là do sự gia tăng
của chi phí giáo dục, lương thực, thực phẩm, nhà ở, và vật liệu xây cất. Theo báo cáo
của công ty chứng khoán Barclays Capital, giá thực phẩm tăng 24% trong 12 tháng vừa
qua. Barclays Capital dự đoán rằng mức lạm phát sẽ leo lên đến mức 21%-22% vào
giữa năm nay và trung bình là 17.5% cho cả năm, nếu giá thực phẩm trên thế giới tiếp
tục tăng và nhà nước thi hành quyết định tăng lương căn bản. Mức lạm phát có thể lên
đến 20% trước khi giảm xuống 13% vào cuối năm theo một dự kiến của Vietnam

Property Fund Ltd. Nhiều người e sợ rằng Việt Nam trở lại tình trạng lạm phát phi mã
gần 30% vào năm 2008. Trong khi đó nhà nước nhắm duy trì lạm phát ở mức tối đa là
7% cho cả năm 2011. Điều này xem ra không thể nào thực hiện được trên thực tế.
II, Cách tính chỉ số tiêu thụ CPI (Cunsumer price index).
1, Khái niệm:
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price
Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng
tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một
số hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng. ( Ví dụ như: gạo, thịt, cá, hàng may
mặc, xăng dầu, vật liệu xây dựng, điện, nước, )
2, Đặc điểm:
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá. Sự thay đổi của mức
giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát
tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP).
Việc tính toán CPI ở Việt nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. Quyền số để tính
CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ tháng 7 năm 2001. Quyền số này
dựa trên kết quả của hai cuộc điều tra là Điều tra mức sống dân cư Việt nam 1997-1998
và Điều tra kinh tế hộ gia đình năm 1999. Điều đáng chú ý là quyền số của nhóm hàng
Lương thực - Thực phẩm chiếm tới 47,9% trong khi Văn hoá - Thể thao - Giải trí chỉ
chiếm 3,8%.
3, Cách tính chỉ số tiêu thụ CPI:
Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch
vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời
điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá
cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công
thức sau:

CPIt = 100 x (Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t)/(Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ
gốc)
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
Công Thức:
(%)100
1
0
0
1


=
=
=
n
i
i
i
n
i
t
i
t
i
Q
P
Q
P
CPI
Trong đó:

P
t
i
là giá của giỏ hàng i tại thời điểm đang nghiên cứu

P
i
0
là giá của giỏ hàng i tại thời điểm gốc

Q
t
i
số lượng giỏ hàng i tại thời điển đang nghiên cứu

Q
i
0
số lượng giỏ hàng i tại thời điểm gốc
Ví dụ: Giỏ hàng hóa gồm trứng vịt lộn + trứng gà
+) Chọn năm 2010 làm năm gốc :
Trứng gà : 2000đ/ quả ; trứng vịt lộn : 3000đ/quả
+) Hiện tại ( 2011)
Trứng gà : 2500đ/ quả ;trứng vịt lộn : 3500đ/quả
+) Mua : 100 quả trứng vịt lộn + 50 quả trứng gà
===> CPI =[ ( 50x2500+100x3500)/ ( 50x2000+100x3500) ] x 100 = 118.75%.
III, Nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát ở nước ta từ cuối năm
2010 đến nay.
Lạm phát cao trong năm 2011 do nhiều nguyên nhân gây ra chứ không phải chỉ do sự
tăng giá của những nhu yếu phẩm.

