Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CÙNG KHÁM PHÁ: PHÁT HIỆN GIẾNG CỔ 2.000 NĂM Ở QUẢNG TRỊ VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 12 trang )

CÙNG KHÁM PHÁ:
PHÁT HIỆN
GIẾNG CỔ 2.000
NĂM Ở QUẢNG
TRỊ VIỆT NAM.
Ngành văn hóa tỉnh Quảng Trị
đang khẩn trương lập dự án khôi phục hệ
thống khai thác nước cổ ở xã Gio An (Gio
Linh), có niên đại khoảng 2.000 năm.
Hệ thống công trình khai thác nước cổ gồm 30 giếng nước sử
dụng chất liệu đá xếp, có kiến trúc độc đáo, đa chức năng nằm ở
xã Gio An, huyện Gio Linh. Người địa phương thường gọi giếng
cổ, sử dụng nước giếng phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận 14 giếng tiêu biểu là di
tích quốc gia vào năm 2001.
Có 3 loại giếng riêng biệt, gồm giếng máng, ao và bi. Người dân
cho biết giếng nước trong vắt, ngọt lành, đông ấm hè mát. Nhiều
người vẫn múc nước giếng để uống.
Giếng máng gồm một bể lắng ở trên cùng, nước được dẫn ra
bằng hai máng dài, phía dưới là bể chứa rộng 20-40 m2, sâu một
m, hình tròn để người dân sinh hoạt, phía ngoài có bể nhỏ cho
trâu bò, súc vật, cuối cùng là mương dẫn nước phục vụ sản xuất
nông nghiệp.
Giếng ao được đào sâu ngang mạch nước ngầm rồi kè đá xung
quanh theo hình vành khăn, không có bể lắng và máng dẫn nước.
Nước ngầm đổ ra bể chứa rồi theo hệ thống mương ra ruộng
đồng. Do chỉ có một bể chứa nên sát họng nước ngầm, một tảng
đá lớn hình chữ nhật được đặt vào để tạo dòng nước chảy hai
bên, ngăn nước chảy ngược vào trong, làm ranh giới quy ước để
bên trong chỉ sử dụng cho ăn uống.
Loại cuối cùng là giếng bi, với các bi giếng hình trụ tròn khum


giống tang trống, được chế tác từ đá bazan nguyên khối, đường
kính khoảng 0,5 m. Mỗi giếng có khoảng 3-4 bi, sâu hơn một m.
Điều đặc biệt là các giếng này lợi dụng mạch nước ngầm, tự chảy
cả nghìn năm nay. Chủ nhân sáng tạo ra hệ thống khai thác nước
đặc biệt này là người bản địa cổ Chămpa. Từ những thế kỷ đầu
Công nguyên, họ đã xây dựng hệ thống dẫn thủy liên hoàn với
giếng, mương, hồ, đập nước…, dùng đá xếp ở vùng đồi đất đỏ
bazan phục vụ thiết thực cho sinh hoạt và sản xuất.
Đây là di sản văn hóa có một không hai ở Quảng Trị, minh chứng
về nền văn minh nông nghiệp cổ của cư dân Chămpa, thể hiện lối
ứng xử khôn khéo, thông minh của con người trước tự nhiên
nhằm khai thác tốt tiềm năng của vùng đất họ gắn bó.
Nhờ nguồn nước giếng này, người dân địa phương trồng rất
nhiều rau liệt, biến nó trở thành món đặc sản riêng ở đây. Rau
liệt được chuyển đi nhiều tỉnh ở miền Trung, giúp người dân mỗi
năm bình quân thu khoảng 30 triệu/sào. Rau được trồng từ tháng
10 âm lịch và kéo dài khoảng 4-5 tháng.
Trải qua chiến tranh và sử dụng của con người sau này, nhiều
giếng bị thay đổi kiến trúc, một số bị thiên nhiên tàn phá. Trung
tâm bảo tồn di tích và danh thắng Quảng Trị đang lập dự án để
khôi phục nguyên trạng các giếng này.
Riêng giếng Đào ở thôn An Nha sẽ được khôi phục khẩn cấp để
chống lại tác động của thiên tai. “Giếng Đào tiêu biểu cho loại
hình giếng máng, nhưng nguồn nước hiện không chảy qua máng
dẫn do bể lắng bị sói lở”, ông Nguyễn Quang Chức, Phó giám
đốc Trung tâm cho hay.
Từ 3 năm qua, ông Chức đã liên hệ với các mỏ khai thác đá tại
Gio An đặt đá nguyên liệu cho công tác khôi phục. “Chất liệu xây
dựng các giếng phải là đá bazan nguyên khối, có hình thù và kích
thước theo yêu cầu như máng nước phải tạo từ khối đá hình trụ

tròn dài khoảng 1,5 m, hay trong các giếng ao phải đặt khối đá
hình chữ nhật kích thước lớn. Hệ thống mương dẫn nước cũng
phải khôi phục bằng đá tự nhiên, không sử dụng đá chẻ”, ông
Chức thông tin.
Do các giếng nằm ở khu vực không có đường cho phương tiện cơ
giới nên việc khôi phục phải làm hoàn toàn sức người. Dự kiến
kinh phí khôi phục các giếng khoảng 3 tỷ đồng.
Trung tâm bảo tồn di tích và danh thắng Quảng Trị cũng đang
lập hồ sơ để nâng cấp hệ thống khai thác nước cổ thành di tích
đặc biệt quốc gia. Về lâu dài, ngành văn hóa tỉnh Quảng Trị
hướng đến đưa giếng cổ thành di sản thế giới.
Sưu tầm.

×