 Nguyên nhân thứ nhất là nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao
bằng mọi giá, đặc biệt bắt đầu từ nhiệm kỳ 5 năm vừa qua của Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Mới đây chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không
thực tế: 7%-7.5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 10 năm tới. Trong
khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 11.8% vào năm 2010 cao hơn tất
cả những nước láng giềng. Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế
cao trong khi cần phải chế ngự nạn lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển,
chính phủ gia tăng chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) và hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có thể nói rằng lạm
phát hiện nay phần lớn do sức cầu kéo. Vào ngày 19/1 năm nay, ông Nguyễn
Văn Thao thuộc Ủy Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam còn tuyên
bố rằng một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là ổn định kinh tế vĩ
mô để duy trì mức độ phát triển.
 Ngoài ra Việt Nam còn có vấn đề bội chi ngân sách tương đương với 8.9% và
5.9% của tổng sản phẩm nội địa (gross domestic product – GDP) lần lượt trong
hai năm 2009 và 2010.
 Cán cân thương mại thiếu hụt thường xuyên trong nhiều năm vừa qua. Mức
thiếu hụt này tương đương với 8.9% và 10.2% của GDP trong 2009 và 2010.
Những con số này chứng tỏ rằng chi tiêu của nhà nước cao hơn thu nhập và nhu
cầu nhập khẩu cao hơn trị giá hàng xuất khẩu. Hai sự thiếu hụt này tạo áp lực
trên giá cả bằng cả hai tác động cầu kéo và chi phí đẩy.
 Nguyên nhân kế tiếp không kém quan trọng là việc gia tăng tín dụng quá cao,
trên 20% trong suốt 10 năm vừa qua, đôi khi lên đến 50.2% vào 2007 và 45.6%
vào năm 2009. Theo Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN), mức tín dụng tăng 27%
trong năm 2010, vượt quá mục tiêu 25%. Mức tín dụng chỉ tiêu cho năm 2011 là
23%. Nay mới hạ xuống dưới 20%. Ngoài ra, phần lớn những tín dụng này lại
được ưu tiên dành cho những DNNN, thường hoạt động kém hiệu quả, với
những điều kiện thuận lợi.
 Nguyên nhân thứ năm là năng suất của kinh tế Việt Nam thấp. Đây là hệ quả tất
yếu của một nền kinh tế xây dựng trên một khu vực nhà nước lớn với các DNNN

làm ăn thường là thua lỗ. Vào cuối năm 2010, công ty quốc doanh xây cất tầu
thủy Vinashin rơi vào tình trạng gần phá sản là một thí dụ mới nhất. Vinashin
hay là Vietnam Shipbuilding Industry Group, được thành lập vào năm 2005 với
số vốn 750 triệu USD từ công trái phiếu của nhà nước. Vào tháng 7, 2010, Việt
Nam công bố rằng Vinashin mắc món nợ chồng chất lên 4.4 tỉ USD, không có
khả năng trả nợ và bị đe dọa phá sản. Vào tháng 8, 2010, cựu chủ tịch Vinashin
Phạm Thanh Bình và một số viên chức điều hành bị bắt vì vi phạm luật lệ quản
trị, nhưng cho tới nay chưa có ai bị truy tố. Vào cuối năm 2010, Vinashin điều
đình với các chủ nợ để xin hoãn trả 60 triệu USD trên số nợ 600 triệu USD. Cho
đến đầu tháng 3 vừa qua, Vinashin vẫn chưa trả được nợ. Khả năng khai phá sản
có thể sẽ xảy ra.
 Nguyên nhân thứ sáu là chi phí gia tăng trong nhiều tháng vừa qua. Theo Nghị
Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia tăng giá
xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong
nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi
lĩnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm. Đây là một hiện
tượng chi phí đẩy.
Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh tế bất ổn nói
chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng giá xăng liên tục ba
lần kể từ đầu năm nay. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng lên đến 21,300
VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%.
 Nguyên nhân thứ bẩy là việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ). Trong 15 tháng
vừa qua, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng thời gian này trị
giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng US dollar (USD).
Trong lần thứ tư xảy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD. Hối
suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một USD. NHNN
quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức
và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm
ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân
thương mại vì làm giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam

mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia
tăng tính theo VNĐ.
IV, Tác động của lạm phát đến nền kinh tế của nước ta hiện nay.
Một trong những hậu quả của tình trạng lạm phát mà chúng ta đã thấy ở trên là
lạm phát làm giảm phát triển. Nhà nước sau cùng đã phải giảm chỉ tiêu phát triển 1% từ
7%-7.5% xuống 6.5% cho năm 2011 đặc biệt là ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực
hiện một số dự án đầu tư của nhà nước. Với lãi suất và đối với tình trạng kinh tế vĩ mô
bất ổn do lạm phát gây ra, các nhà đầu tư tư nhân có khuynh hướng giảm đầu tư hoặc
rút ra khỏi Việt Nam. Làm cho môi trường kinh doanh ở nước ta kém cạnh tranh hơn so
với các nước khác. Lạm phát cao, biến động liên tục đã làm gia tăng chi phí sản xuất,
giảm lợi nhuận; làm cho các kế hoạch đầu tư trung và dài hạn trở nên rủi ro hơn và
không dự tính được một cách chắc chắn. Hệ quả là, các doanh nghiệp nói chung không
những phải cắt giảm đầu tư phát triển, mà có thể phải cắt giảm cả quy mô sản xuất hiện
hành để đối phó với lạm phát cao.
Nạn lạm phát làm cho đồng tiền VNĐ yếu đi và mất giá. Người tiêu thụ bớt tin
tưởng vào VNĐ và do đó họ có khuynh hướng giữ vàng hoặc ngoại tệ. Mới đây NHNN
đã áp dụng một số biện pháp để giảm bớt hiện tượng dollar hóa thị trường bằng cách
kiểm soát chợ đen, tăng tỉ lệ dự trữ USD từ 4% lên đến 6%, và giới hạn lãi suất dành
cho tiền USD ký quỹ xuống còn 3%. Kể từ khi có cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
vào năm 2008, các đồng nội tệ Châu Âu đều lên giá so với USD và mức lạm phát tối đa
chỉ bằng một nửa của Việt Nam. Chỉ riêng tiền của Việt Nam bị mất giá. Đây là một
thử thách đối với Việt Nam.
Vì đồng VNĐ mất giá cho nên dân chúng thu mua và tích trữ vàng và đồng
USD. Các cơ sở kinh doanh không bị đòi hỏi phải bán giữ ngoại tệ cho ngân hàng
trung ương. Do đó những cơ sở này cũng lưu trữ ngoại tệ. Trong khi đó, mức tồn trữ
ngoại tệ của NHNN quá thấp. Kể cả vàng mức dự trữ ngoại tệ của NHNN vào cuối năm
2010 là 15.5 tỉ USD, tương đương với 1.9 tháng trị giá nhập cảng theo báo cáo của Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế.
Tình trạng cán cân thương mại thiếu hụt do nhập nhiều hơn xuất khẩu kéo dài
quá lâu đã làm hao mòn dự trữ ngoại tệ. Trong thời gian từ 2005-2010, tổng số nhập

siêu của Việt Nam là 47.3 tỉ USD hay trung bình mỗi năm là 7.9 tỉ USD. Thêm vào đó
là nạn đầu tư vô tội vạ của các tập đoàn kinh tế quốc doanh. Thay vì chú trọng vào việc
sản xuất, một số tập đoàn này lại đầu tư vào dịch vụ kinh doanh phi sản xuất như chứng
khoán và nhà đất. Đó là những lý do làm cho Việt Nam đang trải qua tình trạng khan
hiếm ngoại tệ khiến cho các nhà nhập khẩu gặp khó khăn khi thu mua ngoại tệ để mua
hàng từ nước ngoài.
Theo một số báo ở trong nước, xăng trở nên khan hiếm, đặc biệt tại các tỉnh ở
miền Tây Nam phần giáp ranh với Campuchia, sau khi có quyết định tăng giá xăng.
Báo SGGP tường thuật rằng nhiều trạm chỉ bán xăng nhỏ giọt, hoặc đề bảng hết xăng,
hoặc tạm đóng cửa để sửa chữa. Vụ khan hiếm xăng dầu ảnh hưởng đến những người
sống về dịch vụ chuyên chở bằng ghe máy, thuyền máy, hay xe hơi.
Lạm phát nói chung ảnh hưởng đến lương bổng của công nhân và những dân
nghèo ở nông thôn một cách mạnh mẽ. Vì giá xăng dầu và điện gia tăng, các công ty
chuyên chở đã tăng chi phí chuyên chở bằng 15%-20%. Các công ty đường sắt cũng gia
tăng lệ phí 25% kể từ 1/4/2011. Những công ty hàng không cũng có những quyết định
tương tự. Cuối cùng chỉ có những người tiêu thụ chịu mọi hậu quả.
Một cuộc điều tra dư luận của 2,100 công nhân tại bảy thành phố và tỉnh do
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam thực hiện vào cuối tháng 11, 2010 cho thấy rằng
chỉ có 3.9% số người hồi âm là thỏa mãn với số lương bổng, trong khi đó 50.9% không
hài lòng. Vào năm 2010, ở Việt Nam có khoảng 216 vụ đình công xẩy ra. Trong hai
tháng đầu của năm nay, có trên 20 vụ đình công liên hệ tới lạm phát mà phần lớn là ở
tại những công ty đầu tư nước ngoài sản xuất quần áo, giầy, và đồ điện tử với lương
bổng rất thấp và điều kiện làm việc nghèo nàn.
V, Giải pháp nhằm cải thiện tình hình lạm phát của nước ta hiện
nay.
1. Nhóm biện pháp tình thế:
Trước tình trạng lạm phát gia tăng, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
số 11/NQ-CP ngày 24-02-2011 đưa ra 7 giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Thi hành nghị quyết này, nhà nước đã cho thi hành chính sách siết chặt tiền tệ

bằng cách tăng lãi suất và cắt giảm mức gia tăng tín dụng. NHNN đã tăng lãi suất tài
trợ (refinance rate) lên đến 14% và lãi suất chiết khấu (discount rate) lên đến 13%. Các
lãi suất mới bắt đầu có hiệu quả từ 1/5/2011. Cũng về mặt tiền tệ, NHNN nhắm cắt
giảm mức gia tăng tín dụng từ 23% xuống còn 18%-19% trong năm nay.
Để gia tăng kiểm soát thị trường vàng và ngoại hối, chủ yếu là đồng USD, hầu
bảo vệ đồng nội tệ và ổn định tỷ giá, nhà nước ra lệnh cấm buôn bán vàng miếng trên
thị trường tự do, cấm trao đổi bằng đồng USD và đồng thời “thực hiện các biện pháp
cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý,
bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản
xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.”
Nhà nước dễ dàng ban hành biện pháp cấm đoán trên, nhưng khó mà có thể kiểm
soát việc thi hành. Vì vậy, hiệu quả của biện pháp này đối với vấn đề chống lạm phát
chưa có thể kết luận được.
Vào cuối tháng 4 vừa qua, nhà nước Việt Nam trình bày dự định thực hiện một
số biện pháp tài chính song song với các biện pháp tiền tệ để chống lại nạn lạm phát
bao gồm việc giảm bớt chương trình đầu tư công, cắt giảm bội chi ngân sách xuống
dưới 5% của GDP, và giảm những chi phí thường xuyên 10% trong 9 tháng còn lại của
năm 2011. Tuy nhiên, nhà nước xem ra rất chậm chạp về lĩnh vực này vì thực tế cho
thấy chưa có biện pháp tài chính nào được thực hiện. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư gửi 10
phái đoàn đến các địa phương để nghiên cứu các dư án đầu tư của nhà nước, nhưng
chưa công bố những dự án nào cần phải loại. Một thành viên của Ủy Ban Kinh Tế của
Quốc Hội cho biết rằng không nơi nào muốn những dự án của họ bị hủy bỏ vì những dự
án này mang tiền đến địa phương và cho ngay chính họ. Theo TS Trần Du Lịch, thành
viên Hội Đồng Tư Vấn Chính Sách Tài Chính và Tiền Tệ Quốc Gia, một trong những
lý do của sự chậm trễ này chính là không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngân sách quốc
gia và ngân sách địa phương.
Phải bảo đảm cung cầu những mặt hàng hóa thiết yếu. Ngày 6/10, Phó Thủ
tướng Hoàng Trung Hải đã chủ trì Hội nghị trực tuyến với 22 địa phương, bộ, ngành và
5 Tổng công ty chuyên phân phối các mặt hàng thiết yếu trong nước. Hội nghị đã tập

trung làm rõ những vấn đề chủ yếu trong công tác bình ổn thị trường một số mặt hàng
thiết yếu, các biện pháp bảo đảm cân đối cung cầu. Trong đó, nhiệm vụ điều tiết, bình
ổn thị trường, nhất là đối với những mặt hàng thiết yếu, không để xảy ra thiếu hàng, sốt
giá là nhiệm vụ quan trọng. Một định hướng chính sách cần được quan tâm là đầu tư
phát triển cụm ngành, công nghiệp hỗ trợ để giảm nhập khẩu, tăng hàm lượng nội địa
và giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu. Cần phải tập trung đầu tư mở rộng năng lực sản
xuất các mặt hàng có lợi thế xuất khẩu. Cụ thể ở đây là 8 mặt hàng (sản phẩm nhựa, gỗ,
hàng thủ công mỹ nghệ, dệt may, điện tử - điện lạnh và linh kiện, dây điện và cáp điện,
cơ khí, vật liệu xây dựng). Đồng thời, cần định hướng phát triển xuất khẩu một số mặt
hàng có tiềm năng như giày dép, công nghiệp phần mềm, nâng cao giá trị xuất khẩu
hàng nông sản hướng vào chế biến sâu, có hàm lượng khoa học công nghệ ngày càng
cao.
Thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, trong sản xuất thực hành tiết
kiệm nguyên nhiên vật liệu. Có những sáng chế mới cải tiến máy móc gia tăng sản xuất,
mở rông sản xuất phải đi đôi với bảo về môi trường, tài nguyên thiên nhiên. Về tiêu
dùng cần có những chính sách khuyến khích “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam”, đánh thuế cao những mặt hàng xa xỉ…
Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, an sinh xã hội(ASXH)
thể hiện quyền cơ bản của con người và là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, văn
minh và không có sự loại trừ. ASXH có nguyên tắc cơ bản là đảm bảo sự đoàn kết, chia
sẻ và tương trợ cộng đồng đối với các rủi ro trong đời sống, do vậy có tác dụng thúc
đẩy sự đồng thuận, bình đẳng và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống ASXH
thông qua tác động tích cực của các chính sách chăm sóc sức khỏe, an toàn thu nhập và
các dịch vụ xã hội, sẽ nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu lao động
nói riêng và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế nói chung.
Quản lý, kiểm soát chặt hoạt động thị trường ngoại tệ phi chính thức, rà soát, cắt,
hoãn, giảm và điều chuyển vốn đầu tư nhà nước, thực hiện trợ cấp cho các tầng lớp,
nhóm dân cư thu nhập thấp, ưu tiên tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho nông
nghiệp và nông thôn, cho xuất khẩu, lập danh mục hạn chế nhập, giảm nhập khẩu, giảm
thâm hụt cán cân thanh toán,.v.v…

Những biện pháp tiền tệ không đủ để ngăn chặn lạm phát mà nhà nước cần phải
thi hành những biện pháp tài chính, đặc biệt là cần phải cải tổ toàn diện khu vực
DNNN, nguồn gốc của những đầu tư thiếu hiệu quả và phí phạm tài nguyên quốc gia.
2, Nhóm biện pháp chiến lược.
Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ những giải pháp điều tiết kinh tế vĩ mô.
 Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt phù hợp với diễn biến thi
trường tiền tệ.
 Tiếp tục cải thiện cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt bám sát về cung cầu ngoại tệ
trên thị trường.
 Sử dụng công cụ hạn nghạch, thuế,….để điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu
những mặt hàng dễ gây biến động: gạo, sắt thép,…cần dự trữ các mặt hàng trên
 Thực hiện tốt các công tác kiểm tra quản lí thị trường để tránh đầu cơ tích lũy.
 Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng. Phát triển thị trường vốn; khuyễn khích
đầu tư dài hạn
 Mở cửa kinh tế theo xu hướng hội nhập, phải tôn trọng thị trường; hạn chế bù lỗ
bù lãi.
 Phải khởi động ngay các giải pháp kích hoạt quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, trong đó, trọng tâm là đổi mới cơ chế phân bố và sử
dụng nguồn lực theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
Phần Kết Luận
Hiện nay Việt Nam ở vào tình trạng tứ bề thọ địch về phương diện kinh tế. Những nhà
hoạch định kinh tế phải đương đầu với các mục tiêu khác nhau mà những biện pháp áp
dụng sẽ tạo ra những ảnh hưởng trái ngược nhau: giảm lạm phát, duy trì phát triển,
giảm đầu tư công, duy trì khu vực DNNN, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, cân bằng
ngân sách và cán cân thương mai. Qua những chỉ thị về ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ
thực hiện một số dự án đầu tư của nhà nước cho 2011, Nghị quyết 11 cho thấy nhà
nước đã không tiên đoán được tình trạng lạm phát nói riêng và kinh tế vĩ mô khó khăn
nói chung hiện nay.
Tình trạng kinh tế khó khăn của Việt Nam hiện nay không phải chỉ giới hạn ở vấn đề
lạm phát nghiêm trọng. Thật sự lạm phát chỉ là mặt nổi của một tình trạng đáng e ngại

hơn. Đó là một sự bất ổn kinh tế toàn diện, từ ngân sách quốc gia thiếu hụt, khu vực
DNNN lỗ lãi, cán cân thương mại mất cân bằng, thị trường bong bóng nhà đất, đầu tư
thiếu kiểm soát, khan hiếm ngoại tệ, cho đến tiền VNĐ mất giá, và nhất là đời sống dân
nghèo cơ cực hơn. Cải tổ khu vực quốc doanh là một việc làm cấp thiết hiện nay nếu
Việt Nam muốn tiến một cách bền vững, muốn loại bỏ những sự phung phí tài nguyên,
và muốn ngặn chặn tình trạng lạm phát tận gốc một cách hiệu quả.

×